Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2020

Không còn tôn giáo khi xã hội không còn nguồn gốc sinh ra tôn giáo

 


 Nguồn gốc tự nhiên của tôn giáo

V. I. Lênin "sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu"[1]

Nguồn gốc kinh tế- xã hội

V.I. Lênin "Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đã đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, những phép màu"[2]

 Nguồn gốc nhận thức

V. I. Lênin "nhận thức của con người không phải là (không đi theo) một đường thẳng, mà là một đường cong đi gần vô hạn, đến một loạt những vòng tròn đến một vòng xoáy ốc. Bất cứ đoạn nào, mảnh nào, đoạn nào của đường cong ấy cũng có thể chuyển hóa (chuyển hóa một cách phiến diện) thành một đường thng độc lập, đầy đủ, đường thẳng này (nếu chỉ thấy cây, không thấy rừng) sẽ dẫn đến vũng bùn, đến chủ nghĩa thầy tu (ở đây nó sẽ bị lợi ích giai cấp của giai cấp thống trị  củng cố lại). Tính đường thẳng và tính phiến diện, sự chết cứng và cứng nhắc, chr nghĩa chủ quan và sự mù quáng chủ quan đó là những nguồn gốc về nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm"[3]

 Nguồn gốc tâm lý

V.I.Lênin "sự sợ hãi đã tạo ra thần linh"[4]

Như vậy nếu tự nhiên, xã hội, tư duy không xuất hiện nguồn gốc sinh ra tôn giáo, thì tôn giáo sẽ không xuất hiện.



[1] V.I. Lêni, tt, t.12, Nxb TB, M.1979, tr. 169- 170

[2] V.I. Lêni, tt, t.12, Nxb TB, M.1979, tr. 169- 170

[3] V.I. Lêni, tt, t.29, Nxb TB, M.1981, tr.385- 386

[4] V.I. Lêni, tt, t.17, Nxb TB, M.1981, tr.515

 

CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỚI QUAN ĐIỂM ĐÚNG ĐẮN VỀ TÔN GIÁO

 


 Theo quan điểm của Mác thì chính con người đã sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người. Tôn giáo giống như “thuốc phiện” - bởi cả hai tác dụng của chất này: gây nghiện và giảm đau. Tôn giáo dễ làm đầu óc nhân dân mụ mị, mê muội song nó cũng là “chất giảm đau” xoa dịu nỗi thống khổ của nhân dân. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” Ăngghen khẳng định: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người-những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó các lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật - lịch sử, có thể hiểu tôn giáo là trên phương diện nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

 Trên phương diện nghĩa rộng: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên"

 Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội; sinh ra từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tôn giáo phản ánh xã hội một cách hư ảo, sùng bái lực lượng siêu tự nhiên. Các hiện tượng sấm, chớp, mây mưa được thần thánh hóaĐạo Phật cho rằng vạn vật biến đổi theo chu trình bất tận: sinh-trụ-dị-diệt, bất tận không có điểm khởi đầu không có điểm kết thúc, giống như một vòng tròn luân hồi. Do  vậy chết không phải là hết mà là một sự tái sinh, đầu thai ở một kiếp khác theo vòng luân hồi. Công giáo cho rằng con người là do Chúa tạo ra. Con người có hai phần, thể xác và linh hồn. Thể xác là tạo vật như mọi tạo vật khác, linh hồn là phần sinh khí do Thiên chúa giáo truyền vào. Con người khi chết đi về với cát bụi, linh hồn tồn tại vĩnh viễn.

 Trên phương diện nghĩa hẹp: Tôn giáo là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức về lực lượng siêu nhiên, tổ chức, hoạt động tôn thờ lực lượng siêu nhiên.

Tôn giáo là một thực thể xã hội, một thiết chế xã hội- một lực lượng xã hội có tổ chức. Nó có hệ thống giáo lý, giáo luật, cơ sở thờ tự, giáo dân, tín đồ....

* Tín ngưỡng: Có nghĩa là sự ngưỡng mộ, niềm tin đến mức sùng bái vào một hay một số đấng siêu nhiên, lực lượng siêu tự nhiên nào đó và những sức mạnh có thể thu nhận được từ các đấng siêu nhiên được tin tưởng, ngưỡng mộ đến mức sùng tín.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ các vị anh hùng có công với dân tộc, cộng đồng…

Tín ngưỡng gồm có: tín ngưỡng dân tộc (truyền thống) là loại hình tín ngưỡng của từng dân tộc hoặc quốc gia dân tộc, hoặc vùng miền, địa phương; và tín ngưỡng tôn giáo là một loại hình tín ngưỡng phát triển đến trình độ cao, thể hiện ở chỗ có hệ thống giáo lý, hệ thống tổ chức, lễ nghi và hệ thống cơ sở vật chất phục vụ các sinh hoạt tôn giáo.

* Mê tín dị đoan: Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông quá mức, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Dị đoan là sự suy đoán một cách nhảm nhí, tùy tiện, sai lệch những điều xảy ra trong cuộc sống. Mê tín dị đoan là chỉ những hành động sai lệch quá mức, gây tổn hại cho cá nhân và cộng đồng, được tạo ra bởi niềm tin mù quáng, nhảm nhí, mê muội… Đây là một biến tướng của tín ngưỡng.

Các hiện tượng: bói toán, lên đồng, gọi hồn, chữa bệnh bằng gọi thầy cúng, trừ tà ma…

Như vậy, tín ngưỡng tôn giáo và mê tín dị đoan đều là niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên, là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh của con người. Nhưng đây là các hiện tượng tâm linh có nội dung, hình thức, đặc điểm và vai trò xã hội khác nhau, cần phải được phân biệt để có chính sách, biện pháp phù hợp

Theo đó, chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ ra bản chất của tôn giáo, đó là:

Tôn giáo, tín ngưỡng là sản phẩm của con người, con người đã sáng tạo ra tôn giáo, tín ngưỡng; Tín ngưỡng, tôn giáo phản ánh xuyên tạc, hư ảo hiện thực khách quan thành lực lượng siêu tự nhiên, là "thế giới quan lộn ngược"

Ăng ghen: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ảnh hư ảo- vào đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống của họ; là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức lực lượng siêu trần thế"[2]; Sự phản ánh này biểu hiện sự khốn cùng hiện thực và sự phản kháng tiêu cực của tầng lớp nhân dân bị áp bức

Mác, Ăng ghen: "Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[3].; Tôn giáo làm cho con người trở nên thụ động, cam chịu và tha hóa

Mác, Ăng ghen: "tính có thượng đế" trong lịch sử càng lớn bao nhiêu, thì tính phi con người, tính súc vật càng lớn bấy nhiêu. Thời trung cổ "có Thượng đế" cũng đã dẫn đến chỗ làm cho con người trở thành hoàn toàn như dã thú, dẫn đến chế độ nông nô"[4].

V. I. Lênin: "thứ rượu tinh thần làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm cách của con người và quên hết những điều họ đòi hỏi để được sống cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người".

 Tôn giáo cũng chứa những giá trị đạo đức, văn hóa nhất định phù hợp với sự phát triển của CNXH- xã hội văn minh, tiến bộ.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, tt, t.1, Nxb CTQG, H.2004, tr. 570

 

[2] Mác, Ăng ghen, t.20, H.1995, tr.437

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb CTQG, H.2004, tr. 570

[4] Mác, Ăng ghen, t.1, H.1995, tr.819

Các quan niệm ngoài mác xít về tôn giáo

 


Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đã tồn tại hàng nghìn năm. Kể từ khi xuất hiện, tôn giáo đã trở thành một yếu tố tham gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều phương diện của đời sống con người. Tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, với mong muốn tìm ra tiếng nói chung nhất về tôn giáo. Tuy nhiên đến nay, khái niệm tôn giáo vẫn đang là vấn đề tranh cãi trong giới nghiên cứu. Định nghĩa về tôn giáo phụ thuộc vào quan điểm và phương pháp tiếp cận của các nhà nghiên cứu.

Thuật ngữ tôn giáo bắt nguồn từ tiếng Latinh “Religion” có nghĩa là sự ràng buộc giữa cái hiện thực và cái hư ảo, siêu nhiên

Các nhà duy tâm

  Các nhà duy tâm, xem tôn giáo là sản phẩm có nguồn gốc siêu nhiên, nó là sản phẩm “bẩm sinh” chứ không phải là kết quả của sự vận động xã hội. Tôn giáo có vai trò sáng tạo ra loài người, xã hội, quy định hoạt động, quyết định số phận của các cá nhân và xu hướng vận động của xã hội.

Trong lịch sử nhân loại, "đêm trường trung cổ" chính là thời kỳ tôn giáo đã làm mưa gió trong xã hội con người- giáo hội cơ đốc đã trở thành trụ cột tinh thần của chế độ phong kiến ở Tây Âu. Trong thời kỳ này, "triết học kinh viện" là chỗ dựa chủ yếu của thần học. Đại biểu điển hình cho những triết gia kinh viện học đó là Tô-mát Đa Canh (1225-1274). Trong tư tưởng triết học của mình, ông đã chứng minh sự tồn tại của thượng đế, bênh vực chế độ phong kiến và âm mưu thống trị thế giới của giáo hoàng.

Theo ông, sự tồn tại của Thượng đế chỉ có thể được chứng minh trên cơ sở của kinh nghiệm, nghĩa là trên cơ sở tồn tại của thế giới như là sự sáng tạo của Thượng đế. Tômát đưa ra năm điều chứng minh:

1. Cần có cái động lực ban đầu, vì thế giới không phải là sự vận động vĩnh cửu;

2. Mục đích của những nguyên nhân tác động không thể là vô tận, nên cần phi có cái nguyên nhân đầu tiên;

3. Mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên, do đó cần tồn tại một cái tất nhiên tuyệt đối;

4. Các sự vật bộc lộ những giai đoạn hoàn thiện tuyệt đối;

5. Tính chất hợp lý của giới tự nhiên không thể giải thích bằng những nguyên nhân tự nhiên, cần phải tồn tại một thực thể lý trí siêu tự nhiên điều chỉnh thế giới.

 Như vậy theo Tômát, Thượng đế chính là động lực ban đầu, là nguyên nhân ban đầu, là cái tất nhiên tuyệt đối, sự hoàn thiện tuyệt đối cũng như là nguyên nhân tạo ra sự hợp lý của giới tự nhiên.

 Giáo hoàng đã bảo vệ và đề cao Tô-mát Đa-canh là "Thánh Tômát", gọi triết học của ông là "triết học chân chính duy nhất" của giáo hội cơ đốc.

 Tư tưởng triết học của Tô mát Đa canh vẫn còn ảnh hưởng mãi tới các nhà triết học duy tâm tư sản hiện nay. Sự lũng đoạn của triết học kinh viện là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc đấu tranh gay gắt trên lĩnh vực triết học thời kỳ phục hưng.

 Những người theo chủ nghĩa vô thần

Thời cổ đại: E-pi-quya phủ nhận sự can thiệp của thần thánh vào sự phát triển của tự nhiên và số phận con người, xã hội.

Con người muốn được hưởng tự do thì phải thoát khỏi sự sợ hãi trước thần linh, tự mình đấu tranh cho tự do.

Thời kỳ phục hưng:  Điđrô kịch liệt chống lại tôn giáo, ông cho rằng tôn giáo là một trong hai sợi dây thắt cổ, muốn chống lại sự áp bức phải cắt đi trước hết sợi dây tôn giáo.

 

Hãy cảnh giác với chiến lược “diễn biến hòa bình” của Địch về dân tộc, tôn giáo

             Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc, đa tín ngưỡng, tôn giáo. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các dân tộc, tôn giáo luôn luôn đoàn kết, chung tay đấu tranh chống “thiên tai, địch hoạ”, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo và công tác dân tộc, công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế làm mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự. Vì vậy cần phải nhận diện thật rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù để có phương thức ngăn chặn kịp thời.

Một số vấn đề cần lưu ý trong thực hiện chính sách dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay

 

 

Đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam phần lớn sống ở vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển nên khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản như giao thông, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe có nơi còn hạn chế. Các điều kiện về bảo đảm lương thực, nhu cầu ăn, và chỗ ở đảm bảo an toàn vẫn còn là thách thức đối với một số nhóm dân cư do sinh sống ở các khu vực có môi trường tự nhiên không thuận lợi. Bên cạnh đó, nảy sinh những vấn đề mới trong quá trình phát ưiển, như: tình trạng di cư tự phát ở một số khu vực, nhất là Tây Nguyên, đời sống của người dân bị tác động bởi việc tái định cư ở các công trình thủy lợi, thủy điện, còn nhiều khó khăn chưa được giải quyết thấu đáo.

Chất lượng giáo đục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, lao động trong độ tuổi qua đào tạo thấp, chỉ đạt từ 5-20% (tùy dân tộc) vẫn còn tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ cộng với trình độ văn hóa thấp đã hạn chế khả năng tiếp cận và hưởng thụ các thành quả phát triển gắn với tiêu chí về các quyền cơ bản. Cùng với đó, trình độ năng lực hạn chế, dẫn đến khả năng tự bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công đân của cá nhân được luật pháp thừa nhận cũng hạn chế do những phức tạp nảy sinh của đời sống xã hội.

Bản sắc văn hóa của một số dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa, nhất là các cộng đồng ở vùng nghèo dưới tác động của đời sống kinh tế - xẵ hội hiện đại, xâm thực văn hóa, xâm nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều tổ chức quản lý làng, bản truyền thống gắn với các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ (hoặc phá bỏ do chính sách phát trién gần đây), luật tục bị tháo bỏ hoặc không được công nhận cùng với một số giá trị sở hữu truyền thống. Sức bảo vệ trước dòng chảy văn hóa của một số cộng đồng dân tộc thiểu số trở nên suy yếu và cần có những chính sách trợ lực để bảo vệ bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc. Tình hình tín ngưỡng, tôn giáo vùng dân tộc có nhiều diễn biến phức tạp, nảy sinh những vấn đề mới, đạo lạ và truyền đạo trái phép.

Chất ỉượng và số lượng hoạt động của bộ máy hành chính, các tổ chức cung cấp dịch vụ công, việc thực thi nhiệm vụ, thi hành pháp luật của bộ máy công chức, viên chức nhà nước cũng là vẩn đề cần quan tâm trong việc thực thi chính sách, pháp luật, đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, đặc biệt đối với  đồng bào dân tộc thiều số. Sự hiểu biết, trách nhiệm và lòng kiên trì là những phẩm chất cần thiết đối vói những cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc và lĩnh vực dân tộc.

Tác động của nền kinh tế thị trường tạo điều kiện và phát huy tiềm năng phát triển vùng đồng bào dân tộc, là cơ hội cho đồng bào chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất. Kinh tế thị trường thúc đẩy trao đổi quan hệ hàng hóa - tiền tệ vào quan hệ kinh tế tự nhiên của đồng bào, tạo nên những biến đổi phức tạp trước dòng chảy của quy luật của thị trường. Mặc dù, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy tăng cường đầu tư vào khu vực miền núi, nhưng cũng làm gia tăng cạnh tranh không lành mạnh nếu không có sự kiểm soát và định hướng rõ ràng.

Ngoài ra, còn có những vấn đề chịu tác động, ảnh hưởng thế giới, khu vực và trong xu thế hội nhập, phát triển, đó là: sự phát triển thị trường kinh tế toàn khu vực; vấn đề tôn giảo, sắc tộc và xung đột vũ trang chi phối các vấn đề quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao giữa các quốc gia; quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở nhiều quốc gia và thế giới; sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin.

Những vấn đề trên ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số của nước ta hiện nay, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần có chính sách kịp thời để vùng dân tộc thiểu số phát triển

Những thành tựu trong thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam

 


Thành tựu lớn nhất trong thực hiện chính sảch dân tộc của Đảng, Nhà nước đến nay là: Tất cả mọi công dân không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giới đều bình đẳng về chính trị, bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sổng và bình đẳng trước pháp luật. Đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường, các dân tộc tôn trọng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước quan tâm và có chính sách ưu tiên đầu tư đối với các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu như: phát triển hệ thống giao thông nông thôn, điện, thủy lợi, nước sinh hoạt, các công trình trường học, trạm y tế. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã có sự chuyển biến rõ rệt; đây là những tiền đề, điều kiện quan trọng cho phát triển toàn điện, bền vững ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Sản xuất ở hầu hết các địa bàn vùng dân tộc đều phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng bào đã thay đổi phương thức canh tác truyền thống, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giống mới có chất lượng năng suất cao. Các huyện, xã đều có điển hình sản xuất giỏi; một số vùng đã có sản xuất hàng hóa với các sản phẩm chủ lực như cà phê, hồ tiêu, cao su (ở các tỉnh Tây Nguyên), lúa gạo (Điện Biên), chè (Thái Nguyên, Sơn La, Phú Thọ), cây ăn quả (Bắc Giang). Việc làm và thu nhập của người dân tăng lên. Tỷ lệ hộ nghèo các vùng giảm rõ rệt, đặc biệt ở những huyện nghèo trong Chương trình 30a (với 3-4%/năm). Đời sống, vật chất, tinh thần, chất lượng cuộc sống của đồng bào từng bước được cải thiện đáng kể.

Công tác giáo dục, đào tạo nhằm tăng cường nguồn nhân lực cho các dân tộc thiểu số đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cơ bản xóa được tình trạng mù chữ và thực hiện phổ cập giáo dục bậc tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi. Năm 2017, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số hoàn thành chương trinh tiểu học đạt 95%. Các loại hình trường nội trú, bán trú phát triển trên phạm vi cả nước với 314 trường dân tộc nội trú và 1.013 trường dân tộc bántrú. Đến nay đã có 50/54 dân tộc có người học từ trình độ cao đẳng, đại học trở lên”1.

Văn hóa các dân tộc tiếp tục được giữ gìn và phát huy. Thiết chế văn hóa cơ sở nhiều nơi được củng cố gắn với phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới. Đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng lên. Mạng lưới thông tin, phát thanh, truyền hình phủ rộng khẳp, giúp người dân tiếp cận được nhiều hơn chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đời sống chính trị, xã hội của đất nước, tiến bộ khoa học - kỹ thuật góp phần quan trọng mở mang dân trí. Các giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn, phát huy góp phần làm phong phú, sống động hơn văn hóa Việt Nam. Nhiều di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc được Tổ chức Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận (Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên) và một số di sản được công nhận là di sản quốc gia (Sử thi Đam San - Tây Nguyên, Hát then - dân tộc Tày, Nùng), v.v…

Công tác y tế có bước cải thiện đáng kể. Mạng lưới y tế ở vùng dân tộc phát triển. Đến nay, nhiều xã đã đạt chuẩn về y tế, có bác sĩ. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu được nâng lên, tiêm chủng mở rộng cho trẻ em được thực hiện đều khắp, nhiều dịch bệnh nguy hiểm được kiểm soát và đẩy lùi như bệnh sốt rét, bạch hầu, uốn ván. Đồng bào nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định. Đời sống mọi mặt của đồng bào các dân tộc không ngừng được cải thiện đã góp phần nâng cao chất lượng dân số và kiểm soát ban đầu tỷ lệ sinh tăng tự nhiên.

Hệ thống chính trị vùng dân tộc không ngừng được xây dựng, củng cố, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu lănh đạo nhân dân thực hiên nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vùng dân tộc và là người dân tộc thiểu số trong hệ thống chỉnh trị từng bước được nâng lên, nhất là cấp cơ sở, cả về số lượng và chất lượng.

Lành thổ và chủ quyền quốc gia ở các vùng biên giới được đảm bảo. An ninh chính trị và trật tự xã hội trong vùng dân tộc cơ bản ổn định. Hiện nay, đại đa số đồng bào các đân tộc thiểu số vẫn tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng bào đoàn kết, nâng cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch; đã và đang tham gia tích cực vào quá trình hội nhập với khu vực và thế giới của cả nước.

Những kết quả, thành tựu nêu trên cũng chính là những thuận lợi rất cơ bản đảm bảo cho sự phát triển toàn diện, bền vững của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG THỦ ĐOẠN CỦA CÁC ĐỐI TƯỢNG XẤU

 Những ngày qua, trước những diễn biến phức tạp của tình hình mưa lũ kéo dài tại một số tỉnh miền Trung, các “nhà dân chủ” giả hiệu, các thế lực thù địch đã “ký sinh” trên nỗi thương đau của đồng bào để “đục nước béo cò”, ráo riết đưa ra những luận điệu xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, bôi nhọ uy tín của các cấp chính quyền.
Các đối tượng sử dụng các mạng xã hội để đăng tải thông tin một chiều, thổi phồng, xuyên tạc thông tin với mục đích đánh lạc hướng dư luận, làm cho người đọc dần có sự chuyển hóa về mặt tư tưởng theo hướng tiêu cực.
Đặc biệt, với kỹ thuật cắt ghép, chỉnh sửa hình ảnh, kết hợp với lợi dụng lòng thương yêu trắc ẩn trong mỗi con người, qua đó tung lên mạng internet những hình ảnh đã được chỉnh sửa cùng các thông tin xấu độc nhằm tạo tâm lý bức xúc, bất bình trong nhân dân, dẫn dắt họ vào tư tưởng bất mãn, chống Đảng, chống Nhà nước, ủng hộ, cổ súy cho các hành vi sai trái, coi cường kỷ cương, phép nước.
Chẳng hạn như hình ảnh cậu bé bê bết bùn đất được tổ chức Việt Tân đưa lên mạng xã hội với chú thích một em bé Quảng Trị được cứu sống từ trong lòng đất, kèm theo đó là hàng loạt câu chữ xuyên tạc chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực tế đây là hình ảnh cậu bé Thái Lan bị ngã khi chơi đùa ngoài đồng ruộng, đã được báo chí đăng tải từ tháng 6/2020, 5 tháng trước khi lũ lụt xảy ra...
Thâm độc hơn nữa là việc các đối tượng rất biết tận dụng những chủ đề nóng, thu hút được nhiều sự quan tâm của dư luận để dựng chuyện, đặt điều xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín của các cơ quan, ban, ngành liên quan đến các hoạt động “thiện nguyện” giúp đỡ đồng bào miền Trung. Chẳng hạn như việc có đối tượng đã lập một kênh facebook giả mạo Ban Tuyên giáo Trung ương để đăng tải các bài viết thể hiện rõ sự miệt thị, xúc phạm đến những cá nhân, hội nhóm đang quyên góp ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở miền Trung.
Thậm chí, trang này còn lợi dụng việc một ca sĩ đang tích cực quyên góp hỗ trợ người dân để tung tin sai sự thật, nói xấu các cơ quan Nhà nước. Từ đó, các đối tượng khác sẽ giở trò “đâm bị thóc, chọc bị gạo” để lu loa, vu vạ cho rằng chính quyền “cản trở” lòng tốt của nhân dân, thậm chí còn tung tin đồn thất thiệt cho rằng đây là thủ thuật của Nhà nước để “ăn chặn” tiền cứu trợ của đồng bào lũ lụt...
Đây là những thông tin bịa đặt hết sức nguy hiểm, tấn công trực tiếp đến những chính sách đúng đắn của Nhà nước trong việc quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ để các nguồn cứu trợ nhân đạo đến đúng những người gặp khó khăn và cũng là để phòng ngừa, ngăn chặn hành động vụ lợi của những “con sâu, con mọt”.
Trước tình hình trên, Ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định đây hoàn toàn là những thông tin giả mạo, gây ảnh hưởng rất xấu, xúc phạm, ảnh hưởng đến uy tín của Ban Tuyên giáo Trung ương. Ông Vũ Thanh Mai - Chánh văn phòng Ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định, Ban Tuyên giáo Trung ương không có tài khoản mạng xã hội nào và sẽ đề nghị cơ quan chức năng điều tra xử lý nghiêm theo pháp luật các đối tượng cố tình lập ra tài khoản giả mạo hoặc chế ảnh mạo danh Ban Tuyên giáo Trung ương.
Trước những vấn đề như đã phân tích ở trên, mỗi người dân cần tỉnh táo nâng cao cảnh giác và ý thức công dân để trở thành một phần của lá chắn trước những luồng thông tin độc hại; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tố giác, đấu tranh với các tài khoản giả mạo, phản bác thông tin xấu, độc hại. Lên án những suy nghĩ lệch lạc, hành động “ăn cháo đá bát”, táng tận lương tâm, bôi nhọ những người xả thân, quên mình vì cuộc sống và sự bình yên của nhân dân. Đồng thời cũng đề nghị các cơ quan chức năng cần sớm xác minh, làm rõ, xử lý nghiêm minh những hành vi phạm pháp, vô đạo đức như vậy.

VĨNH HẰNG TRONG LÒNG DÂN

 Những ngày vừa qua, đông đảo cán bộ và người dân cả nước nhiều lần rơi nước mắt xúc động, cảm phục tấm gương của hơn 30 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã dũng cảm, hy sinh khi làm nhiệm vụ cứu dân, giúp dân trong mưa lũ miền Trung.
Câu chuyện về sự anh dũng hy sinh của các anh ngày càng sáng tỏ, xúc động lòng người. Giữa mưa to, nước lớn, đường sá sạt lở, tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, các anh đều hiểu rõ, thậm chí lường trước được gian khổ, hy sinh đang rình rập trực tiếp đến mình. Đồng thời cũng biết rằng ở phía trước, ở nơi nguy hiểm đang có những người dân gặp nguy nan chờ các anh đến cứu giúp. Cũng cần hiểu thêm rằng, lúc này các anh đều đã mệt sau khi đi giúp dân, cứu dân thời gian trước đó; gia đình của nhiều anh cũng đang trong vùng lũ, người thân của các anh đang cần có các anh ở bên để chia sẻ, giúp đỡ… Nhưng các anh, với tinh thần của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, sẵn sàng đặt lợi ích chung, công việc chung lên trên hết, cùng thống nhất, đồng lòng xác định đến với dân, cứu dân lúc này là nhiệm vụ số 1, là mệnh lệnh từ trái tim, đúng như lời của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man: “Việc thì gấp, vì nhiệm vụ, vì nhân dân chúng ta phải làm!”
Thật xúc động, tự hào, khâm phục biết bao cùng với các chiến sĩ trẻ trực tiếp dũng cảm đi cứu dân, là những cán bộ cao cấp của quân đội như Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hùng, những người luôn thường xuyên dũng cảm đi cứu dân, giúp dân, quen thuộc với mọi công việc hiểm nguy giữa thời bình. Không phân biệt tuổi tác, cấp bậc, chức vụ các anh đều chung danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh.
Sự hy sinh của các cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam thật dũng cảm, đáng ngợi khen. Đúng như những lời trong thư của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 22/10/2020: “Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đồng bào cả nước vô cùng tiếc thương trước sự hy sinh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ trong những ngày vừa qua; nhưng cũng rất tự hào về Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng của chúng ta, một đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân; một đội quân tuyệt đối trung thành, tin cậy, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân”. Việc làm và sự dũng cảm hy sinh đó của các anh là nguồn động viên, cổ vũ để người dân Việt Nam học tập, noi theo, đoàn kết thống nhất, chung sức, đồng lòng vượt qua mọi thách thức, khó khăn, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Các anh xứng đáng là “Bộ đội Cụ Hồ”! Tên tuổi và sự hy sinh anh dũng của các anh sẽ vĩnh hằng trong lòng dân đất Việt!
Thiên tai, dịch bệnh… vẫn còn nhiều tiềm ẩn nguy hại, đe dọa sự bình yên của đất nước, của người dân. Cán bộ, chiến sĩ Lực lượng vũ trang Nhân dân Việt Nam xác định rất rõ điều đó và luôn vững vàng, không chùn bước. Các anh đã, đang và sẽ mãi mãi sẵn sàng xung phong ở tuyến trước để làm nhiệm vụ cứu dân, bảo vệ sự yên bình của đất nước, của Nhân dân, dẫu có phải hy sinh thân mình. Các anh chính là điểm tựa vững vàng của Đảng, của Tổ quốc, của Nhân dân!

Không ngừng nâng cao chất lượng hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam

 


Trên cơ sở nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản luật, nghị định, nghị quyết, quyết định có nội dung liên quan đến chính sách dân tộc.

Qua các nhiệm kỳ Quốc hội từ khóa X đến nay, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật, trong đó có những nội dung điều, khoản quy định liên quan đến dân tộc thiểu số. Chính phủ cũng đã ban hành hàng trăm văn bản chính sách, bao gồm các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng dẫn cấp bộ. Nội dung được thể hiện trên các nhóm chính sách lớn: nhóm chính sách về hoạt động kinh tế và phát triển nông nghiệp, nông thôn; nhóm chính sách về quản lý và phát triển nguồn nhân lực; nhóm chính sách về văn hóa, xã hội; các chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số ít người. Có thể thấy, hầu hết khía cạnh của đời sống đã được hệ thống chính sách đề cập, điều chỉnh nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý mang tính nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như thúc đẩy trợ giúp cho các vùng, các đối tượng ưu tiên trong phát triển, đặc biệt là vùng núi cao, biên giới và vùng dân tộc thiểu số. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với sự nghiệp phát triển đất nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Nội dung các chính sách được ban hành ngày càng có tính khả thi, phù hợp với yêu cầu thực tiễn qua từng giai đoạn phát triển khác nhau.

Các chính sách được ban hành đều gắn với các giải pháp tổ chức thực hiện, đặc biệt các giải pháp huy động sự tham gia của người dân vả các nguồn lực cho đảm bảo tính khả thi của chính sách. Trong đó, nguồn từ ngân sách nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, nhất là với những chính sách đầu tư lớn, có tẩm quan trọng chiến lược phục vụ cho vùng dân tộc thiểu số và cả cộng đổng.

Chính sách đã tạo lập được cơ chế khuyến khích, huy độns sức mạnh, cảc nguồn lực to lớn (ngoải ngân sách) của trons nước, ngoài nước và các tổ chức quốc tế tham gia đẩu tư, Gỗ trợ, giúp đở các dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số ưên tất cả các lĩnh vực.

Quá trình tồ chức xây dựng chính sách ngày cảng được cải tiến, khoa học hơn. Trong tố chức thực hiện các chính sách của các bộ, ngành, địa phương đâ có nhiều đổi mới trong kết hợp. phổi hợp nắm tình hình chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức đánh giá. sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.

Trong quả trình tổ chửc thực hiện các chính sách dân tộc luôn chú trọng công tác tuyên truvền phổ biến các nội dung cơ bản của chính sách; thực hiện công bằng, dân chủ, công khai, cụ thể hóa các khâu từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Các cẩp ủy đảng giữ vai ưò lãnh đạo, ủy ban nhân dân các cẩp chi đạo tổ chức thực hiện, các tổ chức trong hệ thống chinh trị cùng tham gia, phát huy quyền ỉàm chủ của người dân. thực hiện nguyên tắc dân biếĩ. dân bàn, dân làm, dân kiếm tra trong tồ chức thực hiện các chính sách ngày càng được phát huy.

Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực chính trị

 


Trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở những nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, cần thề hiện đầy đủ các chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện cùa tư tưởng dân tộc hẹp hòi. cần có quy định vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp trong Hội đồng nhân dân ở những địa phương có nhiều dân tộc khác nhau để Hội đồng nhân dân thật sự là cơ quan quyền lực của dân, đồng thời đảm bảo đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Công tác cán bộ: Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo bồi dường, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc thiểu số. Trong những năm trước mắt, cần tăngcường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở vùng dân tộc thiểu số. Coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự làm nguồn cán bộ bổ

sung cho cơ sở. Nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi, vùng cao. Có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số, nâng cao năng lực cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo ở các cấp chính quyền, cán bộ quản lý kinh tế. Đề xuất chính sách đặc thù, thống nhất trong cả nước nhằm sử dụng hiệu quả số học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số đã đượcđào tạo.

Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở: Tăng cường củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc đối với việc thực hiện chính sách.

 

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, nguyên tắc trong đường lối, chính sách dân tộc

 


Các phạm trù bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan bệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát trien có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, hòa quyện vào nhau, biện chứng lẫn nhau, thể hiện trong công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có thể thấy rõ rằng, trong giai đoạn đổi mới, Đảng và Nha nước ta luôn nhất quán chủ trương, nguyên tăc trong đường lôi, chính sách dân tộc, đó là xây dựng khối đoàn kêt, bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc, phát triển toàn diện vê kinh tế - chính trị - xã hội, bảo đảm các quyền và tiếp cận các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc gia và một số chính sách đặc thù đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Việt Nam thực hiện tốt chính sách dân tộc

 


Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc, Đảng, Nhà nước ta luôn thực hiện các nguyên tắc như:

Bình đăng giữa các dân tộc: Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, đều có tư cách chính trị - xã hội - pháp lý như nhau trong các quan hệ tộc nguời, trong quyền hạn và nghĩa vụ đối với đất nước.

Đoàn kết giữa các dân tộc là sự đoàn kết trong nội bộ cùa từng dân tộc thiểu số; giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số; giữa các dân tộc ở Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, vì hòa bình và tiến bộ xã hội. Đoàn kết dân tộc là chiến lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, cần hạn chế những tác động làm tổn hại đến sự đoàn kết như: các biểu hiện của tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tự ti mặc cảm dân tộc, cục bộ bản vị, vị kỷ dân tộc, dân tộc cực đoan...

Giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc là phương châm nguyên tắc quan trọng trong xử lý mối quan hệ giữa các dân tộc với nhau, mối quan hệ giữa nhà nước với các dân tộc. Đó không đơn thuần là các quan hệ về kinh tế, văn hóa, xã hội mà biểu hiện cao nhất là quan hệ về chính trị. Ngoài thực hiện các quyền bình đẳng chung thì giải quyết vấn đề lợi ích trên mọi mặt của đời sống xã hội, giải quyết những vướng mắc trong tâm lý của các cộng đồng dân tộc, các nhóm dân tộc cần được chú trọng. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam có nguồn gốc lịch sử và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều, việc giúp đỡ, thúc đẩy phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, ghi nhận và khẳng định các giá trị văn hóa dân tộc, tăng cường sự tham gia của đại diện các dân tộc trong hệ thống chính trị phù hợp, thúc đẩy giao lưu, trao đổi, hợp tác giữa các nhóm dân tộc, vùng, miền nhằm tạo nên tâm lý dân tộc đồng thuận có ý nghĩa quan trọng.

Giúp nhau cùng phát triển là tư tưởng, quan điểm mới được Đại hội lần thứ XI của Đảng đưa vào nguyên tắc chính sách dân tộc. Đây là quan điểm phát triển biện chứng của việc gắn chính sách dân tộc với xu thế tiến bộ chung của đất nước tiến lên con đường CNH-HĐH, phù hợp với đường lối đồi mới cùa Đảng và Nhà nước. Theo quan điểm này, cùng với các chính sách của Đảng, Nhà nước, các dân tộc anh em cùng chung trách nhiệm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, bằng nhiều hoạt động cụ thề góp phần đẩy nhanh sự phát triền ở từng vùng,trong từng dân tộc trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, môi trường một cách bền vững. Đồng thời đây cũng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, mọi ngành, mọi cấp và cả hệ thống chính trị.

 

GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”

 

Để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, với trách nhiệm đảng viên của mình và cương vị là những cán bộ quân đội công tác trên lĩnh vực giáo dục, bản thân xác định lập trường tư tưởng kiên định theo lý tưởng cộng sản, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu và chấp hành nghiêm chỉnh các nghị quyết của Đảng, xây dựng trận địa chính trị, tư tưởng vững vàng, chống mọi tư tưởng lệch lạc, chủ nghĩa cơ hội; luôn nêu cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, bản thân luôn có ý thức xây dựng Đảng, mà cụ thể là chi bộ thực sự trong sạch, vững mạnh. Chấp hành nghiêm pháp luật, chống mọi biểu hiện tiêu cực. Giữ vững tính định hướng chính trị các hoạt động tư tưởng - văn hoá, đảm bảo các sinh hoạt tư tưởng - văn hoá và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng phải hướng vào phục vụ, cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống văn hoá - tinh thần của nhân dân, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng con người mới Việt Nam, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; chống mọi biểu hiện thương mại hoá, phi chính trị hoá trong các hoạt động văn hoá, văn học nghệ thuật. Tích cực đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, chống các quan điểm sai trái, phản động; giữ vững thông tin chính thống, có định hướng lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung và thống nhất. Sinh hoạt văn hóa trong sáng, lành mạnh, luôn nêu cao phẩm chất đạo đức, lối sống của người  cán bộ giáo viên, người đảng viên gương mẫu, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Việt Nam giải quyết tốt các mối quan hệ dân tộc

 


 

Căn cứ đặc điểm cơ bản của các thành phần dân tộc ở Việt Nam cho thấy một số điểm nổi bật sau: cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú xen kẽ, phân tán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng nhằm bảo đảm tính phù hợp, hiệu quả của hệ thống chính sách dân tộc.

Căn cứ vào đặc điểm trên, Đảng, Nhà nước ta luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn: giải phỏng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quôc tế. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc trên nhiều mặt của đời sống, giữa cac dan tộc thiểu số với nhau giữa người đa sô với người thieu sô, giữa miền ngược với miền xuôi.

Bên cạnh đó, luôn phát triển toàn diện chính trị, kinh tê văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, như một bộ phận cấu thành sự nghiệp phát triển của đất nước. Nội dung của chính sách dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta xác định: Phải vừa mang tính toàn diện, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài.

Với quan điểm trên, hiện nay mức sống đồng bào dân tộc thiểu số đã từng bước được cải thiện, ngày càng thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số. Đồng bào dân tộc thiểu số đã được bảo đảm tốt về cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm), bảo đảm tốt về an sinh xã hội (100% hộ nghèo, người dân tộc thiểu số có thẻ bảo hiểm y tế); chất lượng giáo dục, văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát triển.

ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH DÂN TỘC THỜI KỲ ĐỔI MỚI

 


Chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam là một bộ phận quan hệ hữu cơ với công tác dân tộc, được quy định bởi quan điểm về vấn đề dân tộc, xử lý vấn đề dân tộc và cách thức thực hiện công tác dân tộc

Dưới góc độ chính trị - xã hội,  chính sách dân tộc là tổng hợp những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được đ ra tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân tộc và mang bản chất giai cấp ca Nhà nước trong phạm vi đối nội và đi ngoại.

Dưới góc độ quản lý nhà nước, chính sách dân tộc là hệ thống nhng quyết sách của Đng. Nhà nước được thực thi thông qua bộ máy hành pháp để quản lý và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với các dân tộc và vùng đồng bào dân tộc nhm thiết lập sự bình đẳng và hòa nhập phát triển, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Chính sách dân tộc cũng là chính sách phát triển nhm thiết lập nên những thành tựu phát triển về kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc và vùng dân tộc, hướng tới mục tiêu cao nhất là sự bình đẳng về mọi mặt, đặc biệt về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa giữa các vùng và các dân tộc ờ Việt Nam.

Thực hiện chính sách dân tộc là việc đưa pháp luật, chính sách vào cuộc sống, trên cơ s cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, Nhà nưc, từ khâu hướng dẫn, thông tin, phân công trách nhiệm, chun bị các điều kiện nguồn lực tài chính, nhân lực cần thiết bảo đảm thực hiện đúng mục tiêu, tiến độ yêu cầu quy định trong chính sách.

Do đặc điểm tự nhiên và dân cư, tổ chức thực hiện chính sách ở vùng dân tộc, miền núi có nhiều điểm khác biệt với khu vực nông thôn đồng bằng; những yếu tố về thời gian, môi trường sống và phong tục, tập quán cũng không giống nhau nên cách thức thông tin chính sách, nguồn lực cần được chú ý. Các khu vực dân cư khác nhau có những cách tiếp cận khác nhau, cần được cụ th hóa trong những kế hoạch đầy đủ, phù hợp.

Trong thực hiện chính sách, đánh giá chính sách là một nội dung quan trọng nhằm xác định hiệu lực, kết quả, hiệu quả của chính sách, so sánh, đối chiếu với những mục tiêu đặt ra, là cơ sở đề xem xét chính sách có phù hợp hay không, cần điều chỉnh hay bài bỏ. Đánh giá chính sách đòi hỏi phải thực hiện ở tất cả các khâu, giai đoạn, theo sát tiến trình vận động của chính sách. Đây là một quá trình liên tục, tương thích với sự vận động của chu trinh chính sách. Đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ là hai hoạt động có tính băt buộc nhằm tăng hiệu quả giám sát hoạt động chính sách cũng như dế chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo.

Thực hiện chính sách dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quốc gia, không thể tách rời với sự phát triển chung của đất nước, bảo đảm lợi ích quốc gia cả về khía cạnh chính trị, kinh tế và hội. Thực hiện chính sách dân tộc còn thể hiện mục tiêu công bằng xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; thể hiện tình cảm, trách nhiệm của cả nước đối với những đóng góp của đồng bào dân tộc trong sự nghiệp cách mạng giành và giữ nền độc lập dân tộc, xây đựng và bảo vệ Tồ quốc.

Xã hội chú nghĩa, đồng thời phải bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả và tính phù hợp. Do vậy, việc xây dựng chính sách dân tộc phải bảo đảm trên cơ sở các định hướng:

Dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định, vấn đề dân lộc có vị trí chiến lược. Trong từng giai đoạn cách mạng, vấn để dân tộc được nhận thức và giải quyết theo các quan điểm cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc[1].

Qua các kỳ đại hội, Đảng luôn nhất quán chủ trương, nguvên tắc trong đường lối, chính sách dân tộc, đó là xây dựng khối đoàn kết, bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc, phát triển toàn điện về kinh tế - chính trị - xã hội, đảm bảo các quyền và tiếp cận các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc gia và một số chính sách đặc thù đối với vùng đồng bào dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đàng khẳng định: Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chỉnh sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan bệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ trong phát triển kinh tế, văn hóa, xẫ hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên Tây Nam bộ, Tây duyên hải miền Trung1.

Với chủ trương, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước, hiện nay khối các dân tộc ở Việt Nam luôn đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng đất nước. Trong chống dịch COVID- 19 vừa qua, đại đoàn kết các dân tộc đã được phát huy cao độ trong nhận thức và hành động, trong tương trợ giúp đỡ lẫn nhau bằng các hoạt động như hỗ trợ, quyên góp, ủng hộ, chia sẻ, đã tạo nên một sức mạnh vô song để Việt Nam vững bước tiến lên.