Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây là triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát
triển đất nước theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt
Nam. Nội dung của quy luật này gồm học thuyết giải phóng và học thuyết phát
triển, trong đó chứa đựng cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính quyền, trong
Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta một
lần nữa, Người kêu gọi: “Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ quốc”.
Hai
tháng sau khi đồng bào miền Nam bước vào cuộc kháng chiến, ngày 25/11/1945,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”. Thực dân
Pháp và các thế lực phản động đang âm mưu thôn tính nước ta, “cuộc cách mạng
Đông Dương lúc này vẫn là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng… Giai cấp vô
sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu
hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, “Kẻ thù chính của ta lúc
này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Chỉ
thị “Kháng chiến, kiến quốc” đã thể hiện rõ tư tưởng trong khi đặt nhiệm vụ
kháng chiến lên hàng đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời coi trọng nhiệm vụ xây
dựng đất nước về mọi mặt; xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ
mới; phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế
quốc xâm lược, kiến quốc để xóa bỏ tàn dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng
cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ chiến lược này được kết hợp chặt chẽ
trong suốt quá trình chiến tranh cách mạng. Bên cạnh đó, Chỉ thị đề ra những
nhiệm vụ cụ thể về nội chính, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, chỉ rõ
những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ Chính phủ, về kháng chiến ở miền Nam và
đoàn kết với nhân dân các nước…
Để
đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào tăng
gia sản xuất, “thực túc, binh cường”. Người nhấn mạnh: “Vì cứu quốc, các chiến
sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng
ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai
bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công
với dân tộc, đều là anh hùng”.
Thực
hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, quân và dân ta đã giải quyết cả
ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm;
không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm thúc đẩy cả hai mặt
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, vùng tự do được bảo vệ, vùng giải phóng
ngày càng được mở rộng; từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới trong
vùng ta kiểm soát, thực hiện được “thực túc, binh cường” và giải quyết vấn đề
vũ khí, trang bị, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Bên cạnh việc đánh và cướp vũ
khí của địch, Chính phủ đã phát động nhân dân tự tạo, sắm sửa vũ khí, đồng thời
xây dựng các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa, cải tạo vũ khí. Đại hội II của
Đảng (2/1951), với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương: Các mặt công tác chính trị, kinh
tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi, đồng thời đấu tranh
quân sự phải kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế.
Với
tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dựng nước và giữ nước trong từng thời điểm lịch sử cụ
thể, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới thắng lợi.
Sau
cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, Mỹ - Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định
Giơ-ne-vơ, đàn áp dã man những người cộng sản và đồng bào yêu nước. Trong báo
cáo “Tình hình mới, nhiệm vụ mới” tại Hội nghị Trung ương 6, ngày 17/7/1954,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân
dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông
Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ” và “chống Mỹ,
cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”. Đồng
thời, Người chỉ rõ vai trò của miền Bắc trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất
nước nhà: “Nền có vững, nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt. Miền Bắc là nền
tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm
cho nó thật vững, thật mạnh”.
Khai
mạc Đại hội lần thứ III của Đảng (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Đại hội xác định
những nhiệm vụ của cách mạng ở hai miền Nam - Bắc. Nhiệm vụ của miền Bắc là xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thuộc chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ
của miền Nam là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thuộc chiến lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Song cách mạng hai miền đều có mục tiêu
chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện
hòa bình, thống nhất đất nước. Hai nhiệm vụ chiến lược nói trên có quan hệ mật
thiết, thúc đẩy lẫn nhau. Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là
nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, trong đó có sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Cách mạng miền
Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam và
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đến đây, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng đã phát triển lên một
trình độ mới, trở thành đường lối cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng toàn Đảng đã vận dụng và xử lý hài hòa quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực
hiện đường lối trên, miền Bắc thể hiện xuất sắc vai trò của mình, đó “vừa là
căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu
chiến Mỹ”. Chỉ có lập trường kiên định chống xâm lược, có chế độ chính trị ưu
việt, có cách tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống xã hội tốt, miền Bắc mới có
thể làm tròn nghĩa vụ với tiền tuyến lớn, làm tròn vai trò lịch sử của mình.
Đặc
biệt, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là việc giải quyết
nhuần nhuyễn, sáng tạo quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Đó là, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước
ta vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ và kẻ thù đã đứng
chân ngay trên đất nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta
có miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn trong sự thống trị của đế quốc
Mỹ và tay sai. Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến
quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước có khác nhau.
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, trong 30 năm kháng chiến, nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc có mối quan hệ mật thiết, bền vững, thúc đẩy lẫn nhau. Có xây
dựng được vùng tự do, cụ thể là xây dựng được miền Bắc vững mạnh mới có đủ sức
mạnh chiến thắng kẻ thù. Ngược lại, có đánh bại được mọi âm mưu chiến lược của
địch mới có thể bảo vệ vững chắc vùng tự do và hậu phương chiến lược, tiến tới
giải phóng hoàn toàn Tổ quốc. Đây cũng là bài học quý báu trong thời bình. Chỉ
có xây dựng đất nước giàu mạnh với chế độ tốt đẹp, chế độ xã hội chủ nghĩa, mới
tạo ra được nguồn lực dồi dào cho sự nghiệp giữ nước. Và, chỉ có xây dựng được
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù thì mới giữ được
hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét