Thứ Năm, 6 tháng 4, 2023

SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TÁC ĐỘNG ĐA CHIỀU CỦA MẠNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Nâng cao hiệu quả đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đây là cuộc chiến phức tạp và khó khăn trong bối cảnh các thế lực thù địch lợi dụng sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của mạng xã hội để gia tăng các phương thức tinh vi, nhiều thủ đoạn nguy hiểm nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Theo quy định tại Khoản 22 Điều 3 Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng quy định: mạng xã hội là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin, bao gồm: dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các dịch vụ khác. Mạng xã hội có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau, song đều ứng dụng nền tảng Internet, nội dung do người dùng tự sáng tạo, chia sẻ.

Mạng xã hội bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ đầu những năm 2000 và phát triển với tốc độ nhanh chóng, dần trở thành nhu cầu thiết yếu của xã hội. Hiện nay, không chỉ những người trẻ tuổi, có trình độ công nghệ thông tin mới sử dụng mạng xã hội như một công cụ làm việc, kết nối liên lạc, giải trí, cập nhật tin tức, quảng cáo, bán hàng online… mà ngay cả người già, thậm chí trẻ em cũng vào mạng xã hội để tìm kiếm thông tin, kết nối bạn bè và giải trí. Sự phổ biến nhanh chóng của mạng xã hội đưa đến cả tác động tích cực và tiêu cực, bên cạnh những lợi ích không nhỏ là những hệ lụy khôn lường nếu không biết cách sử dụng, quản lý. Điều này đặt ra vấn đề cấp thiết trong công tác quản trị, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi các thế lực thù địch ra sức lợi dụng mạng xã hội để thực hiện nhiều chiêu trò và phương thức tinh vi, nguy hiểm nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.

Trên thực tế, một số người thiếu ý thức và trách nhiệm với cộng đồng đã sử dụng mạng xã hội để đưa thông tin sai sự thật, lôi kéo những người dân nhẹ dạ cả tin, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng xấu đến ổn định xã hội. Một số trang mạng sử dụng các chiêu trò xuyên tạc, thổi phồng sự việc, bóp méo bản chất vấn đề, kích thích trí tò mò của công chúng, gây chia rẽ nội bộ, hoài nghi trong dư luận. Một số tổ chức, cá nhân đưa thông tin sai lệch, lợi dụng các tiện ích của mạng xã hội để thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng, từ đó định hướng dư luận, thậm chí truyền bá lối sống ích kỷ, bạo lực, lừa đảo trên mạng, khiến một bộ phận thanh niên lệch chuẩn trong lối sống. Nếu trước kia, người dân tôn vinh những anh hùng dân tộc, anh hùng trong lao động sản xuất, chiến đấu hoặc là các danh nhân văn hóa… thì hiện nay một số người trẻ tuổi lại mất phương hướng, thần tượng những người vi phạm pháp luật, với những hành vi sai trái, lệch chuẩn trên mạng xã hội. Đó là những biểu hiện đáng lo ngại của sự lệch lạc về nhận thức của một bộ phận giới trẻ hiện nay. Rõ ràng, giới trẻ chịu tác động không nhỏ từ những thông tin trên mạng xã hội và rất dễ bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông, thiếu định hướng. Nói rộng hơn, sự lệch chuẩn thần tượng có thể dẫn đến những hành động cổ súy cho tư duy cực đoan, định hướng sai lầm trong phát triển nhân cách, gây ra những nguy hại khó lường, bắt nguồn từ chính mạng xã hội.

Trên không gian ảo, người dùng có thể ẩn danh và dễ dàng thể hiện bản thân, đây cũng là môi trường tồn tại nhiều thông tin giả mạo, sai sự thật, thiếu trách nhiệm, xúc phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân, xâm phạm quyền, lợi hợp pháp của các tổ chức. Tình trạng nhiễu loạn thông tin, tung tin đồn thất thiệt, giật gân nhằm thu hút sự chú ý trên mạng xã hội ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng. Mạng xã hội đang trở thành công cụ để các đối tượng phạm tội hình sự, kinh tế, ma túy lợi dụng tạo tài khoản ảo, kết bạn, làm quen sau đó lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đánh cắp mật khẩu, chiếm giữ quyền kiểm soát tài khoản trái phép nhằm trục lợi. Không ít người bị dẫn dắt bởi các thông tin độc hại trên mạng xã hội, tin theo những luận điệu của chúng và bị mua chuộc, trở thành công cụ phục vụ cho mưu đồ của các thế lực phản động. Chúng thiết lập và sử dụng các trang mạng xã hội nhằm tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi nhọ chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Chúng đăng tải những bài viết xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, khiến một bộ phận người dân hoang mang, dao động, mất niềm tin vào chế độ. Nhiều trang mạng xã hội đã lợi dụng những sai sót của một số cán bộ, đảng viên trong quản lý kinh tế để kích động dư luận, hình thành tư tưởng chống đối, kêu gọi biểu tình chống chế độ, làm xuất hiện các điểm nóng chính trị - xã hội. Một số trang mạng đã đăng tải thông tin không đúng sự thật, kích động người dân bạo loạn, cung cấp các tài liệu sai lệch, tạo diễn đàn xuyên tạc, nói xấu chính quyền.

Với mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch tìm cách chống phá bằng mọi thủ đoạn, vừa công khai, vừa bí mật, kết hợp bên trong và bên ngoài hòng làm thay đổi quan điểm, lập trường chính trị của Đảng, làm cho Đảng ta suy yếu về tư tưởng và tổ chức, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhiều nội dung của tư tưởng đa nguyên, xóa bỏ độc quyền lãnh đạo được ráo riết tuyên truyền dưới nhiều hình thức nhằm xâm nhập vào xã hội và nội bộ Đảng ta. Một số đối tượng cơ hội chính trị, mặc dù đang hưởng thụ những thành quả cách mạng nhưng lại mưu cầu lợi ích cá nhân, tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, viết bài bôi nhọ chế độ, chống phá Nhà nước Việt Nam./.

                                                                                                       VHT.

 

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN TINH THẦN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

 

Trận động đất ngày 6/2 tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria đã để lại những hậu quả nặng nề. Đến nay, thảm họa này đã cướp đi sinh mạng của hơn 42.000 người. Trong đó, riêng Thổ Nhĩ Kỳ đã có hơn 35.000 người thiệt mạng và hàng vạn người bị thương. Trước những hậu quả do trận động đất nói trên gây ra, với tinh thần đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng cử các lực lượng tham gia công tác tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ người dân Thổ Nhĩ Kỳ. Ngay sau khi tới thành phố Adiyaman (Thổ Nhĩ Kỳ), trong ngày 11/2, đoàn công tác cứu nạn quốc tế của Bộ Công an gồm 24 cán bộ, chiến sĩ đã phối hợp với các lực lượng cứu hộ quốc tế thực hiện việc đào bới, tìm kiếm dưới các đống đổ nát, các tòa nhà bị sập để tìm, giải cứu người mắc kẹt trong thảm họa động đất. Đối với lực lượng của Bộ Quốc phòng, đêm 12/2, Đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam gồm 76 cán bộ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã lên đường sang hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ khắc phục hậu quả động đất. Đến ngày 14/2, lực lượng hỗ trợ tìm kiếm cứu nạn của Quân đội nhân dân Việt Nam đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tại khu vực đường Rustem Tumer Pasa, Antakya thủ phủ của tỉnh Hatay (Thổ Nhĩ Kỳ), một trong số tỉnh bị thiệt hại nặng nề nhất do thảm họa động đất vừa qua gây ra.

Trong khi dư luận đánh giá cao Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn và hỗ trợ khắc phục hậu quả thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ thì đáng tiếc, vẫn có những luận điệu sai trái, cố tình bóp méo nghĩa cử cao đẹp của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Một số cá nhân cho rằng, việc Việt Nam hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ chỉ là “làm cho có phong trào”; là “đánh bóng hình ảnh” Việt Nam… Một số ý kiến còn đặt vấn đề, “vì sao Việt Nam còn nghèo, mà lại hỗ trợ người dân nước khác, sao không giúp người dân khó khăn trong nước?”… Trước hết cần khẳng định, việc Việt Nam cử lực lượng tham gia tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ tài chính để khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ, Syria là hết sức kịp thời và hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như truyền thống tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam. Trước những hậu quả nặng nề do trận động đất ngày 6/2 gây ra, Liên hợp quốc kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ ứng cứu, khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đã cử lực lượng, phương tiện, vật chất đến các quốc gia trên để ứng cứu, hỗ trợ khắc phục hậu quả động đất. Đến nay đã có hơn 90 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế cử lực lượng cứu hộ, cứu nạn cũng như viện trợ, cam kết viện trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Do vậy, việc làm của Việt Nam không chỉ là sự hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc, mà còn rất phù hợp với xu thế quan hệ quốc tế hiện nay; là sự kế thừa truyền thống nhân văn, nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam.

Mặt khác, đây không phải là lần đầu tiên chúng ta hỗ trợ quốc gia khác khắc phục hậu quả thiên tai. Năm 2018, trước những thiệt hại to lớn về người và tài sản do động đất, sóng thần gây ra tại thành phố Palu và thị trấn Dongala, tỉnh Sulawesi, Indonesia, trên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, Chính phủ Việt Nam đã quyết định hỗ trợ khẩn cấp 100.000 USD, góp phần hỗ trợ Chính phủ Indonesia và người dân vùng bị nạn khắc phục hậu quả. Trước đó, khi động đất và sóng thần gây thiệt hại lớn tại các tỉnh miền Đông Bắc Nhật Bản (năm 2011), Chính phủ Việt Nam quyết định trợ giúp nhân dân Nhật Bản 200.000 USD để góp phần khắc phục hậu quả. Đặc biệt, hưởng ứng lời kêu gọi của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, gần 1.500 tổ chức, cá nhân ở Việt Nam đã ủng hộ nhân dân Nhật Bản bị thiên tai với số tiền hơn 161 tỷ đồng (tương đương 7,783 triệu USD).

Bên cạnh đó, việc tham gia tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ còn là biểu hiện sinh động cho chính sách đối ngoại ưu việt, thái độ cộng đồng trách nhiệm và tinh thần đoàn kết quốc tế của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam; đồng thời, khẳng định uy tín, năng lực của lực lượng Công an và Quân đội nước ta trong hội nhập, quan hệ, hợp tác quốc tế. Thực tế ngay trong những ngày đầu thực hiện nhiệm vụ tại Thổ Nhĩ Kỳ, các lực lượng tìm kiếm, cứu nạn của Việt Nam đã được nước bạn cũng như các đoàn quốc tế tham gia công tác cứu nạn cứu hộ đánh giá rất cao sự nhiệt tình và tính chuyên nghiệp. Các lực lượng tìm kiếm, cứu nạn của chúng ta đã sử dụng thuần thục những thiết bị chuyên dụng, hiện đại để thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn; đặc biệt là sự chuyên nghiệp trong sử dụng các thiết bị banh, cắt thủy lực, tìm kiếm bằng camera hình ảnh và âm thanh, sử dụng các thiết bị liên quan đến kích, nâng và tách những khối bê tông để phục vụ cho việc cứu nạn cứu hộ. Nhờ vậy, đã mang lại hiệu quả tích cực.

Rõ ràng, việc tham gia tìm kiếm, cứu nạn và hỗ trợ khắc phục hậu quả thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ đã thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế, trách nhiệm cộng đồng của Việt Nam. Những ý kiến cho rằng, việc Việt Nam hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ chỉ là “làm cho có phong trào”; là “đánh bóng hình ảnh” Việt Nam… chỉ là những luận điệu sai trái, những ý kiến phiến diện, một chiều xuất phát từ động cơ chính trị thiếu trong sáng. Các cá nhân đưa ra những ý kiến này đã đi ngược lại những giá trị lợi ích quốc gia, dân tộc; cố tình không nhận thấy ý nghĩa nhân văn, nhân đạo trong việc Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn và hỗ trợ khắc phục hậu quả thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ; cố tình bóp méo nghĩa cử cao đẹp của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do đó, các luận điệu này cần bị vạch trần và lên án mạnh mẽ./.

                                                                                                          VHT.

 

ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRÊN MẠNG XÃ HỘI HIỆN NAY

 

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây dựng là chính, tích cực chủ động phòng, chống là quan trọng; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng”. Trong quá trình cách mạng, Đảng ta thường xuyên cảnh giác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng; đồng thời cũng đặt ra yêu cầu nâng cao nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, nên đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và là cơ sở vững chắc để Đảng đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo; là kim chỉ nam định hướng cho mọi hành động của mình. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được cấu thành bởi hai thành tố có mối quan hệchặt chẽ, khăng khít với nhau là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thế giới mà chúng ta sống đang diễn ra những quá trình, những xu hướng quá độ mà sự vận động của nó là điều rất khó dự lường, tác động mạnh mẽ và sâu sắc, làm thay đổi toàn bộ đời sống nhân loại. Thế giới hiện nay vẫn đang quá độ từ trật tự thế giới cũ của thời kỳ chiến tranh lạnh sang trật tự thế giới mới, nhưng vẫn chưa được định hình rõ nét, đặc biệt trở nên rất khó đoán lường sau khi ông Joe Biden làm Tổng thống Mỹ. Thế giới cũng bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, (cách mạng công nghiệp 4.0), với sự phát triển vô cùng nhanh chóng, mà hiện nay chúng ta chưa có thể nắm bắt và tiên lượng hết mọi điều sẽ diễn tiến và hệ quả của nó đối với cuộc sống con người, mọi quốc gia dân tộc và cộng đồng nhân loại. Thế giới hiện nay lại đang chứng kiến sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc và dân túy, những nguy cơ phá vỡ nhiều luật lệ và tổ chức, thiết chế quốc tế tưởng như đã phát triển ổn định, bền vững của thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Thế giới vẫn đang phải đối mặt với sự gia tăng sức mạnh quốc phòng, quân sự, đặc biệt là sự ra đời nhiều loại vũ khí trang bị mới, kể cả vũ khí hạt nhân với những chính sách cực đoan của nhiều nước, đặc biệt là các nước lớn, các nước phát triển, treo lơ lửng trên đầu nhân loại nguy cơ xung đột, chiến tranh quy mô lớn, có thể bùng phát vào bất kỳ ở đâu và thời điểm nào.

Toàn bộ những quá trình, những xu hướng quá độ nêu trên đang vận động, biến đổi và phát triển nhanh chóng trong điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa phát triển hết sức mạnh mẽ và sâu rộng; phản ánh sâu sắc tính chất gay go, phức tạp mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu trong bối cảnh lịch sử mới. Những quá trình, những xu hướng đó tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng vừa gián tiếp vừa trực tiếp đến nền tảng tư tưởng  và hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Sự phát triển của mạng xã hội và sự lợi dụng không gian mạng chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay... Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam, gây nhiều khó khăn đối với các đơn vị cung cấp thông tin, quản lý mạng xã hội hiện nay./.

                                                                                             VHT.

 

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG PHI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

Những khuynh hướng tư tưởng phi XHCN không xuất hiện từ hư vô, mà có nguồn gốc chủ yếu từ các nhân tố phi XHCN trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhận diện và phản bác một số khuynh hướng tư tưởng phi XHCN trên không gian mạng hiện nay có ý nghĩa thiết thực... Thực tiễn khi xây dựng học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sớm cảnh báo thời kỳ chuyển biến từ hình thái tư bản chủ nghĩa lên hình thái cộng sản chủ nghĩa chưa thể là một xã hội phát triển trên cơ sở của chính nó, mà là một trạng thái xã hội mà về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần… còn mang những dấu vết của xã hội cũ. Đến đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin là lãnh tụ đầu tiên trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH. Người đã luận chứng sinh động và cụ thể phạm trù thời kỳ quá độ có nghĩa là “trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội”.

Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… quyết định sự hình thành và bảo đảm con đường phát triển XHCN, vẫn còn không ít nhân tố mà về bản chất chưa thực sự là của CNXH. Các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tư bản có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài…; một số quan hệ sản xuất vẫn còn cơ chế bóc lột lao động; sự tồn tại của cơ cấu xã hội đa tầng, đa dạng với đội ngũ khá đông đảo các chủ tư bản nước ngoài cùng những chủ sử dụng lao động trong nước; trình độ trưởng thành chưa cao của đội ngũ công nhân, nông dân, trí thức xã hội chủ nghĩa; sự xâm nhập của các giá trị tư bản chủ nghĩa thông qua quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế; những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa và ưu thế tạm thời của các cường quốc tư bản chủ nghĩa trên thế giới hiện nay…, đó là những tiền đề, cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của các khuynh hướng tư tưởng phi XHCN.

Biểu hiện rõ nhất của các khuynh hướng tư tưởng phi XHCN trên không gian mạng hiện nay là trạng thái, phát ngôn mơ hồ về chủ nghĩa tư bản và CNXH. Không ít giọng điệu ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là bằng chứng khách quan của một thử nghiệm thất bại. Một số tiếng nói cực đoan hơn, đã lớn tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như Hàn Quốc, Đài Loan… Họ đã cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các anh hùng, chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm hàng loạt con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Đất nước đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa Xuân năm 1930.

Biểu hiện nguy hiểm thứ hai là trạng thái, phát ngôn mơ hồ về kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trên thế giới và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Khá nhiều blogger say sưa ngụy biện, đã là kinh tế thị trường là tất cả đều giống nhau, đều chấp nhận bóc lột và các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là trước sau đều đi lên chủ nghĩa tư bản ! Những blogger này chỉ nhận biết cái bên ngoài, bỏ qua nhiều chất liệu định tính bên trong của mỗi nền kinh tế thị trường. Ngay trong khuôn khổ của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng tồn tại nhiều mô hình khác nhau: mô hình kinh tế thị trường tự do thuần khiết Ănglôxắcxông ở Anh, Bắc Mỹ; mô hình kinh tế thị trường xã hội ở Tây Âu, Bắc Âu; mô hình kinh tế thị trường Đông Á… Kinh tế thị trường là một trình độ, nấc thang phát triển của kinh tế nói chung, được quyết định suy cho cùng bởi trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất. Bởi vậy, nó không phải độc quyền, càng không phải là của riêng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội có con đường và cách thức của mình trong phát triển kinh tế thị trường phù hợp với bối cảnh cụ thể. Ở đó, chúng ta chấp nhận cả những thành phần kinh tế bóc lột lao động, nhưng không chấp nhận bóc lột như một chế độ kinh tế - xã hội; chúng ta chủ động phát triển một số quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng trong bối cảnh các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo. Với tính cách là một quan hệ kinh tế giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, hoạt động bóc lột nêu trên ở Việt Nam hiện nay được triển khai trong điều kiện có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và hàng loạt hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế bảo vệ người lao động trên con đường Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Biểu hiện nguy hiểm thứ ba là sự xem nhẹ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thông qua chính đảng tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay, trong đó có công cuộc đổi mới từ năm 1986, đúng là sự nghiệp, là thành quả của Nhân dân, của tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhưng theo mục tiêu, lý tưởng và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất. Nếu giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân và các lực lượng cách mạng khác, thì sự nghiệp cách mạng sẽ rơi vào “bài ai điếu” xót xa, như Công xã Paris năm 1870 đã nếm trải. Ngược lại, nếu mơ hồ cho rằng bất kỳ giai cấp nào cũng có thể lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì sẽ rơi vào một thứ chủ nghĩa không tưởng lớn nhất của mọi thời đại ! Công nhân xứng đáng với vai trò lãnh đạo sự nghiệp xây dựng một xã hội không còn bóc lột, áp bức, bất công vì giai cấp này luôn đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và là giai cấp duy nhất chỉ có thể giải phóng được mình khi giải phóng tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Giai cấp công nhân Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam, đã rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành lực lượng lãnh đạo, dẫn dắt toàn dân tộc đến kỷ nguyên của độc lập, tự do, đổi mới thành công, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Biểu hiện nguy hiểm thứ tư là sự xem nhẹ, phủ nhận sức mạnh của lý tưởng xã hội chủ nghĩa và niềm tin, ý chí cách mạng trong sự nghiêp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong suốt chiều dài lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước và sau C.Mác, chủ nghĩa xã hội bao giờ cũng được nhận thức như một lý tưởng, niềm tin và ý chí; nó không chỉ được xây dựng trên cơ sở các điều kiện vật chất cần thiết, mà còn phải nhất thiết nhờ vào hoạt động tự giác và sức mạnh tinh thần to lớn của nhân tố con người xã hội chủ nghĩa. Trên không gian mạng hiện nay, có luận điệu cho rằng, chỉ có thể tin tưởng và xây dựng được niềm tin về một vấn đề gì đó khi có đầy đủ nhận thức về nó! Tuy nhận thức khoa học là một trong những cơ sở quan trọng của niềm tin cách mạng, nhưng đối với từng người và trong thời điểm cụ thể, không thể nhận thức sâu sắc mọi vấn đề liên quan đến sự nghiệp cách mạng. Trong bối cảnh ấy, cần hơn hết một niềm tin cách mạng mãnh liệt, một lý tưởng xã hội chủ nghĩa thường trực, soi đường cho chúng ta vững bước trên con đường lớn của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Biểu hiện nguy hiểm thứ năm là nghi ngờ, phủ nhận giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ XIX, đầu XX, không còn sức sống trong thời đại mới, nhất là đối với các quốc gia ngoài châu Âu như Việt Nam. Một số người khác lập luận rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn sinh lực cho những chuyển động của thế giới trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo… Nếu lập luận theo cách tầm thường đó, chắc chắn sẽ dẫn đến phủ nhận toàn bộ giá trị của nhiều di sản tư tưởng, tinh thần khác của nhân loại.

Như chúng ta đều biết, chủ nghĩa Mác - Lênin nghiên cứu vạch ra những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên và xã hội; từ đó nghiên cứu vạch ra những quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong đó có phương thức bóc lột giá trị thặng dư và, trên cơ sở đó, nghiên cứu vạch ra quy luật của cách mạng vô sản và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đúng là chỉ có thể ra đời trong điều kiện nền sản xuất công nghiệp điển hình ở châu Âu từ cuối thế kỷ XIX, nhưng điều đó không có nghĩa là lý luận đó chỉ đúng với bối cảnh ấy! Hơn nữa, cũng cần lưu ý thêm, nền sản xuất công nghiệp của nhân loại dù ở trình độ công nghệ máy hơi nước cuối thế kỷ XVIII, điện khí hóa cuối thế kỷ XIX, điện tử hóa từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX hay trong kỷ nguyên 4.0 hiện nay, vẫn là nền sản xuất công nghiệp, nằm trọn trong thời đại công nghiệp. Bản thân tên gọi cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4thIndustrial Revolution) đã khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thế giới đang thay đổi hiện nay./.

                                                                                                                           VHT.

QUÁN TRIỆT THƯC HIỆN CHIẾN LƯỢC ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI

 

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ quan điểm động lực phát triển: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh đòi hỏi chúng ta phát huy cao độ khối đoàn kết dân tộc để có thể đứng vững và phát triển. Do vậy, thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc gắn với quốc phòng, an ninh là vấn đề cấp thiết và lâu dài.

Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Chú trọng tính đặc thù của từng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đặc biệt là, “có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Đại hội XIII nêu rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự phát triển chung các cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.

Tập trung, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng trước hết là sự nghiệp của chính đồng bào các tộc người định cư ở đó.

NHẬN THỨC TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA VỀ KINH TẾ

 

Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XIII đã xác định để: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mớicần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả: “Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên. Những biểu hiện chủ yếu của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóа” trên lĩnh vực kinh tế là: hạ thấp, tiến tới làm mất vаi trò chủ đạо củа kinh tế nhà nước, vаi trò quản lý kinh tế củа Nhà nước xã hội chủ nghĩa; phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đòi tư nhân hóа hоàn tоàn nền kinh tế, xóа bỏ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thаy thế bằng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩа.

Khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩаgiữ vаi trò chi phối cơ sở hạ tầng kinh tế, thì kiến trúc thượng tầng kinh tế xã hội chủ nghĩа tất yếu thаy đổi, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ được thаy bằng chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩа. Đây chính là mục đích “tự diễn biến”, “tự chuyển hóа” trên lĩnh vực kinh tế trоng chiến lược “diễn biến hòа bình” củа các thế lực thù địch đối với Việt Nam hiện nаy.“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóа” trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện naybiểu hiện tập trung ở một số phương diện:

Nền kinh tế đang có nguy cơ “chệch hướng”. Cụ thể là:Sự yếu kém củа các tập đоàn kinh tế nhà nước và các dоаnh nghiệp nhà nước; thu hút FDI không hiệu quả; xа rời mục tiêu phát triển kinh tế tri thức, bảо vệ môi trường và công nghiệp hоá - hiện đại hоá. Nhóm lợi ích trоng nền kinh tế. Hiện tại chưа có nghiên cứu chi tiết về các nhóm lợi ích và hành vi trục lợi của các nhóm này ở Việt Nаm. Tuy nhiên, nhiều ý kiến chо rằng, các ngân hàng là nhóm lợi ích lớn nhất, thể hiện quа hành vi thâu tóm bất động sản.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận diện rõ ràng, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, quyết tâm phấn đấu, rèn luyện và đấu tranh với mọi biểu hiện“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh là vấn đề có tính quy luật, mang tính sống còn của mọi quốc gia, dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh là những lĩnh vực khác nhau, song giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Kinh tế - xã hội quyết định đến quốc phòng, an ninh; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn diện lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, là điều kiện có tính tiên quyết để xây dựng, phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ, hoạt động đối ngoại, tạo môi trường hòa bình, hợp tác, phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực phát triển kinh tế, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh. Trên thực tế kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh là một tất yếu khách quan, là quy luật lịch sử được vận dụng ở tất cả quốc gia dân tộc có độc lập chủ quyền.

Ở Việt Nam, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh quốc phòng an ninh là một quan điểm chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh trên địa bàn cả nước nói chung và từng địa phương nói riêng, trong suốt thời gian qua với nhiều hình thức, biện pháp phong phú sinh động mang lại kết quả khả quan góp phần ổn định kinh tế - xã hội, củng cố được quốc phòng an ninh, giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm cho thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Là cán bộ kiểm tra của Đảng tôi tự quán triệt và nhận thức sâu sắc đúng đắn quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong xác định về đối tác và đối tượng của cách mạng nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay, thấy được tính đúng đắn sáng tạo và khoa học của Đảng ta trong xác định đối tác, đối tượng vừa phù hợp với lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng HCM, vừa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Từ đó chủ động phối hợp làm tốt công tác giáo dục quán triệt…, để mọi cán bộ đảng viên, quần chúng nắm vững quan điểm của Đảng, Nhà nước về việc xác định đối tác, đối tượng; không mơ hồ mất cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch đang tiến hành với cách mạng nước ta hiện nay.

KẾT HỢP CHẶT CHẼ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG AN NINH VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

 

Phát triển kinh tế xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng phải được thực hiện chặt chẽ, toàn diện trên từng địa bàn lãnh thổ, trong các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, các chương trình dự án, các hoạt động kinh tế đối ngoại, giữ vững độc lập, tự chủ trong hợp tác kinh tế quốc tế. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội phải kết hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ; an ninh văn hoá, tư tưởng; an ninh thông tin. Phát hiện đấu tranh, ngăn chặn các thế lực thù địch thông qua hợp tác kinh tế, văn hoá, giáo dục; tác động làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, từng bước chuyển hoá chính trị; giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước Xây dựng, củng cố quốc phòng an ninh nâng cao sức mạnh quốc phòng của đất nước, thực chất là xây dựng sức mạnh tổng hợp của quốc phòng, bao gồm xây dựng tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng; phương thức đấu tranh quốc phòng; lãnh đạo, quản lý quốc phòng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để nâng cao sức mạnh quốc phòng của đất nước cần tổ chức triển khai đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp: Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng an ninh, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị về thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh bảo vệ Tổ quốc; kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ với tăng cường tiềm, thế trận quốc phòng; nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả thời bình và khi có chiến tranh; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý Nhà nước đối với quốc phòng an ninh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định và lợi thế cho xây dựng, củng cố quốc phòng.

Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải luôn luôn tăng cường cảnh giác, tích cực, chủ động trong nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng – an ninh, trong đó giữ vững chủ quyền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam phải luôn được đặt lên hàng đầu. Cần phải xác định nhiệm vụ bảo vệ đất nước là nhiệm vụ của toàn dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, trình độ và thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH KHÔNG TỪ BỎ ÂM MƯU LẬT ĐỔ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM

 

Nghị quyết 35 ngày 22/10/2018 của Bộ chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới khẳng định: bảo vệ vững chắc nền tảng của Đảng, củng cố và tăng cường niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội và niềm tin của nhân dân với Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, giữ vững môi trường hoà bình ổn định, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động không thay đổi; trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và thời gian vừa qua, trong nước diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp thậm chí tinh vi, nguy hiểm hơn. Hiện nay, phát hiện các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối trong nước ráo riết triển khai hàng chục “kế hoạch”, “chiến lược”, “kịch bản” với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, nguy hiểm chống phá Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội động nhân dân các cấp. Các đối tượng triệt để sử dụng mạng Internet, soạn thảo tán phát tài liệu, phát động tuyên truyền, xuyên tạc phá hoại tư tưởng nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động tư tưởng bất mãn, phản kháng chính quyền.

Đáng chú ý, âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động nhằm thành lập “công đoàn độc lập”, “nghiệp đoàn độc lập”, ý đồ tập hợp lực lượng phá rối an ninh, bạo loạn, mục tiêu cao nhất là lật đổ chính quyền thông qua cam kết cho phép thành lập tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp khi tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương rất đáng lo ngại. Đây sẽ là vấn đề an ninh tiềm tàng trong thời gian tới, nếu không chủ động các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn.

 

Thăng trầm trong quan hệ Nhật Bản - Nga những năm gần đây.

 Lịch sử quan hệ Nhật Bản - Nga bị chi phối bởi nhiều yếu tố phức tạp, trong đó chiếm vị trí trung tâm là những căng thẳng kéo dài liên quan đến vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Với quan điểm tiếp cận mới của chính quyền Nhật Bản dưới thời kỳ Thủ tướng Shinzo Abe, quan hệ Nhật Bản - Nga đã có những tiến triển tích cực. Tuy nhiên, cuộc xung đột Nga - Ukraine và những thay đổi sâu sắc trong cục diện khu vực và thế giới thời gian gần đây khiến lập trường của Nhật Bản đối với Nga có nhiều thay đổi.

Quan hệ Nhật Bản - Nga dưới thời kỳ Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe

Trở ngại lớn nhất trong quan hệ Nhật Bản - Nga là vấn đề tranh chấp bốn đảo, bao gồm Etorufu, Kunashiri, Shikotan và Habomai, được Nhật Bản gọi là “lãnh thổ phương Bắc” và Nga gọi là “quần đảo Nam Kuril”. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, theo Hiệp định Yalta, các cường quốc thắng trận, gồm Liên Xô (trước đây), Mỹ và Anh thống nhất trao quần đảo Kuril cho Liên Xô. Tuy nhiên, Nhật Bản không chấp nhận và không công nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận này. Năm 1956, hai nước khôi phục quan hệ ngoại giao thông qua ký kết Tuyên bố chung nhân chuyến thăm Nga của Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama Yukio, tuy nhiên vẫn chưa ký kết Hiệp ước hòa bình và chưa tìm được giải pháp cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Nhiệm kỳ thứ hai của Thủ tướng Nhật Bản S. Abe chứng kiến cách tiếp cận mới của Nhật Bản đối với Nga, theo đó nhiều giải pháp đã được Chính phủ Nhật Bản thúc đẩy. Trọng tâm trong nỗ lực của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe là giải quyết tranh chấp lãnh thổ lâu đời và thúc đẩy các cuộc đàm phán hòa bình bằng cách sử dụng các động lực kinh tế. Chính sách này được phát triển dựa trên lợi ích của Nhật Bản trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều thay đổi, đồng thời cũng có nhiều điểm song trùng với những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Thủ tướng Nhật Bản S. Abe và Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Vladivostok (Nga), năm 2019_Nguồn: kyodonews.net

Yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy nỗ lực tiếp cận và giải quyết vấn đề lịch sử trong quan hệ với Nga của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe chính là những cân nhắc, tính toán của Nhật Bản đến vấn đề cân bằng địa - chính trị chiến lược trong khu vực. Sự trỗi dậy và ngày càng quyết đoán của Trung Quốc tại khu vực, tính phức tạp của vấn đề tranh chấp lãnh thổ liên quan đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản, lợi ích ngày càng chặt chẽ và mối quan hệ có xu hướng ngày càng bền chặt giữa Nga và Trung Quốc đặt ra nhiều thách thức, khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các nguồn tài nguyên dồi dào của Nga, nhất là dầu mỏ, cũng là một mục tiêu chiến lược trong bối cảnh Nhật Bản gặp nhiều khó khăn về vấn đề tự chủ năng lượng sau thảm họa hạt nhân Fukushima.

Về phía Nga, ưu tiên của Nga là phát triển quan hệ với Nhật Bản để tìm kiếm những lợi ích về kinh tế và an ninh. Nga cần Nhật Bản như một thị trường quan trọng về các nguồn đầu tư và công nghệ, cũng như là một đối tác tiềm năng để phát triển vùng Bắc Cực. Bên cạnh đó, về khía cạnh địa - chính trị, thúc đẩy quan hệ với Nhật Bản có thể giúp Nga cân bằng cán cân quyền lực tại khu vực, nhất là trong bối cảnh sự trỗi dậy của Trung Quốc đã và đang ảnh hưởng lớn tới lợi ích của tất cả các bên và đối với Nga là sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở vùng Viễn Đông cùng hoạt động ngày càng tích cực của Trung Quốc ở khu vực Trung Á, nhất là Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI). Tìm kiếm cải thiện quan hệ và thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ hơn với những đối tác lớn, như Ấn Độ, Nhật Bản là một lựa chọn có ý nghĩa chiến lược về an ninh đối với Nga. Có thể nói, ưu tiên mới của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe trong cải thiện quan hệ với Nga được bổ sung và có nhiều nét song trùng với chính sách “hướng Đông” của Tổng thống Nga Vladimir Putin, với mục tiêu tập trung vào phát triển vùng Viễn Đông của Nga thông qua tăng cường quan hệ với các quốc gia Đông Bắc Á.

Dưới thời kỳ Thủ tướng Nhật Bản S. Abe, về cơ bản, Nhật Bản đã thay đổi lập trường vốn trước nay kiên định, rằng “không tách rời vấn đề kinh tế và chính trị”, nghĩa là giải quyết vấn đề lãnh thổ là mấu chốt trong phát triển toàn diện quan hệ Nhật Bản - Nga. Thay vào đó, Nhật Bản sử dụng chính sách thúc đẩy hợp tác kinh tế song song với đàm phán về lãnh thổ, đặt mục tiêu thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước, nuôi dưỡng lòng tin và coi các khoản đầu tư là đòn bẩy chính trị để làm dịu quan điểm của Nga trong vấn đề lãnh thổ.

Về kinh tế, Thủ tướng Nhật Bản S. Abe đã công bố kế hoạch 8 điểm nhằm cải thiện can dự kinh tế của Nhật Bản đối với Nga, tập trung vào các lĩnh vực, như chăm sóc sức khỏe, kết cấu hạ tầng đô thị cho các thành phố thông minh, năng lượng, đa dạng hóa công nghiệp và nâng cao năng suất, phát triển các cơ sở công nghiệp ở vùng Viễn Đông, hợp tác về công nghệ tiên tiến và giao lưu nhân dân.

Về chính trị, cân nhắc lợi ích về an ninh và địa - chính trị đã làm nền tảng cho nỗ lực tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga, được thể hiện qua việc hai bên thiết lập Đối thoại quốc phòng và chính sách đối ngoại 2+2 vào năm 2013. Sách Xanh Ngoại giao Nhật Bản năm 2016 đã nhấn mạnh việc cải thiện quan hệ với Nga đóng góp cho lợi ích của Nhật Bản cũng như đối với hòa bình và thịnh vượng khu vực. Thủ tướng Nhật Bản S. Abe tham dự Diễn đàn kinh tế phương Đông thường niên do Nga tổ chức hằng năm từ năm 2016 đến năm 2019, đồng thời với những nỗ lực xây dựng quan hệ cá nhân với Tổng thống Nga V. Putin. Trong 8 năm cầm quyền, hai nhà lãnh đạo đã có 27 cuộc gặp thượng đỉnh. Sự chuyển hướng này đã tác động tích cực thúc đẩy quan hệ Nhật Bản - Nga trở nên nồng ấm hơn. Cuộc khủng hoảng Crime năm 2014 có tác động nhất định tới tiến triển trong quan hệ Nhật Bản - Nga, tuy nhiên Nhật Bản vẫn nỗ lực duy trì chính sách ngoại giao khá mềm mỏng với Nga. Nhật Bản cùng các nước thành viên Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7) triển khai các biện pháp trừng phạt Nga, song lệnh trừng phạt của Nhật Bản không nhắm vào đầu tư, công nghệ, du lịch và quan trọng hơn là lĩnh vực năng lượng của Nga. Kể từ năm 2016, Nhật Bản đẩy mạnh việc tiếp cận với Nga và nỗ lực thu hẹp những khác biệt giữa Nga và phương Tây trên cương vị Chủ tịch G-7. Tháng 5-2016, một bước đột phá quan trọng đã đạt được giữa hai nước trong bối cảnh Nga vẫn bị các nước G-7 cô lập, đó là Nga và Nhật Bản tổ chức Hội nghị thượng đỉnh tại thành phố Sochi (Nga) và Thủ tướng Nhật Bản S. Abe khi đó đã công bố “cách tiếp cận mới” đối với quan hệ hai nước, trong đó đề cập đến cách tiếp cận linh hoạt đối với vấn đề đàm phán tranh chấp lãnh thổ, ưu tiên thúc đẩy hợp tác kinh tế. Hai bên chia sẻ quan điểm cần tích cực tiến hành các cuộc đàm phán hướng tới xây dựng các giải pháp mà hai bên chấp nhận được, thông qua cách tiếp cận mới, không phụ thuộc vào lối suy nghĩ truyền thống nhằm khai thông bế tắc và tạo bước đột phá. Tháng 12-2016, tại Hội nghị thượng đỉnh Yamaguchi, hai bên nhất trí bắt đầu đàm phán về các dự án kinh tế chung trên bốn hòn đảo tranh chấp. Tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tổ chức ở Singapore vào tháng 11-2018, hai nhà lãnh đạo Nga - Nhật Bản nhất trí đẩy nhanh đàm phán Hiệp ước hòa bình Nga - Nhật Bản dựa trên Tuyên bố chung Nhật Bản - Liên Xô năm 1956.

Những thay đổi trong cách tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga thời gian gần đây

Mặc dù quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện đáng kể nhưng vấn đề tranh chấp lãnh thổ vẫn chưa đạt được tiến triển khả quan dù trải qua không ít vòng đàm phán. Yếu tố chính là lập trường ngày càng cứng rắn của Nga, nhất là sau khi Nga thông qua bản sửa đổi Hiến pháp, có hiệu lực vào năm 2020. Bản sửa đổi này quy định, nghiêm cấm các hành động nhằm từ bỏ bất kỳ lãnh thổ nào của Nga ngoại trừ các trường hợp phân định, phân giới hoặc tái phân giới. Nga cho rằng, đối tượng đàm phán vấn đề Hiệp ước hòa bình Nga - Nhật Bản trên thực tế đã không còn tồn tại do Nhật Bản không sẵn sàng đàm phán khi chưa làm rõ quyền sở hữu đối với quần đảo Nam Kuril, trong khi đó Nga không có quyền nhượng lại lãnh thổ sau khi thông qua bản Hiến pháp sửa đổi.

Quan hệ Nhật Bản - Nga chững lại sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát và việc Thủ tướng Nhật Bản S. Abe từ chức vào năm 2020. Trong gần hai năm cầm quyền của Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga (2020 - 2021), chính sách đối ngoại của Nhật Bản về cơ bản vẫn duy trì như dưới thời kỳ chính quyền tiền nhiệm nhưng không giữ được đà mạnh mẽ như giai đoạn trước trong quan hệ với Nga. Ngoài ra, sự thay đổi chính quyền ở Mỹ với việc ông Joe Biden đắc cử Tổng thống Mỹ cũng đã có những tác động đến cách tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga. Việc chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden chú trọng đến ngoại giao liên minh, thúc đẩy liên minh Mỹ - Nhật Bản và việc Mỹ theo đuổi cách tiếp cận cứng rắn với chính quyền Tổng thống Nga V. Putin đã thu hẹp không gian của Nhật Bản trong triển khai các biện pháp cải thiện quan hệ với Nga. Tuy nhiên, hai bên vẫn chưa từ bỏ hoàn toàn nỗ lực thúc đẩy ký kết hiệp ước hòa bình và hợp tác thiết thực. Tháng 10-2021, sau khi nhậm chức, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Nga V. Putin, bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ Nhật Bản - Nga một cách toàn diện theo hướng cùng có lợi. Tổng thống Nga V. Putin cũng bày tỏ sẵn sàng triển khai hợp tác mang tính xây dựng với Nhật Bản trong các vấn đề song phương và các vấn đề quốc tế.

Cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay thực sự đánh dấu kết thúc một thập niên Nga và Nhật Bản tìm kiếm và nỗ lực triển khai cách tiếp cận tích cực trong quan hệ song phương. Không giống cuộc khủng hoảng Crime năm 2014, Nhật Bản có quan điểm và phản ứng rất cứng rắn đối với hành động của Nga tại Ukraine, theo sát các bước đi tổng thể của G-7, nhanh chóng đưa ra những biện pháp trừng phạt, thậm chí đóng vai trò tiên phong trong các nước tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đối với việc trừng phạt Nga. Danh sách các biện pháp trừng phạt của Nhật Bản, bao gồm: ngăn chặn nguồn tài chính cho Nga từ các tổ chức đa phương như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), đóng băng tài sản của 9 ngân hàng Nga và hơn 100 công dân Nga có liên quan đến Chính phủ Nga, bao gồm cả Tổng thống Nga V. Putin. Nhật Bản còn cùng G-7 cô lập Nga khỏi hệ thống tài chính quốc tế và nền kinh tế toàn cầu thông qua việc loại một số ngân hàng của Nga khỏi hệ thống thanh toán của Hiệp hội Viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT). Thêm vào đó, Nhật Bản chính thức hủy bỏ quy chế tối huệ quốc của Nga và cấm các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư mới vào Nga, áp đặt các biện pháp hạn chế xuất khẩu chất bán dẫn và thiết bị lọc dầu đối với các thực thể có liên quan đến lực lượng quân đội Nga. Nhật Bản cũng cam kết giảm sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga, bao gồm việc loại bỏ dần và cấm nhập khẩu than của Nga. Ngoài việc áp đặt các biện pháp trừng phạt Nga, Nhật Bản cũng có những hành động cụ thể thể hiện sự ủng hộ đối với Ukraine, như gửi thiết bị quân sự, viện trợ nhân đạo khẩn cấp và hỗ trợ tài chính cho Ukraine. Xung đột Nga - Ukraine cũng thúc đẩy Nhật Bản can dự chặt chẽ hơn với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tháng 4-2022, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản đã tham dự cuộc họp của NATO và lần đầu tiên trong lịch sử 73 năm của NATO, Thủ tướng Nhật Bản K. Fumio tham dự Hội nghị thượng đỉnh NATO, được tổ chức tại Thủ đô Madrid (Tây Ban Nha) vào tháng 6-2022 với tư cách là đối tác châu Á - Thái Bình Dương của tổ chức này. Tại hội nghị, Thủ tướng Nhật Bản đã đề xuất cho phép lực lượng phòng vệ Nhật Bản có đại diện thường trực tại trụ sở NATO, tiến hành trao đổi quan sát viên trong các cuộc tập trận của NATO, cho rằng an ninh của châu Âu không thể tách rời khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và những nỗ lực thay đổi hiện trạng bằng vũ lực ở bất kỳ khu vực nào cũng cần được ngăn chặn thông qua các nỗ lực chung.

Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio cùng Thủ tướng Đức Olaf Scholz và Tổng thống Mỹ Joe Biden tham dự Hội nghị thượng đỉnh NATO, tháng 3-2022 tại Brussels, Bỉ_Nguồn: Kyodo

Có thể thấy, hành động quân sự của Nga ở Ukraine đã tác động trực tiếp, thay đổi gần như hoàn toàn cách tiếp cận của Chính phủ Nhật Bản trong quan hệ song phương với Nga và như một hệ quả tất yếu, với việc hai bên quay lại lập trường cứng rắn đối với vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Để đáp trả các lệnh trừng phạt của Nhật Bản, Nga đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự tại các đảo tranh chấp và phóng tên lửa hành trình từ tàu ngầm ở biển Nhật Bản. Ngày 21-3-2022, Nga tuyên bố chấm dứt đàm phán về Hiệp định hòa bình Nga - Nhật Bản, rút khỏi đối thoại Nga - Nhật Bản về hoạt động kinh tế chung trên các đảo tranh chấp. Thêm vào đó, Nga xác định Nhật Bản là quốc gia “không thân thiện” và cấm 63 công dân Nhật Bản nhập cảnh vào Nga, rút lại quyền nhập cảnh miễn thị thực đối với công dân Nhật Bản.

Có thể nói, phản ứng mạnh mẽ và sự thay đổi có tính bước ngoặt trong cách tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga trước hành động của Nga ở Ukraine cho thấy những đánh giá và tính toán quyết đoán trong chính sách đối ngoại của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản K. Fumio, phản ánh sâu sắc những quan ngại của Nhật Bản về hậu quả cũng như những tác động của cuộc khủng hoảng an ninh tại châu Âu và những tiền lệ mà cuộc xung đột tại Ukraine có thể tạo ra đối với an ninh tại Đông Á, nhất là liên quan đến vấn đề an ninh tại biển Hoa Đông và “điểm nóng” Đài Loan (Trung Quốc). Tình hình tại Ukraine cũng thúc đẩy Nhật Bản xích lại gần hơn với phương Tây, củng cố liên minh Mỹ - Nhật Bản, thắt chặt quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), G-7 và NATO. Quan hệ Nhật Bản - Nga hiện đang ở mức thấp nhất kể từ sau Chiến tranh lạnh. Những diễn biến mới này trong quan hệ Nhật Bản - Nga không chỉ tác động lâu dài đến quan hệ song phương vốn đã nhiều trắc trở trong lịch sử, mà còn tác động sâu sắc đến cục diện và tương quan lực lượng an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương với việc Nga ngày càng hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, trong khi đó liên minh Mỹ - Nhật Bản ngày càng được thắt chặt và tình trạng phân cực, phân tuyến trong tập hợp lực lượng tại khu vực này ngày càng gay gắt, khó đoán định./.

Thực hiện đánh giá, bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang thông qua thí điểm giao nhiệm vụ khó, mang tính mới và đột phá.

 Thời gian qua, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang thực hiện chủ trương đánh giá, luân chuyển và bổ nhiệm cán bộ căn cứ vào kết quả thực hiện những nhiệm vụ khó, mang tính đột phá, đổi mới; bước đầu đạt được một số kết quả, tạo ra hiệu ứng tích cực trong xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, góp phần củng cố, giữ vững niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, chủ trương này cần tiếp tục được thí điểm thực hiện, tổng kết và đánh giá toàn diện trong thời gian tới.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dự Lễ khởi công xây dựng Trường Trung học phổ thông chuyên Tuyên Quang_Ảnh: TTXVN

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1); “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(2), “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(3); đồng thời, nhận thức rõ phẩm chất, năng lực của người cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, nên trong nhiều nhiệm kỳ qua, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang luôn nhận thức sâu sắc, quyết tâm, quyết liệt, đổi mới, sáng tạo trong chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác cán bộ. Cấp ủy các cấp trong Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chú trọng đổi mới đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ, nhất là công tác luân chuyển, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ; tích cực đổi mới tư duy và cách làm, qua đó từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có phẩm chất, trình độ, năng lực để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Chủ trương “đúng, trúng” và kết quả bước đầu

Đánh giá cán bộ là một khâu rất quan trọng, nhưng cũng là việc rất khó và nhạy cảm, bởi đây là công việc liên quan đến con người, mà mỗi con người đều là chủ thể với suy nghĩ và tình cảm đa dạng, phong phú; vì thế, để đánh giá đúng cán bộ thì cần phải dựa vào nhiều kênh, nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhất là bằng sản phẩm, tiêu chí rõ ràng và thông qua công việc cụ thể. Từ nhận thức đó, để đổi mới công tác cán bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã thực hiện chủ trương giao việc khó, việc đổi mới mang tính đột phá làm cơ sở để đánh giá, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ. Theo chủ trương này, chất lượng và kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ là cơ sở, căn cứ quan trọng để kiểm chứng, đánh giá phẩm chất, trình độ, năng lực thực sự của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị.

Thực hiện chủ trương này, từ năm 2019 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã thí điểm giao việc khó, việc đổi mới mang tính đột phá cho một số đồng chí là bí thư cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, thủ trưởng, giám đốc các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã giao 25 việc đột phá cho 25 cán bộ/21 chức danh cán bộ; “đặt hàng” công việc đối với 10 đồng chí (1 đồng chí giám đốc sở, 5 đồng chí bí thư huyện ủy và 4 đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân huyện)Năm 2020, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã giao 51 việc đột phá, “đặt hàng” công việc đối với 22 đồng chí (14 đồng chí giám đốc sở, 4 đồng chí bí thư huyện ủy và 4 đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân huyện), tập trung vào những việc mới, việc khó. Kết quả cho thấy, việc thực hiện các công việc được đăng ký, được giao việc, “đặt hàng” có chuyển biến rất tích cực, nhiều việc đã hoàn thành hoặc đã có những kết quả, sản phẩm cụ thể (9/10 vụ việc đơn, thư tồn đọng kéo dài đã được giải quyết; những vướng mắc, bức xúc về đền bù, giải phóng mặt bằng các dự án, công trình... đã được đối thoại, giải quyết dứt điểm; từ đó, tạo sự thống nhất trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, ổn định tình hình trên địa bàn). Thực tế triển khai chủ trương trên đã đem lại hiệu quả thiết thực, tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Từ thực tiễn đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã ban hành quy định để thực hiện thống nhất trong toàn tỉnh.

Việc đánh giá, lựa chọn, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm cán bộ có đức, tài, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo hướng liên tục, xuyên suốt, đa chiều, theo tiêu chí và bằng sản phẩm cụ thể đã góp phần ngăn chặn việc chạy chức, chạy quyền và các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ, gắn với mục tiêu để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trên cơ sở kết quả đạt được qua thực hiện thí điểm giao việc mang tính đột phá, đổi mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã chỉ đạo xây dựng, sửa đổi, bổ sung Quy chế và bộ tiêu chí để đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; trong đó, quy định 21 chức danh cán bộ là người đứng đầu cấp ủy, ủy ban nhân dân huyện, thành phố, giám đốc các sở, ngành cấp tỉnh phải đăng ký và thực hiện việc mang tính đột phá, đổi mới (theo chức năng, nhiệm vụ, bám sát vào các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã xác định, hoặc giải quyết những việc cấp bách, bức xúc ở cơ sở).

Để việc giao nhiệm vụ mang tính đột phá, đổi mới đi vào nền nếp và tổ chức thực hiện có hiệu quả, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã xây dựng, ban hành Quy định số 30-QĐ/TU, ngày 20-5-2020, “Về giao việc đột phá, đổi mới đối với một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý”. Theo đó, cán bộ được giao việc là các đồng chí ủy viên ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, trưởng các cơ quan cấp tỉnh, bí thư cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, thành phố. Sau hơn 1 năm thực hiện, qua sơ kết, đánh giá và từ tình hình thực tiễn, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã sửa đổi, bổ sung và ban hành Quy định số 03-QĐ/TU, ngày 10-9-2021, “Về giao việc đột phá, đổi mới đối với một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý”, trong đó mở rộng đối tượng được giao việc đến các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Giao các sở, ban, ngành, cơ quan, đơn vị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh thực hiện giao việc mang tính đột phá, đổi mới cho cán bộ là cấp phó các cơ quan, đơn vị; ban thường vụ các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy thực hiện giao việc mang tính đột phá, đổi mới cho các chức danh cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý đang công tác tại cơ quan, đơn vị, địa phương; các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị căn cứ Quy định, cụ thể hóa theo thẩm quyền để giao việc mang tính đột phá, đổi mới đối với cán bộ thuộc diện cấp mình quản lý(4).

Thực tế cho thấy, thực hiện việc đăng ký và giao việc mang tính đột phá, đổi mới đã tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên khẳng định được tính tiên phong, gương mẫu, phát huy năng lực trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị; tạo môi trường và động lực để cán bộ phát huy tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, tạo được lòng tin đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua hơn 3 năm thực hiện chủ trương này, đến nay, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đạt nhiều kết quả quan trọng: Nhiều đồng chí có cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, có “sản phẩm” cụ thể, đặc biệt là có nhiều việc mới được triển khai; những việc còn tồn tại, gặp nhiều vướng mắc, khó khăn và thậm chí kéo dài nhiều năm đã được giải quyết hiệu quả, dứt điểm; qua đó, tạo chuyển biến tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở cơ quan, đơn vị, địa phương. Kết quả thực hiện công việc mang tính đột phá, đổi mới của cán bộ là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hằng năm và cả nhiệm kỳ đối với cán bộ; là căn cứ để đánh giá năng lực, sở trường công tác của cán bộ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, cũng như triển vọng phát triển của cán bộ. Đây cũng là một căn cứ quan trọng để tiến hành quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, bố trí cán bộ.

Cùng với việc thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ, công tác điều động, luân chuyển cán bộ của tỉnh Tuyên Quang được thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch đối với từng trường hợp cụ thể, gắn với công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ. Công tác điều động, luân chuyển được tiến hành thận trọng, kỹ lưỡng theo phương châm “làm đến đâu, chắc đến đó” nhằm đào tạo, rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn, nhất là gắn giao việc, “đặt hàng” với cán bộ được điều động, luân chuyển; luôn thực hiện nhất quán quan điểm quy hoạch cán bộ phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển cán bộ; luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Nhiệm kỳ 2015 - 2020, các cấp ủy, tổ chức đảng của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, chỉ định, giới thiệu ứng cử 1.372 lượt cán bộ, trong đó cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý là 268 lượt, cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy, thành ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý là 1.104 lượt; điều động, luân chuyển người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các huyện, thành phố, giám đốc các sở, ngành cấp tỉnh phải gắn với việc đăng ký và giao việc mang tính đột phá, đổi mới; qua đó, đã góp phần tích cực thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả công việc, cũng như góp phần vào sự phát triển chung của từng ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Qua thực tế triển khai chủ trương trên, bước đầu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang rút ra một số kinh nghiệm để có thể đạt kết quả tốt; đó là: Có chủ trương đúng đắn xuất phát từ tình hình thực tiễn; sự quyết tâm, quyết liệt, chung sức, đồng lòng trong triển khai tổ chức thực hiện. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống phải gắn liền với rèn luyện, thử thách qua thực tiễn nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ các cấp. Phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp. Việc đánh giá cán bộ phải công tâm, khách quan, dân chủ, minh bạch và bố trí đúng cán bộ, trong đó, bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp có vai trò quan trọng trong xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang Chẩu Văn Lâm kiểm tra dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai_Nguồn: baotuyenquang.com.vn

Nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới

Để tiếp tục thực hiện chủ trương giao việc khó, việc đổi mới mang tính đột phá làm cơ sở để đánh giá, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, qua đó góp phần nâng cao chất lượng công tác luân chuyển, bổ nhiệm và đánh giá cán bộ, thời gian tới Tỉnh ủy Tuyên Quang tiếp tục thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau:

Một là, lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, kết luận, các quy định, quy chế của Trung ương về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp. Cụ thể hóa và hoàn thiện hệ thống các quy định của tỉnh về công tác cán bộ, như quy định về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; quy chế về đánh giá cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; quy định về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp...

Hai là, tiếp tục nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ tỉnh về chủ trương giao việc khó, việc mang tính đột phá, đổi mới cho cán bộ; coi đây là một trong những biện pháp giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị, khơi dậy khát vọng cống hiến, đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Xác định thực hiện giao việc mang tính đột phá, đổi mới là việc làm thường xuyên, nền nếp, tạo sự lan tỏa, hiệu ứng tích cực trong thực hiện các việc khó, việc mang tính đột phá, đổi mới đến từng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Sự lựa chọn việc mang tính đột phá, đổi mới phải cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong nghị quyết đại hội đảng bộ cấp trên và nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình. Tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị có cán bộ được giao việc cũng phải coi đây là nhiệm vụ, trách nhiệm chung; thống nhất mục tiêu, xác định phương hướng, nhiệm vụ cụ thể, đề ra các giải pháp để thực hiện; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các tổ chức và cá nhân; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ. Cán bộ được giao việc phải xây dựng kế hoạch thực hiện chi tiết, đề ra giải pháp, lộ trình cụ thể để triển khai thực hiện có hiệu quả việc được giao, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, bảo đảm nói đi đôi với làm.

Ba là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Bám sát các nghị quyết, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác cán bộ, các cấp ủy, tổ chức đảng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số; trên cơ sở quy hoạch cán bộ, thực hiện điều động, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với trình độ, năng lực, uy tín của cán bộ. Lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ và những việc được cấp trên giao làm căn cứ, thước đo để đánh giá cán bộ; kịp thời, kiên quyết thay thế cán bộ có uy tín thấp, năng lực yếu, không đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ.

Bốn là, chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ các cấp; tăng cường luân chuyển, bố trí cán bộ ở địa bàn, lĩnh vực khó khăn, phức tạp để rèn luyện, thử thách cán bộ qua thực tiễn. Địa bàn, lĩnh vực khó khăn, phức tạp là môi trường thử thách, rèn luyện tốt nhất để giúp cán bộ trưởng thành, nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng xử lý các tình huống trong thực tế.

Năm là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, nhất là việc thực hiện các việc mang tính đột phá, đổi mới; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý sai phạm, khắc phục, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ.

Có thể khẳng định, công tác luân chuyển, bổ nhiệm, đánh giá cán bộ căn cứ vào kết quả thực hiện những nhiệm vụ khó, mang tính đột phá, đổi mới là một giải pháp đúng đắn, góp phần quan trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong công tác cán bộ. Chủ trương này cần tiếp tục thực hiện để đúc rút những kinh nghiệm hay; từ đó, phát huy, nhân rộng, nhằm đạt được kết quả trong hiện thực hóa các nhiệm vụ chính trị của mỗi cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn; cũng như góp phần xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ tỉnh có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và trình độ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới./.

-------------------------------

(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 309, 313, 309
(4) Theo đó, giai đoạn 2020 - 2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã giao 52 việc cho 22 đồng chí thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; năm 2021 và giai đoạn 2021 - 2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang giao 266 việc đột phá, đổi mới cho 78 đồng chí; năm 2022 và giai đoạn 2022 - 2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã giao 219 việc cho 77 đồng chí. Các đảng đoàn, ban cán sự đảng; các cơ quan tham mưu giúp việc Tỉnh ủy; các sở, ban, ngành, cơ quan, đơn vị cấp tỉnh (nơi không lập đảng đoàn, ban cán sự đảng), các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy năm 2022 và giai đoạn 2022 - 2025 đã giao 4.028 việc cho 1.860 cán bộ, công chức, viên chức diện cấp mình quản lý.