Nhìn
lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng
việc bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng nhiều biện pháp khác nhau: một mặt, xây
dựng quan hệ bang giao, hòa hiếu, hữu nghị với các nước láng giềng; mặt
khác, chủ động xây dựng lực lượng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới kế sách
bảo vệ Tổ quốc từ xa. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
là một” và căn dặn toàn dân, toàn quân Việt Nam: “Các vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Kế
thừa quan điểm, tư tưởng, bài học kinh nghiệm quý báu ấy, Đảng và Nhà nước Việt
Nam tiếp tục khẳng định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là cần
bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, đồng thời triển khai toàn diện trên mọi lĩnh
vực, phương diện của đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ, để thực
hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nhiệm vụ là
chúng ta phải “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế”. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội XIII cũng
chỉ rõ: “nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế”. Điều này thể hiện sự đổi mới tư duy về đối ngoại và
hợp tác quốc phòng của Đảng ta, đồng thời cũng cho thấy vai trò của công tác
đối ngoại và hoạt động đối ngoại quốc phòng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam. Trong đó, ngoại giao được coi là tuyến phòng thủ đầu tiên
để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và quân đội được coi là lực lượng then chốt
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cụ thể:
Một
là, sự đổi mới tư duy về đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Đảng và
Nhà nước Việt Nam được thể hiện thông qua các kỳ Đại hội (từ Đại
hội VI đến Đại hội XIII). Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có sự đổi mới về
tư duy đối ngoại, tạo bước chuyển trong mọi hoạt động hợp tác quốc phòng,
chuyển từ tình trạng “đối đầu” sang “đối thoại”, “thêm bạn, bớt thù”, “kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”. Đại hội
VII đã đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình. Đại hội VIII khẳng định “Hợp tác nhiều mặt, song phương
và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế”; “đa phương hóa và đa dạng hóa
các quan hệ đối ngoại” với phương châm “muốn là bạn của tất cả các nước”.
Năm
2003, Đảng ta đề ra Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thay đổi
quan niệm bạn - thù sang linh hoạt xác định đối tác, đối tượng; lĩnh vực hợp
tác quốc phòng đã được đề cập cụ thể hơn trong các văn kiện Đại hội. Đại hội IX
xác định “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng
quan hệ đối tác và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong quan hệ quốc tế.
Với tinh thần này, đối ngoại và hợp tác quốc phòng được triển khai mạnh mẽ tại
các diễn đàn khu vực và quốc tế, cả trên bình diện song phương và đa phương.
Đại hội X khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc
tế và khu vực”. Đại hội XI bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định:
“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi
ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đáng chú
ý, lần đầu tiên trong các kỳ Đại hội của Đảng, công tác đối ngoại quốc phòng
được khẳng định rõ ràng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội XI của Đảng đã xác định nhiệm vụ quan trọng “Tiếp tục mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”. Thực hiện chủ
trương hội nhập quốc tế của Đại hội XI, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số
806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng
đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, trong đó nhấn mạnh, hội nhập quốc tế và
đối ngoại quốc phòng là định hướng, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng biện pháp
hòa bình. Thực hiện hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng cả song phương và
đa phương đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc. Đây là định hướng cơ bản, tạo
nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc
phòng lên tầm cao mới, đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội XII tiếp tục khẳng định “chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục
phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đại hội XIII chỉ rõ, một trong
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025
là “nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi
trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”. Để cụ thể hóa
quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
22-NQ/TW, ngày 10/4/2013, “Về hội nhập quốc tế”, trong đó lần đầu tiên nêu rõ
những định hướng hội nhập quốc phòng, gồm: “Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song
phương về quốc phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước
lớn, các nước bạn bè truyền thống” và “Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế
đa phương về quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ
chế trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo”.
Có
thể thấy, sự đổi mới tư duy về đối ngoại và hợp tác quốc phòng đã được hoàn
thiện sâu sắc hơn qua các kỳ Đại hội, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất
nước qua từng thời kỳ. Đặc biệt, đối ngoại và hợp tác quốc phòng ngày càng được
coi trọng và được coi là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp
hòa bình. Sự đổi mới về tư duy đối ngoại này của Đảng đã góp phần thúc đẩy hợp
tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng ngày càng sâu rộng, hiệu quả, góp phần
thực hiện thắng lợi chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện của Đảng và
Nhà nước ta.
Hai
là, sự nhất quán trong chủ trương, mục tiêu hợp tác quốc phòng. Sách
trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2004 xác định, chủ trương đối ngoại quốc phòng là
“thiết lập và phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, hiểu
biết lẫn nhau với lực lượng vũ trang các nước khác” Sách trắng Quốc phòng
Việt Nam năm 2019 nhấn mạnh: “Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác
quốc phòng với tất cả các nước”; “sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng
trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát
triển” trên tinh thần “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới
bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào” và “Việt Nam
tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an
ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”. Với mong muốn “thêm bạn, bớt thù”, Việt Nam
chủ trương tăng cường hợp tác quốc phòng song phương và đa phương với các nước,
tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, cùng có lợi, sẵn sàng tham gia giải quyết những
thách thức an ninh chung trên cơ sở tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế, như
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 xác định: “Việt Nam xem xét tham gia các
cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh đa phương và cơ quan pháp lý quốc tế khác
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia”.
Có
thể thấy, chủ trương đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Việt Nam đã thể hiện
rõ bản chất của Quân đội Nhân dân Việt Nam là yêu hòa bình, vì hòa bình, chiến
đấu để bảo vệ hòa bình, mang tính chất tự vệ để bảo vệ chính nghĩa.
Với
phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, năng động, sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù
hợp với đặc điểm từng đối tượng và chức năng nhiệm vụ đặc thù của lực lượng vũ
trang, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là “góp phần vào công cuộc xây dựng
đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc, góp phần giữ vững hòa bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới”. Nghị
quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013, của Quân ủy Trung ương, xác định đối
ngoại quốc phòng nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn
hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình; tạo điều kiện thuận lợi
cho các lĩnh vực khác hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, đối ngoại quốc phòng còn nhằm mục tiêu
duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực và thế giới; thể
hiện trách nhiệm trước các vấn đề của khu vực và cộng đồng quốc tế.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét