Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

NGỤY LÀ GÌ?

🤓 Về mặt khoa học, pháp lý: 

"Ngụy" là một từ Hán - Việt, có nghĩa giản đơn là: GIẢ. Từ này thường dùng để chỉ các sự vật, hiện tượng mang tính giả tạo, bất hợp pháp, không được công nhận, ví dụ như như: Ngụy tạo, ngụy triều, ngụy quân tử, ngụy khoa học...

"Ngụy quân", "Ngụy quyền" là cụm từ chỉ thế lực tay sai do ngoại quốc dựng lên để làm bù nhìn, công cụ cho chúng hợp thức hóa tội ác xâm lược, đàn áp, giết hại đồng bào. Ở Việt Nam cụm từ "Ngụy quân", "Ngụy quyền" thường được dùng để chỉ chế độ tay sai bán nước "Việt Nam Cộng Hòa" hay gọi tắt là chế độ Sài Gòn, Ngụy quyền Sài Gòn. Trong các văn bản, văn kiện của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam đều sử dụng cụm từ "Ngụy quân", "Ngụy quyền" để chỉ đích danh cái gọi là "Việt Nam Cộng hòa".


⏰ Về thực tiễn lịch sử:

"Ngụy quân", "Ngụy quyền" là cụm từ mà hàng triệu anh hùng, liệt sỹ, chiến sỹ và đồng bào ta đã dùng mấy chục năm nay để gọi thế lực tay sai bán nước, tàn ác "Việt Nam Cộng hòa". Đây là thế lực do "ông chủ của bọn chúng" là Mỹ dựng lên, sau đó viện trợ, huấn luyện, chỉ huy... nhằm mục đích xâm lược, đô hộ và nô dịch dân tộc ta (Chính những tên trùm sỏ trong hệ thống bù nhìn này như Nguyễn Văn Thiệu đã thừa nhận - clip dẫn chứng phía dưới). Tội ác của bọn "Ngụy quân", "Ngụy quyên" đã gây ra đối với dân tộc ta không giấy bút nào kể xiết.


🔎 Kính chiếu yêu:

Các thế lực "ngụy khoa hoc", "ngụy cộng sản" với mưu đồ bất chính, bấy lâu nay luôn núp bóng "nhà sử học", "nghiên cứu lịch sử", "hòa hợp"... để ra sức đòi và tìm cách bỏ dùng cụm từ "Ngụy quân" "Ngụy quyền", hòng:

- Xuyên tạc ý nghĩa Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân Việt Nam. Biến cuộc kháng chiến chống xâm lược (đế quốc Mỹ) trở thành cuộc nội chiến, cuộc chiến ý thức hệ...biến người chống xâm lược trở thành kẻ xâm lược và ngược lại, biến kẻ xâm lược trở thành "hiệp sỹ" giúp đỡ chống xâm lược.

- Hạ thấp vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản, từ đó tấn công vào uy tín, phủ nhận công lao, làm lung lay vai trò lãnh đạo của họ.

- Xét lại lịch sử là một khâu quan trọng trong chiến lược diễn biến hòa bình nhằm tạo nền tảng về "lịch sử", uy tín, tính chính danh cho việc đòi đa nguyên, đa đảng, đòi phục dựng chế độ VNCH!


📿Trừ yêu:

Chúng tôi, những người dân Việt Nam quan tâm đến vấn đề lịch sử yêu cầu và mong muốn các cơ quan chức năng có biện pháp chấn chỉnh việc nghiên cứu, biên soạn lịch sử, quản lý báo chí, các ấn phẩm khác phải dùng cụm từ "Ngụy quân", "Ngụy quyền" để gọi, chỉ chế độ tay sai bán nước ở miền Nam Việt Nam trước ngày 30/5/1975.

 Kịch liệt phản đối một số kẻ núp danh "nhà sử học", "nghiên cứu lịch sử" để thực hiện âm mưu rửa mặt cho Mỹ, Ngụy đòi dùng cụm từ "Chính quyền Việt Nam Cộng hòa", "Quân đội Việt Nam Cộng hòa" để thay thế cụm từ "Ngụy quân", "Ngụy quyền" - Bọn chúng đang xúc phạm anh linh của hàng triệu anh hùng, liệt sỹ và đồng bào ta; đi ngược lại lợi ích của dân tộc và nguyện vọng của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam yêu nước.

Yêu nước ST.

KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ “BA NHÀ NƯỚC”!

Trên trang mạng có bài “Ba nhà nước, ba gọng cùm, dân thoát đàng trời”. Bài này tung lên trên mạng từ tháng 3-2021, nay thấy đăng lại. Theo người viết bài này thì “ba nhà nước” là “Nhà nước Đảng, Nhà nước Chính phủ, Nhà nước Mặt trận”. Tác giả viết: “Nhà nước thứ nhất là cai trị đảng viên, Nhà nước thứ nhì là cai trị nhân dân, Nhà nước thứ ba là kiểm soát tư tưởng toàn dân”. “Hầu hết Nhà nước nào cũng nhắm đến nhân dân cả. Nhà nước thứ nhất mang tiếng cai trị đảng viên, nhưng hầu hết đảng viên phục tùng Đảng vô điều kiện, nên Nhà nước thứ nhất chủ yếu là ra chủ trương cho Nhà nước thứ nhì thi hành. Khi Nhà nước thứ nhì thi hành, thì Nhà nước thứ ba có nhiệm vụ giám sát để phát hiện và loại bỏ sự bất phục tùng của người dân”. “Nói tóm lại, dân Việt Nam bị cùm rất chặt bởi ba nhà nước này. Ba cái cùm kinh khủng như thế bập vào cổ, thì dân tộc này thoát đàng nào? Có lẽ thoát đàng trời!”,v.v..

Rõ ràng, Đây là một sự bóp méo, xuyên tạc trắng trợn về thể chế chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Ở đây, phải nói cho rõ: Đảng là Đảng, Nhà nước là Nhà nước, Mặt trận là Mặt trận, tạo thành thể chế chính trị trong hệ thống chính trị, chứ hoàn toàn không có cái gọi là “ba nhà nước” được.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.

Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và luật pháp.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng Đảng; lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội.

Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

Đảng được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gọi chung là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam) do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mặt trận không ngừng phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết, lòng tự hào dân tộc – một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt trận không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ, ý thức hệ và chính kiến, tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, trong Điều lệ Đảng, trong Hiến pháp hiện hành, trong Điều lệ của Mặt trận đều nói đến vai trò to lớn của nhân dân, vai trò làm chủ của nhân dân, làm chủ với ý thức của mình, với tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Nhân dân là người làm nên lịch sử và là người quyết định vận mệnh của dân tộc.

Mọi luận điệu xuyên tạc về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, nhất định sẽ bị lịch sử lên án.


Môi Trường ST.

Thứ Ba, 19 tháng 10, 2021

LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC XHCN ĐÔNG ÂU SỤP ĐỔ NHƯNG ĐẢNG TA VẪN VỮNG VÀNG TRƯỚC MUÔN TRÙNG SÓNG GIÓ, ĐƯA ĐẤT NƯỚC TIẾN LÊN, CÓ CƠ ĐỒ NHƯ HÔM NAY!

Không phải bây giờ, khi chúng ta triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch và cơ hội chính trị mới đặt ra vấn đề xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bài xích, phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân; viện dẫn đủ loại lý do, luận điểm, luận cứ, luận chứng để biện luận, giải thích cho sự “sai lầm” của thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cuối những năm 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Liên Xô - hòn đá tảng và là “anh cả” của CNXH đã sụp đổ; kéo theo đó là các nước ở Đông Âu cũng vì thế mà sụp đổ theo. Nhiều người cho rằng, Liên Xô và các nước theo chế độ XHCN trên toàn thế giới sụp đổ là thất bại của học thuyết Mác - Lê Nin, họ đồn đoán về sự thất bại toàn diện trên phạm vi toàn thế giới của chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng tất cả đã lầm! Việt Nam nhanh chóng nhận ra những sai lầm khuyết điểm mà đảng cộng sản Liên Xô mắc phải, để từ đó có những quyết sách đúng đắn, kịp thời; đưa cả dân tộc tiến lên. Thực tiễn cho thấy, việc Liên Xô và các nước theo con đường XHCN tan rã là do nhiều nguyên nhân, tuy nhiên nguyên nhân chính vẫn là các vấn đề nội tại; chính đảng viên của họ đã tiêu diệt đảng của họ. Đúng như lãnh tụ V.I.Lênin từng nói: “Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất, có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa”.

Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua tất cả: Năm 1917, với 35 vạn đảng viên đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, cùng nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân chiến thắng phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, lãnh đạo công cuộc xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường. Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ, không phải do kẻ thù bên ngoài, mà chính là do những mầm mống diễn biến, tự diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng. Phi chính trị hóa quân đội, truyền thông, báo chí và để cho "những đàn sói chồm lên cắn vào lịch sử/cào chiến công xé xác các anh hùng"!

Từ năm 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa” của Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người dân ảo tưởng vào phương Tây và như thế “cả đàn sói đã chồm lên cắn vào lịch sử/ cào chiến công, xé xác những anh hùng”. Hàng loạt tướng lĩnh và đảng viên lão thành đều bị cho nghỉ hưu để nhường cho “lớp trẻ cấp tiến”, kinh tế chậm đổi mới, các vấn đề nội tại phát sinh cấp số nhân và ngày càng gay gắt…Điều gì đến đã phải đến, công lao mà Lê Nin và các thế hệ đảng viên đảng cộng sản Liên Xô trong phút chóc đã chìm xuống biển sâu! Đó là nỗi đau đoạn trường của những người cộng sản trên thế giới và là bài học máu xương cho chúng ta.

Đảng cộng sản Việt Nam không hề hoảng loạn hay hoang mang, giao động; vẫn trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một mặt sáng tạo, đổi mới phù hợp với tình hình Việt Nam, một mặt mở rộng quan hệ quốc tế; chủ động đối thoại với Mỹ, Trung để bình thường hóa quan hệ. Những năm cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đối diện với muôn trùng gian khó, tưởng chừng không thể gượng dậy được. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chưa lâu, lại phải đánh Pôn Pốt và quân bành trướng Bắc kinh, kéo dài đến cuối những năm 80. Đất nước kiệt quệ về kinh tế, bị tàn phá nặng nề; bị cấm vận kéo dài. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, chúng ta đã khó lại càng khó hơn. 

Yêu cầu cấp bách là phải đổi mới, nói như cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là “những việc cần làm ngay”. Ta dần dân tháo được những khó khăn, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991 và Hoa Kỳ là 1995, cùng năm 1995, ta trở thành thành viên Asean, tổ chức ban đầu lập ra là để chống Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản. Ngày nay, ta quan hệ trên bình diện rộng, vừa làm bạn được với cả Mỹ - Trung, vừa làm bạn được với Hàn Quốc - Triều Tiên… đó là sự sáng suốt trong đường lối ngoại giao của đảng; tạo dựng môi trường hòa bình, thu hút đầu tư để phát triển đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Từ 1995 đến nay, chúng ta mới được yên để tập trung phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh. Từ chỗ bị cô lập, đến nay ta đã thiết lập mối quan hệ với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ chỗ đói ăn trước đổi mới mà trở thành quốc gia có thu nhập trung bình; nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Dân lấy ăn làm trời; nghĩa là họ chỉ cần biết tự do, ấm no, hạnh phúc và phẩm giá là tiêu chí hàng đầu và chính đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại cho nhân dân Việt Nam điều đó. 

Lịch sử đảng trải qua 91 năm đã chứng minh một sự thật không thể chối cãi rằng: không một tổ chức nào đủ khả năng lãnh đạo đất nước, ngoài đảng cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đứng lên khai tử chế độ thực dân, đế quốc, làm nên những cuộc chiến vệ quốc vĩ đại nhất trong thế kỷ 20, đập tan âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Đánh tan Fulro và bè lũ Việt Tân do Hoàng Cơ Minh cầm đầu và các mưu đồ khủng bố, kích động bạo loạn; xây dựng một Việt Nam có cơ đồ, tiềm năng, vị thế và uy tín như hôm nay. 

Liên Xô và các nước theo CNXH sụp đổ nhưng chúng ta vẫn vững vàng; chế độ ta vẫn chiếm trọn niềm tin yêu và cả trái tim của nhân dân Việt Nam đời đời văn hiến. Điều đó chứng minh rằng: Liên Xô sụp đổ là do tự chính tay họ đã tạo ra chứ không phải là thất bại của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Sai lầm khuyết điểm không thể vãn hồi đó chính là bài học xương máu để Đảng ta lấy làm gương tự sửa đổi, tự chấn chỉnh mình. Nhân dân Việt Nam tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng sẽ đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu, như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn. Xin mượn mấy câu thơ trong bài thơ "Chân lý vẫn xanh tươi" của nhà thơ Tố Hữu để kết thúc bài viết:

Từ đổ nát, ta lại xây dựng mới

Rũ bùn dơ, mặt đất sẽ thanh tân

Không sức nào ngăn nổi sức nhân dân

Ngày mai sẽ là ngày mai cộng sản!



Yêu nước ST.

NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 


Từ Đại hội VI, Đảng ta đã cảnh báo: “Vấn đề đạo đức xã hội đang được đặt ra một cách cấp bách. Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất nước với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền... Đã có lúc, có nơi, một đảng viên thụ động, bàng quan, bất lực trước sự lan tràn của những tin đồn nhảm, những dư luận ác ý, tê liệt trước sự tiến công của địch về tư tưởng”. Đến nay, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống vẫn đang tiếp tục diễn ra trong Đảng, trực tiếp dẫn đến các hành vi tham nhũng. Nếu như trước đây chủ yếu là bớt xén, ăn cắp vặt, nhũng nhiễu để đòi tiền, mang tính chất cá nhân, đơn lẻ, thì nay chặt chẽ, tinh vi hơn, móc nối chằng chịt, trên dưới, trong ngoài để trục lợi với mức độ ngày càng nghiêm trọng.


Để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng trong thời gian tới, cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên trong từng giai đoạn cách mạng. Chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng mục tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Thực hiện giáo dục liêm chính, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng:

Hai là, coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Có thấm nhuần đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên mới giữ gìn được lối sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng và mọi tệ nạn xã hội. Chính phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là sức “đề kháng” mạnh mẽ chống lại mọi suy thoái, biến chất.

Ba là, xác định tiêu chí và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, kết hợp hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII của Đảng gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Từng tổ chức cơ sở đảng cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là của bí thư cấp ủy các cấp. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại đấu tranh với những biểu hiện vi phạm.

Năm là, phát huy vai trò tích cực của báo chí, truyền thông, kiểm soát, quản lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thông trong đấu tranh với các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cơ quan báo chí, truyền thông phải phản ánh trung thực, kịp thời, góp phần đưa chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống và là kênh thông tin quan trọng phát hiện những mặt tiêu cực trong xã hội, những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Sáu là, hoàn thiện chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ để từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng chống tham nhũng./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHÊ PHÁN, BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU “ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM ĐÃ CẠN KIỆT NGUỒN LỰC”

 


Công cuộc đổi mới ở nước ta không chỉ đạt được những thành tựu to lớn qua 35 năm thực hiện mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú và hết sức to lớn, trong đó có những nguồn lực không bao giờ cạn.

Hành trình đổi mới đã và đang kết hợp tất cả 3 yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là động lực lớn nhất, là yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng thành công của mục tiêu cao cả: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội..

Công cuộc đổi mới 35 năm qua đã thực sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người chúng ta và được bạn bè quốc tế quan tâm đến như một lẽ đương nhiên. Chính vì thế, mọi biểu hiện của đổi mới luôn được nhiều người chăm chú theo dõi, phân tích, đánh giá, nhận định. Trong nhiều nhiệm kỳ đại hội Đảng vừa qua, công cuộc đổi mới luôn được Đảng ta xác định rõ ngay trong chủ đề của đại hội.

Tuy nhiên, thời gian qua vẫn có một số đối tượng ác ý tung ra những luận điệu đả kích, chống phá trắng trợn, hoặc một số thế lực muốn lái chúng ta đi theo con đường khác. Những luận điệu đen tối đó cho rằng đổi mới như vậy coi như đã xong, nay cần xem xét lại vì đã không còn động lực. Ý kiến khác đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hơn về chính trị để tạo thêm động lực, nếu không, trước sau cũng sẽ đưa đến tàn lụi đất nước. Tựu trung, chủ ý thâm độc nhất cho rằng đổi mới đã cạn kiệt nguồn lực, từ sau Đại hội XIII không đổi mới nữa, hoặc nếu có đổi mới thì đổi mới về chính trị mà thôi.

Những luận điệu xuyên tạc, đơm đặt như vậy đã bị phủ định hoàn toàn bởi những lý do then chốt sau đây:

Kiên định đổi mới nhưng không thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa

Trước hết, cần khẳng định bản chất và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới. Đổi mới là một cuộc vận động mang tính cách mạng không ngừng để thay cái cũ bằng cái mới tốt hơn. Đổi mới vừa là sự thay thế cái cũ, vừa là sự chọn lựa cái cũ, cái hiện đang còn tác dụng để cải biến cho nó trở nên thích dụng hơn. Đổi mới có thể coi là một sự phủ định biện chứng: Không bao giờ phủ định sạch trơn và không bao giờ quay lại cái cũ. Đổi mới đồng bộ, hài hòa giữa kinh tế và chính trị với mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Có người khuyên Việt Nam: “Muốn phát triển thì cần tư nhân hóa nhanh hơn, hội nhập thương mại nhanh hơn, phá giá đồng tiền mạnh hơn”. Lời khuyên đó dẫu có chân thành thì chúng ta cũng không thể làm như thế. Bởi vì, hơn ai hết, chúng ta hiểu rõ tình hình thực tế của đất nước mình và chúng ta thực hiện đổi mới nhưng có nguyên tắc, đổi mới nhưng không thay đổi bản chất chế độ xã hội. Đổi mới là thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng trong khi thực hiện cơ chế thị trường, Nhà nước phải quản lý và điều hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; đổi mới để phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển đó phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu - nghèo. Đổi mới có yêu cầu và gắn với mở cửa, hội nhập. Đổi mới có yêu cầu và gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Toàn bộ công cuộc hội nhập - mở cửa, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước là để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững; là để xây dựng và tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp; là để nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới. Vậy nên đổi mới chính là để hướng tới chủ nghĩa xã hội, để hiện thực quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác lập rõ ràng hơn.

Đổi mới và cải cách có cùng nội dung hướng tới cái mới, cái tốt đẹp hơn. Nhưng cải cách thường được hiểu là những hành động nhất định, những cuộc vận động nhất định nhằm những mục tiêu nhất định. Khi những hành động cải cách ấy, những cuộc vận động cải cách ấy đã đạt tới mục tiêu đề ra thì phải có hành động cải cách mới, cuộc vận động cải cách mới. Còn đổi mới, theo cách hiểu của chúng ta, tuy cũng nhằm những mục tiêu nhất định trong những thời kỳ nhất định, song do bản chất và tính tất yếu của nó, lại là một quá trình lâu dài. Đổi mới như một dòng chảy liên tục, vận động liên tục của cả guồng máy xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, phát động và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII của Đảng đều khẳng định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới để đưa đất nước đi lên. Lời hiệu triệu đó rất phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và ý nguyện của nhân dân.

Thành tựu đổi mới là bằng chứng thực tiễn sinh động nhất

Qua 35 năm đổi mới, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, là nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước".

Nhìn lại những nét chính yếu của hành trình đổi mới, chúng ta thấy rõ nhận định nêu trên của Đại hội XIII là chính xác. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng của một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm; định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững; vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường; quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc; quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được đẩy mạnh thêm.

Chính đổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn tới thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống và làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có những nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Đổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đã đạt được trước đây vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với tình hình đang phát triển. Đổi mới đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức đôi chân chúng ta đi thêm những bước dài trên con đường hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tuy vậy, trong tiến trình đi lên, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, chúng ta không quên rằng đất nước mình vẫn còn nhiều khó khăn, sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, còn nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và lâu bền, còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, mà những nhân tố đó còn có phần tăng thêm. Rõ ràng là phía trước của chúng ta không chỉ có thuận lợi và thời cơ mà còn có những khó khăn và nguy cơ không thể xem thường. Càng như vậy càng phải tiếp tục đổi mới, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để đất nước tiếp tục phát triển bền vững.

Tiếp tục phát huy mạnh mẽ động lực, nguồn lực của đổi mới

Nếu quan niệm động lực, nguồn lực là những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển thì động lực của đổi mới bao gồm nhiều yếu tố tiềm ẩn và hiển hiện có thể nhận biết được.

Một là, yếu tố khơi nguồn động lực của đổi mới chính là việc định hướng đúng, phát động đúng thời điểm. Chúng ta xác định đổi mới phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đúng đắn cho sự nghiệp đổi mới vừa hợp thời, hợp quy luật, hợp lòng dân, vừa có sự chắc chắn, vững tin. Chuẩn bị kỹ và phát động đổi mới đúng lúc, đồng thời với mở cửa hội nhập nên chúng ta có thể chủ động và sáng tạo trong mọi tình huống, đã đứng vững và phát triển trong khi cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Đông Âu bị thất bại.

Hai là, những thành quả của đổi mới lại tiếp thêm luồng sinh khí mới, tăng thêm động lực cho nó, tạo cho đất nước ta thế mới, lực mới, gia tốc mới. Thế mới và lực mới là tổng hợp những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, là kết quả của việc phát triển mọi mặt với sự thông thoáng trong nước và mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài. Gia tốc mới là khả năng vượt trội, là độ tăng trưởng liên tục ở mức khá cao, tạo đà cho giai đoạn kế tiếp. Thế mới, lực mới, gia tốc mới tạo ra tầm vóc và khả năng mới của đất nước. Đó không chỉ là khả năng đất nước vươn tầm mà còn là năng lực mới mạnh mẽ để tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển. Đổi mới được nạp thêm năng lượng mới.

Ba là, yếu tố quyết định là động lực và những nguồn lực trong nước. Động lực quan trọng phục vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới là tổng hợp các nguồn lực trong nước, bao gồm không chỉ có vốn, tài sản đã tích lũy được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và quan trọng hơn hết là nguồn lực con người, bao gồm cả sức lao động trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống văn hóa của dân tộc ta. Trong các nguồn lực đó, nguồn lực về tài nguyên là khá phong phú; nguồn lực về đất đai, vị trí địa lý là khá thuận lợi; nguồn lực về truyền thống là sâu sắc, đặc thù; nguồn lực về con người và trí tuệ vô cùng to lớn.

Bốn là, những nguồn lực từ bên ngoài. Đây là một yếu tố quan trọng mà nếu biết cách tranh thủ cũng sẽ tạo nên động lực cho công cuộc đổi mới đất nước. Nguồn lực bên ngoài bao gồm: Vốn, kỹ thuật-công nghệ, kinh nghiệm quản lý, chất xám, tinh hoa văn hóa nhân loại. Trên cơ sở phải phát huy mọi nguồn lực trong nước, chúng ta có đầy đủ điều kiện để có thể thu hút nguồn lực bên ngoài. Với việc mở rộng nhiều hình thức, có bước đi, biện pháp và chính sách ưu đãi thích hợp, chúng ta nhất định khuyến khích mạnh mẽ việc hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ; đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.

Năm là, sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân. Đây là động lực mang tính quyết định đối với sự nghiệp đổi mới. Động lực đó bắt nguồn từ năng lực sáng tạo, bản lĩnh trí tuệ của Đảng ta và của nhân dân ta, thể hiện ở trình độ đoán định, nắm bắt những yếu tố và những vấn đề của thời cuộc, dự kiến đúng tình huống, xác định đường đi nước bước rõ ràng, sẵn sàng tạo lập và nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước đi lên. Do đổi mới là sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân nên khi Đảng ta phát động, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành động lực to lớn thực hiện có hiệu quả sự nghiệp đổi mới đất nước.

Rõ ràng, công cuộc đổi mới ở nước ta không chỉ đạt được những thành tựu to lớn qua 35 năm thực hiện mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú và hết sức to lớn, trong đó có những nguồn lực không bao giờ cạn. Hành trình đổi mới đã và đang kết hợp tất cả 3 yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là động lực lớn nhất, là yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng thành công của mục tiêu cao cả: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

 

SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN NHÂN VỀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ AN TOÀN, AN NINH MẠNG TRONG QUÂN ĐỘI

 


Bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm an ninh, an toàn cho các hoạt động của toàn quân, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Việc quản lý, phát triển mạng Internet trong Quân đội được Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý việc cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet trong Quân đội theo các quy định của pháp luật và Bộ Quốc phòng về lĩnh vực hoạt động Internet. Thực hiện trên các cơ sở đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh phổ cập Internet và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; sẵn sàng đối phó với các cuộc chiến tranh thông tin, bảo đảm bí mật quốc phòng, an ninh quốc gia và an toàn cho các hệ thống thông tin do Quân đội quản lý trên mạng Internet.

An ninh mạng có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, của các cấp, các ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trong đó lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hiệu quả các hành vi xâm phạm an ninh mạng quốc gia, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia; xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, trở thành nguồn lực quan trọng để xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Góp phần huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của toàn xã hội trong công tác bảo đảm an ninh mạng; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh mạng; huy động, phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước đi đôi với tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và an ninh mạng. Tăng cường năng lực, hiệu quả đấu tranh bảo vệ an toàn, an ninh mạng, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên không gian mạng, triển khai các biện pháp kỹ thuật chuyên biệt vô hiệu hóa nguồn phát động tấn công mạng, chiến dịch tấn công mạng, hoạt động sử dựng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trọng tâm là hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, kích động biểu tình, bạo loạn, phá hoại, khủng bố, gây rối an ninh, trật tự trên không gian mạng.

Trước sự phát triển của cuộc cách mạng công nghệ đặt ra những thách thức an ninh phi truyền thống, ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay:

Một là, “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”. Trong đó, an ninh mạng, chiến tranh mạng là loại hình mới, sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, hàm lượng trí tuệ cao, diễn ra hết sức phức tạp, với nhiều kiểu loại, không phân định ranh giới (địa lý hành chính, thời gian, quy mô), nhưng hậu quả để lại khó lường. Nó có thể là nguyên nhân khởi đầu cho một cuộc chiến tranh bằng vũ lực. Vì thế, cán bộ, chiến sĩ cần nắm vững yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Hai là, quán triệt, thực hiện đầy đủ những điểm mới về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia... Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ đơn thuần chăm lo việc phòng, chống địch đánh ta, lo chuẩn bị đối phó với chiến tranh xâm lược, mà còn phải lo giữ vững được sự ổn định chính trị - xã hội và môi trường hòa bình đất nước, phải lo tạo ra được thế ngăn ngừa, đẩy lùi mọi nguy cơ, lo góp phần thúc đẩy xây dựng đất nước ta mạnh lên về mọi mặt. Do đó, thực hiện tốt việc phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời âm mưu “diễn biến hòa bình”; thúc đẩy suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phòng chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Không ngừng xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, làm chủ các công nghệ mới, tự sản xuất các trang thiết bị thiết yếu, dành thế chủ động thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động ngăn chặn, sẵn sàng đối phó hiệu quả và dành thắng lợi trong chiến tranh và sử trí các tình huống nảy sinh.

Ba là, nhận thức đầy đủ những điểm mới về phương châm bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia...; phản ánh lập trường có tính nguyên tắc, mang tính mưu lược và kế sách, qui tụ và phát huy mọi nguồn lực, cả trong nước và ngoài nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia để bảo vệ Tổ quốc. Có tầm nhìn sâu, rộng hơn về không gian và thời gian bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp mới rất khó đoán định, không thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp trong một sớm, một chiều, nên các cấp, các ngành, các lực lượng, cả hệ thống chính trị, nhất là Quân đội nhân dân cần chủ động xác định rõ trách nhiệm giải pháp, đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Bốn là, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay đan xen cả thời cơ và thách thức, mà còn biểu thị rõ quyết tâm của Đảng ta xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, việc quán triệt, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cần phải coi trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, chủ động chuẩn bị lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống…

Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng đó là:

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp đối với việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bảo đảm mọi hoạt động nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng trong Quân đội được thực hiện có hiệu quả, thực chất và có chiều sâu.

Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội. Nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục giữ vai trò rất quan trọng trong nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng; là những yếu tố thường xuyên vận động, biến đổi phù hợp với tính chất và mức độ những tác động của an ninh mạng đối với quân nhân. Nếu nội dung nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng trong Quân đội phù hợp với từng đối tượng quân nhân, từng thời điểm và bám sát yêu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi của Quân đội, đơn vị; hình thức tổ chức phong phú, đa dạng; phương pháp tiến hành cụ thể, sáng tạo thì hoạt động nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng mới đạt hiệu quả cao, có ý nghĩa thiết thực. Do đó, quá trình nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội phải quan tâm đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong đơn vị và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của quân nhân trong tự giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội. Đối với tổ chức, cần phải cung cấp nhanh chóng, chính xác, kịp thời, đầy đủ thông tin, làm cơ sở cho quân nhân chủ động tham gia phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng trong Quân đội. Một khi nhu cầu thông tin chính thống được đáp ứng, thì nhu cầu tìm đọc các thông tin không chính thống - thông tin sai trái, thù địch trên mạng xã hội sẽ hạn chế đi rất nhiều, ngoại trừ những cá nhân do tò mò hay các lý do khác. Nội dung thông tin trên mạng xã hội cho quân nhân tiếp cận phải đa dạng, đa cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến. Có cả thông tin phổ thông và thông tin có giới hạn, thông tin có độ mật; thông tin về ta và cả thông tin về các thế lực thù địch; phải quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm, đường lối của Đảng về Chiến lược An ninh mạng quốc gia. Muốn vậy, cần phải thống nhất cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền chính xác, kịp thời, đầy đủ từ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đến các cơ quan, đơn vị ở cơ sở.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý đối với việc sử dụng mạng xã hội của quân nhân trong Quân đội. Mạng xã hội đã trở thành nhu cầu thực sự của giới trẻ nói chung, quân nhân nói riêng, nhưng nếu để mạng xã hội phát triển tự phát, thiếu định hướng, quản lý thì những tác động tiêu cực của nó đối với quân nhân là khôn lường, đó còn là mảnh đất để các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội. Với những tiện ích không thể phủ nhận trong thế giới hiện đại, mạng xã hội có thể được ví như một thứ vũ khí lợi hại trong chiến tranh thông tin. Sử dụng mạng xã hội phần nào cũng giống như việc cầm súng, bởi vậy, quân nhân sử dụng mạng xã hội một cách đúng đắn, thì đó sẽ là một phương tiện hữu hiệu giúp quân nhân chia sẻ thông tin và quảng bá giá trị văn hóa tốt đẹp của Quân đội, những phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.

Bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện, quy chế, chính sách cho cơ quan, đơn vị, cá nhân tham gia bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội. Có chính sách, hỗ trợ kinh phí đối với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng; thu hút, trọng dụng, đãi ngộ, phát triển những quân nhân làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng ở các cơ quan, đơn vị theo cơ chế kiêm nhiệm để hình thành đội ngũ chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội trong tình hình mới. Thường xuyên tham gia, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ chuyên sâu về an ninh mạng cho quân nhân tại các cơ quan, đơn vị; tăng cường trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng kỹ năng trong rà soát, phát hiện và phòng ngừa sự cố, không để lộ, lọt thông tin quân sự, bí mật nhà nước.

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong Quân đội ta đang và sẽ diễn ra hết sức nóng bỏng, gay gắt, phức tạp và ngày càng quyết liệt, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội cho mọi quân nhân; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị; thường xuyên đổi mới, đa dạng hóa các hình thức và phương pháp đấu tranh, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của các tổ chức, lực lượng, nhất là Ban Chỉ đạo 35, Bộ phận giúp việc và Lực lượng 47 ở đơn vị. Đồng thời, từng bước hiện đại hóa điều kiện, phương tiện để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho quân nhân về nhiệm vụ bảo vệ an toàn, an ninh mạng trong Quân đội./.

TĂNG CƯỜNG CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 


Các hình thức hoạt động công tác tư tưởng có vị trí to lớn và trực tiếp quyết định chất lượng công tác tư tưởng trong quân đội. Tạo cơ sở vững chắc cho việc nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Mục tiêu của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình” là xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, có tinh thần cảnh giác cách mạng và ý chí quyết chiến quyết thắng, luôn luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.

Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực đang tập trung ráo riết tiến công trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng; bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn với nhiều hình thức khác nhau chống phá công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó, chiến lược “Diễn biến hòa bình” vẫn là một nguy cơ của cách mạng Việt Nam..    vậy, phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong tình hình hiện nay là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc.

Hình thức tiến hành công tác tư tưởng trong quân đội rất phong phú, đa dạng, mỗi hình thức có tính độc lập tương đối của nó và có những yêu cầu biện pháp cụ thể khác nhau. Tuy vậy, nhưng giữa các hình thức có quan chặt chẽ với nhau cùng tạo ra sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi và tiêu diệt những mầm mống tiêu cực trong quân đội. Thực hiện đồng bộ, phát huy hiệu quả của các hình thức hoạt động công tác tư tưởng sẽ góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng hệ thống các tổ chức trong quân đội vững mạnh, giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; đấu tranh có hiệu quả trong nhiệm vụ phòng chống âm mưu “DBHB” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng của các thế lực thù địch.

Vì vậy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cán bộ, đảng viên trong Quân đội phải nhận thức đầy đủ vị trí vai trò, chức năng, nhiệm vụ, phương thức tiến hành công tác tư tưởng. Từ đó có quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các hình thức hoạt động công tác tư tưởng theo chức năng nhiệm vụ được giao. Trước hết, phải quán triệt thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng về lãnh đạo công tác tư tưởng, lý luận và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; các chỉ thị, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về xây dựng môi trường văn hoá trong quân đội.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, chiến sĩ. Qua đó xây dựng, củng cố niềm tin vững chắc vào mục tiêu lý tưởng của Đảng; bồi dưỡng phẩm chất chính trị đạo đức của người quân nhân cách mạng.

Tổ chức tốt phong trào thi đua quyết thắng ở các đơn vị, bởi “thi đua là một biện pháp rất quan trọng, một công tác thường xuyên để giáo dục tư tưởng, củng cố tổ chức, rèn luyện quân đội lớn mạnh, bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống”1. Công tác thi đua phải được tiến hành thường xuyên liên tục mang lại hiệu quả thiết thực, kịp thời phát hiện và biểu dương, khích lệ gương điển hình “người tốt, việc tốt”  để nhân rộng điển hình tiên tiến làm cho cái tốt, cái tiến bộ, nhân tố mới nảy nở và lấn át cái xấu, cái ác; thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước”1.

Phát huy vai trò và sức mạnh của hoạt động văn hoá, văn nghệ, đa dạng hoá nội dung và hình thức thông tin báo chí, góp phần nâng cao sự hiểu biết toàn diện, xây dựng tư tưởng, tình cảm cách mạng và thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần của mọiquân nhân. Đồng thời giúp họ đấu tranh loại bỏ những ảnh hưởng của văn hoá xấu độc của kẻ thù. Để các hoạt động này đi đúng hướng, đạt mục đích đề ra, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan chuyên trách phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra chặt chẽ công tác xuất bản, in ấn, sáng tác, biểu diễn; kịp thời loại bỏ các khuynh hướng “phi chính trị hoá”, “thương mại hoá” nhằm gieo rắc tư tưởng, tư sản để từng bước chuyển hoá quân đội về chính trị./.

 

ĐẤU TRANH CHỐNG NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN

 

          Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng, mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN đã và đang được triển khai xây dựng và hoàn thiện ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, quá trình đó, theo nhận định của Đại hội XIII là vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cả về nhận thức và tổ chức thực hiện; cùng với đó là những khó khăn, thách thức đến từ sự chống phá của các thế lực thù địch với mức độ, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp.

          Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phủ nhận nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN là những trọng tâm chống phá “không ngừng nghỉ” của các đối tượng và thế lực phản động, thù địch, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Đấu tranh phòng chống các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc trong thời gian tới cần chú trọng:

          Một là, đấu tranh với quan điểm “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”.

          Nhằm phủ nhận nền dân chủ XHCN và Nhà nước XHCN, các quan điểm, luận điệu chống phá “khẳng định” rằng chế độ dân chủ tư sản như nó đang tồn tại ở phương Tây là chế độ dân chủ cao nhất, là thiên đường vĩnh hằng; rằng “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”, “đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng nên một quốc gia dân chủ”, và “đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của nhân dân”; rằng CNXH là chuyên chính, không có dân chủ. Theo đó, những “nhà dân chủ” đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp năm 2013, sửa đổi thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo mô hình tam quyền phân lập, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo đối với xã hội, nhất là đối với Nhà nước. Để “cộng hưởng” cho những giọng điệu đó, họ “minh họa” bằng một số bất cập, thiếu sót trong thực tiễn lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhất là những khiếm khuyết liên quan đến quản lý cán bộ, đảng viên dẫn đến tình trạng tham nhũng, tha hóa...

          Cần khẳng định rằng, đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm cho một nền dân chủ đích thực mà bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân… Vì vậy, một đảng lãnh đạo không đồng nhất với độc tài lãnh đạo và càng không đồng nhất với mất dân chủ. Theo đó, không nhất thiết cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thật sự. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, quyền và lợi ích của Đảng hoàn toàn thống nhất với nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước là để cho nền dân chủ XHCN cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân luôn được bảo đảm.

          Hai là, đấu tranh với quan điểm lợi dụng “xã hội dân sự” để âm mưu gây chuyển hóa chính trị ở Việt Nam.

          Bằng nhiều chiêu bài, các thế lực thù địch và thành phần “ngụy dân chủ” thường không ngừng rêu rao về cái gọi là ranh giới giữa “xã hội dân sự” với nhà nước, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”. Theo đó, họ “thổi lên tận mây xanh”, tuyệt đối hóa, coi “xã hội dân sự” là mô hình xã hội nhân đạo nhất, tốt đẹp nhất, dân chủ nhất và ngược lại, nhà nước là cơ quan bảo thủ, chuyên chế và cưỡng bức. Theo đó, họ “kêu gọi” Đảng Cộng sản Việt Nam phải thúc đẩy “xã hội dân sự” chứ không nên và càng không thể lãnh đạo xây dựng được Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân.

           “Xã hội dân sự” còn là cái “cớ” để các thế lực chống phá đòi dân chủ hóa bất chấp pháp luật, đòi Nhà nước phải bảo đảm tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực; cổ súy cho sự “vượt ngưỡng” và thái quá trong tự do cá nhân; đưa ra tự do ngôn luận và nhân quyền để đòi lập hội, nhóm bất chấp quy định, kêu gọi biểu tình, kích động trái phép. Bên cạnh đó, họ lợi dụng vấn đề viện trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép với Đảng và Nhà nước ta về cái gọi là “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, hòng làm thay đổi đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp của chúng ta.

          Không phải ngẫu nhiên mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài thường rất quan tâm đến những địa bàn trọng điểm về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta. Phát triển các tổ chức “xã hội dân sự” luôn được không ít “đối tác hai mặt” coi như một phương thức để “diễn biến hòa bình” tiến tới “diễn biến không hòa bình” hòng triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta.

          Ba là, đấu tranh với quan điểm “Chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế tam quyền phân lập để kiểm soát quyền lực”.

          Về thực chất, quan điểm này không hướng đến mục tiêu phòng, chống tham nhũng mà muốn nhân danh chống tham nhũng, lợi dụng đấu tranh chống tham nhũng để kích động đòi thay đổi thế chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, lật đổ Nhà nước XHCN.

          Các nước tư bản hầu như đều vận dụng thuyết tam quyền phân lập trong xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước với nhiều biến thể khác nhau, tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở không ít quốc gia tư bản, thể chế này không thể ngăn chặn được sự chuyên quyền. Theo đó, có thể nói, “tam quyền phân lập” không phải là mấu chốt để giải quyết vấn đề tham nhũng. Bởi, tham nhũng xảy ra ở những nơi mà hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế còn bất cập, thiếu kín kẽ, thiếu chặt chẽ, không công khai, minh bạch; sự kiểm tra, giám sát chưa được duy trì có hiệu quả; vai trò của nhân dân, của dư luận xã hội chưa được phá huy đầy đủ; các hoạt động quản lý, giáo dục bị buông lỏng… Chính vì vậy, “tam quyền phân lập” không phải là “chìa khóa vạn năng” để xóa bỏ được nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng; không thể là phương thức và giải pháp duy nhất để đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.

          Bất kể thể chế chính trị nào, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng chỉ có thể thành công khi có quyết tâm chính trị cao, coi trọng công tác phòng ngừa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, giáo dục, tu dưỡng rèn luyện là cơ bản với trừng trị nghiêm khắc những cá nhân vi phạm; hoàn thiện thể chế về chống tham nhũng, tăng cường năng lực của bộ máy nhà nước và tính đồng bộ về pháp luật, pháp chế, kỷ cương; thực hiện tốt việc giám sát của các tổ chức, cá nhân trong xã hội với hoạt động của cơ quan nhà nước; có chính sách đãi ngộ với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức...

 

CỤM NHÀ GIÀN DK1: SỐNG VÀ CHIẾN ĐẤU NHƯ NHỮNG ĐÓA HOA!

“Vietnam: A bird sitting on a tree is never afraid of the branch breaking, because her trust is not on the branch but on it’s own wings. Always believe in yourself”. Dịch nôm na có nghĩa là: “Việt Nam như là một con chim đậu trên cành cây và không bao giờ sợ cành gãy. Bởi vì niềm tin của con chim ấy không nằm ở cành cây mà nằm ở đôi cánh. Hãy luôn luôn tin tưởng chính bản thân mình”.

Đó là dòng viết của độc giả Philippines trên diễn đàn quân sự Asean Military Forum, kèm theo bức ảnh chụp nhà giàn DK của Việt Nam tại Biển Đông. Những dòng viết ấy được đăng tải vào thời điểm tháng 6 vừa qua. Và ở cùng mốc thời gian 9 năm về trước, bãi cạn Scarborough - tên tiếng Việt là Hoàng Nham, đã bị mất về phía tay Trung Quốc sau một lần Philippines hành động hồn nhiên ngây thơ khi rút lực lượng tự vệ tại nơi này.

“Tại sao chính phủ Philippines không xây dựng những nhà giàn như Việt Nam tại Hoàng Nham, họ đã xây dựng những nhà giàn từ hơn 30 năm về trước và những công trình này đang giúp Việt Nam bảo vệ vùng biển của họ” - tài khoản Raymon Aquino.

“Chúng ta không những đã chậm trễ 30 năm mà sẽ còn lâu hơn nữa, chúng ta không biết chắc rằng bao nhiêu lâu nữa, Scarborough mới về lại với Philippines” - tài khoản Ylana Sapphire.

“Người Việt đi sau chúng ta từ rất lâu. Nhưng họ lại vượt lên trước. Họ nghèo hơn chúng ta rất nhiều, họ xây những căn nhà giữa biển (nhà giàn DK), họ bồi lấp căn cứ tại đất của chúng ta (ý nói các đảo tại Trường Sa), họ mua tàu ngầm… Với ngân sách quốc phòng tương đương Việt Nam, chúng ta có một đội tàu có thể giao chiến sòng phẳng với tàu đánh cá Việt Nam” - tài khoản Delfin Guelan

Cụm nhà giàn DK là một trong những công trình vĩ đại nhất của nước từ từ sau giải phóng đến năm 2000, cùng với nhà máy thủy điện Sơn La và đường dây 500kV Bắc Nam. Điều khiến cụm nhà giàn DK vĩ đại không nằm ở quy mô, mà nằm ở ý nghĩa to lớn về an ninh, quốc phòng, bảo vệ tài nguyên biển đảo Tổ Quốc.

Ngay đến cả Trung Quốc, một quốc gia với tiềm lực mạnh hơn, kinh tế mạnh hơn, khoa học kỹ thuật nổi trội hơn, cũng không nghĩ rằng một dự án như nhà giàn DK có thể được thực hiện. Họ cũng không nghĩ rằng Việt Nam dám làm, dám thực hiện một dự án đầy tính mạo hiểm như vậy giữa lúc bộn bề khó khăn. Năm 1988, sau Hải chiến Trường Sa, Trung Quốc tăng cường sự hiện diện tại thềm lục địa Tây Nam của Việt Nam. Trung Quốc không loại trừ việc lấn lướt xuống phía Nam và Tây Nam Biển Đông vì ưu thế gần như tuyệt đối về hải quân của khu vực. Ngày 17/10/1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký Quyết định số 19/NQ-TW về việc tiến hành xây dựng các công trình trên tất cả các bãi đá ngầm với tên gọi “Trạm dịch vụ Kinh tế - Khoa học kỹ thuật”, gọi tắt là công trình DK1.

Cùng thời điểm đó, khi biết Việt Nam đưa ra quyết định như vậy. Các nước Đông Nam Á đều thấy khá lạ lùng, họ cho rằng đây là một dự án “dở hơi” của người Việt. Vì lúc ấy Việt Nam đang là quốc gia hạ cấp ở một khu vực vùng trũng của thế giới. Để triển khai các cụm nhà giàn như vậy là một điều phi lý và chưa từng có tiền lệ trên thế giới. Họ nghĩ rằng Việt Nam đang lãng phí lớn cho một dự án đầy mạo hiểm và không khả thi. Có quá nhiều lý do khiến họ không tin vào hiệu quả của một dự án như vậy: kĩ thuật, thiên tai, chi phí xây dựng - duy trì và cả áp lực từ Trung Quốc.

Nhưng chỉ trong 9 tháng từ khi có quyết định, khoảng giữa tháng 6/1989, nhà giàn đầu tiên đã được hình thành. Trong tháng 6 năm đó, ta hoàn tất 3 nhà giàn DK1 trong sự ngỡ ngàng của hải quân các quốc gia trong khu vực. Cùng với hệ thống nhà giàn được hình thành, con đường từ đất liền ra Trường Sa được rút ngắn lại, ngư dân có thêm một “cột mốc” xác định chủ quyền Việt Nam giữa biển cả.

Khi nhận thấy Việt Nam đã xây dựng thành công cụm nhà giàn DK, người Philippines đã nhận thấy rõ tác động to lớn của những công trình như vậy tại vùng thềm lục địa, hải đảo. Và họ còn tham vọng hơn khi muốn xây dựng một ngọn hải đăng lớn cùng một công trình nghiên cứu, quân sự, hỗ trợ ngư dân tại bãi cạn Scarborough. Jose T. Almonte, từng là Tổng Giám đốc Hội đồng An ninh Quốc gia trong Nội các của Tổng thống Philippines Fidel V. Ramos, đã đề xuất xây dựng một cụm công trình như vậy với sự trợ giúp của Liên Hợp Quốc và Mỹ. Nhưng phía Mỹ và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Boutros Boutros-Ghali lại không muốn làm “mích lòng” Trung Quốc, vì thế dự án này mãi mãi trôi vào quên lãng và chỉ còn xuất hiện trong tiềm thức nuối tiếc của người dân Philippines. Trên thực tế, những thành phần của cụm công trình này đã được hình thành, nhưng chúng chưa bao giờ được đưa ra bãi cạn.

“Giá như, nếu Philippines xây được ngọn hải đăng ấy, thì một khi ngọn hải đăng này bị tấn công, sẽ kích hoạt được điều khoản phòng thủ chung với Mỹ” - Carlyle Thayer, vị giáo sư khá có tiếng về các vấn đề Biển Đông của Học viện Quốc phòng Úc. Học giả Richard Heydarian, Đại học De ​​La Salle ở Manila cho biết giá như Mỹ không bỏ rơi Philippines ngay từ đầu và hỗ trợ Philippines xây dựng những công trình trên biển, thì cục điện Biển Đông có thể đã rất khác.

Thẩm phán Tòa án Tối cao Philippines đã nghỉ hưu Antonio T. Carpio phát biểu trên tờ Philippine Daily Inquirer cho biết Philippines có “bằng chứng lịch sử về việc kiểm soát bãi cạn Scarborough. Nhưng trên thực tế, mặc dù hải quân Philippines từng kiểm soát khu vực này, nhưng chẳng có một tư liệu, công trình… nào cho thấy hải quân Philippines từng “thừa kế” hay “hiện diện” tại đây cả. Đó là vì sao từng có một giai đoạn người Philippines lấy những mảng rác từ Biển Đông để châm chọc hải quân Philippines: “Họ chỉ để lại rác mà thôi”.

Với cụm nhà giàn DK1,Việt Nam đã chứng minh cho thế giới thấy sự hiện diện của hải quân nhân dân Việt Nam tại đây và chỉ có Việt Nam mà thôi. Hơn 33 năm trôi qua, những công trình này đã vượt qua bao nhiêu gian khó, mưa bão, sự đe dọa của kẻ thù, biết bao nhiêu thế hệ, đang và sẽ chiến đấu, sống, làm việc để duy trì hình hài Tổ Quốc giữa biển. Những công trình trình ấy đứng vững chãi giữa biển khơi, như những đóa hoa giữa biển cả bao la./.

Môi Trường ST.


Tự hào huyền thoại Đoàn tàu "không số"

 

Tự hào huyền thoại Đoàn tàu "không số"

Nhân kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961-23/10/2011), chiều 19/10, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gặp mặt mặt đoàn đại biểu cựu chiến binh đường Hồ Chí Minh trên biển và đại diện cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân có chiến công xuất sắc, đặc biệt xuất sắc.

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước tri ân các anh hùng liệt sĩ, các cựu chiến binh đường Hồ Chí Minh trên biển, Chủ tịch nước khẳng định, việc mở con đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, sáng tạo, sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Cách đây 60 năm, thực hiện Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, trước đòi hỏi phát triển mạnh mẽ của cách mạng Miền Nam, ngày 23/10/1961, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759 - Đoàn tàu Không số, đơn vị tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay, mở con đường biển chiến lược quan trọng vận tải chi viện chiến trường miền Nam. Bằng ý chí cách mạng tiến công, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, lực lượng đoàn tàu “Không số” với đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển trên 150.000 tấn vũ khí, trang bị và hàng chục ngàn lượt cán bộ chi viện chiến trường Miền Nam, trực tiếp đến những nơi xa nhất, khó khăn nhất dọc các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Nam Bộ và Tây Nam Bộ để quân và dân ta làm nên những chiến công vang dội, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Phát biểu tại buổi gặp mặt, Chủ tịch nước khẳng định, việc mở con đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, sáng tạo, sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Đó là kỳ tích trong chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Con đường mang tên Bác Hồ kính yêu giúp nối liền giữa hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường ác liệt miền Nam, đến các địa bàn xa xôi, khó khăn, gian khổ và ác liệt nhất mà tuyến đường Trường Sơn trên bộ chưa vươn tới được. Điều đó góp phần nâng cao khả năng chiến đấu, phát triển lực lượng, đặc biệt đã làm thay đổi cách đánh và tương quan về lực lượng giữa ta và địch, cổ vũ phong trào đấu tranh vũ trang ngay trong lòng địch, tạo ra bước phát triển mới cho cách mạng miền Nam.

Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường vận chuyển chiến lược, độc đáo, đạt hiệu quả cao, rút ngắn được thời gian vận chuyển và thương vong ít. Chỉ tính 100 tấn vũ khí chở bằng đường biển, trên một con tàu có 10 đến 15 cán bộ, chiến sỹ đi trong 10 ngày, nếu vận chuyển bằng đường bộ thì phải cần 1 Tiểu đoàn vận tải cơ giới hoặc 1 Sư đoàn bộ binh khuân vác, thời gian mất mấy tháng trời mới đến nơi. Chính vì vậy mà đã đáp ứng được yêu cầu “thần tốc”, “đại thần tốc” của Bộ Tư lệnh Chiến dịch lúc bấy giờ.

Nêu những ý nghĩa lớn đó, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, bài quan trọng học rút ra từ việc hình thành và vận hành thành công đường Hồ Chí Minh trên biển đó là chúng ta đã xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối và luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, quyết chiến quyết thắng. Bài học nữa là luôn tích cực xây dựng lực lượng, chủ động sáng tạo phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, thuyền trưởng, chính trị viên. Đặc biệt, phải trú trọng xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất trong nội bộ, đoàn kết với nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

“Những chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác trên Biển Đông mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc. Sự dũng cảm hy sinh của những cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu "không số" đã trở thành bất tử, trở thành huyền thoại cho lớp lớp đời sau ngưỡng mộ, trân trọng và tự hào. Tổ quốc và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao của những đồng chí, đồng bào đã làm nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển. Hôm nay, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, một lần nữa, tôi đánh giá cao và tri ân những công lao to lớn của các cán bộ, chiến sỹ và đồng chí, đồng bào đã anh dũng chiến đấu, hy sinh và làm nên trên con đường vận tải chiến lược huyền thoại trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu”, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho biết.

Để tiếp tục phát huy truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình mới, phát huy truyền thống của Quân chủng Hải quân, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ: “Việt Nam chúng ta chỉ có 33 vạn km2 đất liền, một đất nước tam sơn, tứ hải nhất phần điền, 3 phần là núi, 4 phần là biển, chỉ một phần đất đai nông nghiệp. Cho nên biển không chỉ là không gian sinh tồn mà còn là bờ cõi thiêng liêng quốc gia. Chúng ta quyết bảo vệ và giữ gìn non sông bờ cõi quốc gia để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần ấy, tôi đề nghị Quân chủng Hải quân tập trung xây dựng Quân chủng tiến thẳng lên hiện đại như Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định. Trong đó lấy xây dựng Quân chủng vững mạnh về chính trị làm cơ sở nền tảng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Quân chủng”.

Và với yêu cầu mới, tiếp tục phải bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo trong mọi tình huống, giữ vững được môi trường hoà bình, ổn định trên các vùng biển để phát triển đất nước; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở đường lối quan điểm của Đảng, Nhà nước, luật pháp Việt Nam, luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.

Đối với các cựu chiến binh đường Hồ Chí Minh trên biển, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc mong muốn, mỗi đồng chí cựu chiến binh tiếp tục phát huy truyền thống hào hùng, vẻ vang của Đoàn tàu "không số" để mãi mãi là những tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của lòng dũng cảm, ý chí sắt đá, không ngừng nỗ lực tham gia xây dựng gia đình, quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn. Cùng với đó là thực hiện tốt công tác nghĩa tình đồng đội, hỗ trợ giúp đỡ nhau của các cựu chiến binh đường Hồ Chí Minh trên biển.

Các cựu chiến binh và các địa phương tôn tạo, gìn giữ các di tích của các con tàu không số, những nơi xuất phát, điểm đến với nhiều dấn ấn quan trọng để vừa tri ân các anh hùng liệt sĩ, vừa giáo dục cho các thế hệ mai sau.

Nhân dịp này, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Quốc phòng, Quân chủng Hải quân và các cấp ủy, chính quyền tiếp tục thực hiện thật tốt chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa; quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ các gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia các hoạt động của đường Hồ Chí Minh trên biển, nhất là các trường hợp có hoàn cảnh khó khăn, để góp phần làm vơi đi những mất mát, hy sinh to lớn của đồng chí, đồng bào ta./.