Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

Bộ đội thời bình - những phẩm chất cao quý, không thể phủ nhận

 Thật đáng lên án và bất bình trước sự bịa đặt trắng trợn của những kẻ cơ hội chính trị, hiềm khích, cố tình bôi nhọ, hạ bệ hình tượng Bộ đội Cụ Hồ. Chúng tìm mọi cách quy chụp, bóp méo sự thật, cho rằng bộ đội thời bình đang là lực lượng “vô công rồi nghề”, với "bộ máy cồng kềnh, gây hao tốn ngân sách quốc gia, kéo chậm sự phát triển đất nước", nhưng lại "được thụ hưởng cuộc sống sung túc.

Với cách tiếp cận trực diện, chúng tôi sẽ phản ánh bức tranh chân thực về cuộc sống và đặc thù hoạt động, cùng những cống hiến, hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam thời gian qua. Đây cũng là cơ sở bóc trần những mưu đồ xuyên tạc, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, hòng phá hoại Quân đội./. 

TIN GIẢ TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19

 Kể từ khi dịch COVID-19 xuất hiện ở Việt Nam tính đến nay đã trải qua 4 chu kỳ/làn sóng với cấp độ chu kỳ/làn sóng sau nặng nề hơn chu kỳ/làn sóng trước. Do đó, tin giả có xu hướng ngày càng bùng phát với nhiều tác hại xã hội. Tin giả và hệ quả xã hội của tin giả đang gia tăng bởi tình hình dịch COVID-19, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam đang diễn biến phức tạp.

Theo đánh giá của Bộ Thông tin và Truyền thông, thời gian gần đây, tình trạng phát tán tin giả, tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch COVID-19 có dấu hiệu gia tăng. Trong đó, tập trung chủ yếu vào việc kích động vùng miền, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; tung tin sai sự thật về hiệu quả của các loại vaccine COVID-19, xuyên tạc chính sách phân bổ, cung cấp vắc xin của Chính phủ, việc sử dụng Quỹ Vaccine phòng, chống COVID-19; diễn biến dịch bệnh tại điểm nóng như thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam; xuyên tạc về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh của Chính phủ và các địa phương... Nhiều thông tin có nguồn từ các video clip của những người cách ly, người dân trong khu vực bị giãn cách, phong tỏa. Việc xuất hiện nhiều thông tin xấu độc cùng số lượng lớn các video clip "tự phát" được phát tán tràn lan trên không gian mạng đã làm giảm niềm tin của người dân vào công tác phòng chống, dịch bệnh; gây hoang mang, bức xúc trong dư luận xã hội… Nếu không xử lý tốt sẽ dễ phát sinh điểm nóng, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây khó khăn cho công tác phòng, chống dịch bệnh của cả nước./.

Thủ đoạn tinh vi, nham hiểm của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam

 Hiện nay, nền tảng mà các thế lực phản động, thù địch dựa vào là hệ tư tưởng tư sản với nội dung cơ bản, đó là quan niệm một cách phiến diện, thậm chí tuyệt đối hóa quyền tự do cá nhân, các quyền dân sự, chính trị đến mức đồng nhất chúng với quyền con người nói chung; coi nhẹ quyền của tập thể, của dân tộc và chủ quyền quốc gia; coi nhẹ tính bình đẳng của các chủ thể quyền và các nội dung quyền, nhất là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, vốn chiếm vị trí cơ bản và là yêu cầu có tính bức thiết đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.

Về mặt chính trị, đây là biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc về văn hóa, coi tư tưởng nhân quyền phương Tây mang tính phổ quát toàn nhân loại, thậm chí cao hơn chủ quyền quốc gia. Các thủ đoạn và phương thức mà các thế lực phản động, thù địch thường sử dụng, đó là: (1) Đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc chống phá nền tảng tư tưởng lý luận XHCN ở Việt Nam; (2) Tiến hành các hoạt động chống phá thực tiễn về thành quả bảo đảm nhân quyền trên tất cả các lĩnh vực của đời sống; (3) Tuyên truyền, ca ngợi các giá trị của nhân quyền tư sản nhằm kích động, cổ vũ việc phân hóa, chuyển hóa tư tưởng, chính trị XHCN; (4) Tạo dựng ngọn cờ về dân chủ, nhân quyền thông qua việc tuyên truyền, ca ngợi, trao giải thưởng cho nhiều nhân vật chống đối.

Về chủ trương, các thế lực phản động, thù địch lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, môi trường, chủ quyền biển, đảo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao, đầu tư kinh tế để hỗ trợ, hậu thuẫn.

Về công cụ, họ triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là các mạng xã hội, xuất bản báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chống phá Việt Nam. Các thế lực thù địch dùng chiêu bài  “mớm lời”, “rắc thính”, kích động để không chỉ gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, suy thoái về tư tưởng, chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên./. 

Từ sự nghiệp Huỳnh Thúc Kháng, suy ngẫm về bài học trọng dụng nhân tài của Hồ Chí Minh

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đau đáu tìm kiếm người tài đức, thành tâm trân trọng và sử dụng họ phục vụ cho nhân dân, cho đất nước. Với trường hợp Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Chí Minh đã rất kiên trì, kiên quyết để mời Cụ tham gia và đảm nhiệm vị trí quan trọng trong Chính phủ liên hiệp. Và có lẽ, chỉ có Hồ Chí Minh mới đủ tầm, tâm, trí để quy tụ được Huỳnh Thúc Kháng – một bậc chí sĩ “học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao”, cũng đã từng nhiều lần từ chối những lời mời gọi hợp tác. Tham gia Chính phủ Liên hiệp ở tuổi 70 “xưa nay hiếm”, Huỳnh Thúc Kháng đã có những đóng góp to lớn cho cách mạng, trong thời điểm vận mệnh dân tộc đứng trước tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.

QUÝ TRỌNG NGƯỜI TÀI

Huỳnh Thúc Kháng và Hồ Chí Minh là hai nhà chính trị, tuy khác nhau về tuổi tác, con đường và cách thức cứu nước nhưng đều là bậc trí thức uyên bác; là những nhà yêu nước nhiệt thành, chân chính; đầy bản lĩnh và khí chất của người lãnh đạo. Thấu hiểu và thấm thía sâu sắc nỗi khổ, nỗi nhục của người dân của đất nước nô lệ, cả hai đã dấn thân, xả thân vì sự nghiệp chung của dân tộc với khát vọng mãnh liệt nhất là giành độc lập dân tộc. Chính những điểm tương đồng về nhân cách và lý tưởng đó đã tạo nên sự giao thoa, gặp gỡ của hai người vốn thuộc hai thế hệ khác nhau, với quan điểm, lập trường, chủ thuyết khác nhau trở thành những người bạn tri kỷ và những người cộng sự đắc lực.

Ngày 2/3/1946, khi trình danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến để Quốc hội chuẩn y, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giới thiệu cụ Huỳnh là “một người đạo đức danh vọng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết”.

Trong thời gian 1904-1908, tư tưởng yêu nước ôn hòa của Huỳnh Thúc Kháng thể hiện ở việc cổ động tân học, đả phá khoa cử, gọi thương gia, thân hào lập các hội thương, công, nông… Năm Mậu Thân 1908, sau vụ chống thuế của nhân dân Trung Kỳ mà Quảng Nam là điểm khởi phát, Huỳnh Thúc Kháng bị bắt rồi bị đày ở Côn Đảo – như lời Cụ nói “là trường học thiên nhiên” mà “mùi cay đắng trong ấy, làm trai giữa thế kỷ XX này không thể không nếm cho biết” suốt 13 năm (1908-1921) mới được trả tự do. Sau khi ra tù, thực dân Pháp và chính phủ Nam triều mua chuộc khôi phục hàm Tiến sĩ Hàn lâm viện Biên tu, mời ra làm việc tại Bác cổ viện (Huế), nhưng Huỳnh Thúc Kháng một mực từ chối, ở lại quê nhà đọc sách, làm báo. Năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng ứng cử vào Viện dân biểu Trung kỳ với mong muốn sẽ mở rộng quyền dân chủ của người dân, lên án, đả kích những hành động ức hiếp, tham lam, độc đoán của bọn thống trị. Trong ba năm hoạt động với vai trò Viện trưởng, Huỳnh Thúc Kháng đã cùng nhóm dân biểu tiến bộ ra sức đấu tranh đòi ban bố Hiến pháp; nêu yêu cầu phải trao thực quyền cho viện dân biểu để không mang tiếng là “tên là nhân dân đại biểu mà thật là một quan trường mới”; thi hành chính sách giáo dục bắt buộc và cho tự do lập trường học, cải cách hệ thống tư pháp, xét xử để người Việt Nam có nhiều quyền bình đẳng hơn…

Quan điểm nổi bật của Huỳnh Thúc Kháng là đề cao tinh thần “dân chủ pháp quyền”, bài trừ chế độ quân chủ, xây dựng thể chế dân chủ, thực hiện dân quyền trong đó trước hết quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng cho nhân dân. Đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, đó là những quan điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ, góp phần thức tỉnh tinh thần dân tộc, ý thức dân chủ ở nước ta đầu thế kỉ XX. Những quan điểm tiến bộ đó dù mang xu hướng ôn hòa đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của Nam triều và chính quyền thực dân. Như người “bừng tỉnh giấc mơ”, Huỳnh Thúc Kháng đã xin từ chức cuối năm 1928, trước khi hết nhiệm kỳ chứ nhất định không chịu làm con rối để chúng giật dây.

Năm 1927, Huỳnh Thúc Kháng sáng lập tờ báo “Tiếng Dân” với mong muốn “trở thành một cơ quan giáo dục nhằm đào tạo một con người biết thương nước yêu nòi, biết căm thù cướp nước và bán nước, biết thương yêu đùm bọc nhau trong lúc hoạn nạn”, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế cho đến khi tờ báo bị đình bản vào năm 1943. Sau khi xâm lược Đông Dương, phát xít Nhật cho người đến gặp Huỳnh Thúc Kháng mua chuộc, dụ dỗ nhưng bị Cụ cự tuyệt. Sau đó, hai lần, “Quốc trưởng” Bảo Đại cử Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe đến mời Huỳnh Thúc Kháng tham gia nội các của Bảo Đại đều bị Cụ từ chối. Cụ còn khuyên Bảo Đại nên thoái vị và giao quyền cho nhân dân, bởi “Hiện trên thế giới ngày nay, chế độ quân chủ đã lỗi thời. Riêng ở Việt Nam chúng ta, trong con mắt dân chúng lại càng không nên duy trì lắm. Ngài giao quyền lại cho dân, hoạ may sẽ có những vị anh hùng trong đồng quê núi thẳm xuất đầu lộ diện làm nên việc cũng chưa biết chừng. Và như thế, riêng phần ngài cũng tự tỏ mình là người thức thời vậy”(3). Bên cạnh đó, Huỳnh Thúc Kháng còn cổ suý cho chủ nghĩa dân chủ với chủ trương liên hiệp hết thảy quốc dân đồng bào, đoàn kết tất cả các đảng phái, tôn giáo, giai cấp để “ra sức phụng sự Tổ quốc”.

Cảm phục trước chí khí, tài trí của các Nho sĩ yêu nước đã dám từ bỏ tư tưởng tôn quân vốn ăn sâu, trở thành “thâm căn cố đế” để tiếp thu cái mới, cái tiến bộ khai sáng cho dân tộc; từ bỏ địa vị và danh vọng để dấn thân trong cuộc đấu tranh gian khổ với kẻ thù nên sau khi cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì thuyết phục mời Huỳnh Thúc Kháng tham gia Chính phủ mới. Người đã gửi hai bức điện mời Huỳnh Thúc Kháng ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ban đầu, Cụ từ chối vì chưa biết Hồ Chí Minh là ai và khi cách mạng hy sinh gian khổ thì mình chẳng đóng góp gì, nay thắng lợi rồi thì mình ra hưởng thụ, nhưng lần hai thì Cụ đồng ý ra Hà Nội gặp Bác để trao đổi. Tại cuộc gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích khó khăn tình hình đất nước, cần các bậc chí sĩ cần chung vai gánh vác việc nước với toàn dân và tha thiết mời “Trên con đường tranh đấu giành độc lập, cụ đã đi được 99 dặm, chỉ còn 1 dặm nữa. Xin cụ đừng thoái thác, cụ vui lòng giúp tôi”. TRong thời gian một tuần lễ được gặp gỡ trực tiếp với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảm được trí, cái nhân của Người và được biết Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, người mà trước đó Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã đặt vào rất nhiều kỳ vọng, Huỳnh Thúc Kháng nhận lời ra tham gia Chính phủ với tâm nguyện “làm quan thì tôi không làm, nhưng làm đầy tớ cho dân thì tôi xin nhận”.

Có thể nói, giữa thời khắc lịch sử của vận mệnh quốc gia, mặc dù đã ở tuổi 70, không có nhiều cảm tình với cộng sản từ trước, nhưng với tấm lòng vì dân, vì nước; vì sự kính nể và trước nhiệt tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng đã nhận lời tham gia Chính phủ và trở thành người bạn, người cộng sự tri kỷ của Người, có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này. Huỳnh Thúc Kháng là nhân vật tạo nên cái “gạch nối” lịch sử gắn kết phong trào yêu nước của các chiến sĩ Duy tân với phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một trong những trường hợp tiêu biểu nhất, thể hiện sinh động tư tưởng trọng dụng hiền tài để góp sức công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của Hồ Chí Minh, như Người đã viết "Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.

SỬ DỤNG NGƯỜI TÀI PHỤC VỤ TỔ QUỐC, PHỤC VỤ ĐỒNG BÀO

Vào thời điểm nền độc lập non trẻ của dân tộc đang đứng tr­ước những thử thách ngàn cân treo sợi tóc của họa ngoại xâm và sự phá hoại của các thế lực phản cách mạng bên trong thì với uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục đư­ợc Huỳnh Thúc Kháng ra tham chính và chính uy tín của Huỳnh Thúc Kháng lại đóng góp đắc lực và trở thành biểu tượng của khối đoàn kết dân tộc, góp phần đập tan âm m­ưu phá hoại của kẻ thù. Vượt qua sự khác biệt về quan điểm chính trị, tham gia Chính phủ mới, chưa một lần từ chối bất cứ cương vị, trọng trách, nhiệm vụ nào mà Hồ Chí Minh giao phó, Huỳnh Thúc Kháng lại một lần nữa dấn thân phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào, như lời Cụ nói với Hồ Chí Minh: “Nếu Cụ thấy ba chữ Huỳnh Thúc Kháng còn có chỗ dùng với Tổ quốc, đối với quốc dân đồng bào, thôi thì xin hiến cho Cụ dùng”.

Dụng nhận như dụng mộc” – đó là cách mà Hồ Chí Minh thường nói về sử dụng cán bộ, sử dụng con người phụng sự cho cách mạng. Với trường hợp Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện, thuyết phục và sử dụng phát huy tốt nhất uy tín, năng lực của người tài đức. Trọng trách đầu tiên mà Huỳnh Thúc Kháng đảm nhiệm trong Chính phủ mới là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trong 13 bộ của Chính phủ lâm thời được thành lập ngày 27/8/1945, Bộ Nội vụ được giao thực hiện chức năng tổ chức, xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền cách mạng; bảo đảm an ninh chính trị, trị an và đảm nhiệm một phần chức năng của Chủ tịch phủ; theo dõi điều hành công tác nội trị, pháp chế, hành chính công và điều phối hoạt động của các bộ khác. Đồng chí Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên giữ cương vị Bộ trưởng. Tháng 3-1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập, đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhận chức vụ mới, chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ do Huỳnh Thúc Kháng đảm trách.

Trên cương vị người đứng đầu Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng tiến hành kiện toàn nhân sự và bộ máy của Bộ Nội vụ, ban hành nhiều nghị định, thông tư, hướng dẫn để hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính quyền cách mạng, chế độ công chức, công vụ, bảo đảm an ninh trật tự trị an. Đóng góp quan trọng nhất của Bộ Nội vụ trong thời kỳ này là đã khẩn trương xây dựng, củng cố, bảo vệ thành công hệ thống chính quyền cách mạng; xây dựng nền móng chế độ mới, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc tạo nên sức mạnh nội lực cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Bên cạnh nhiệm vụ phụ trách Bộ Nội vụ, Hồ Chí Minh còn mời Huỳnh Thúc Kháng tham gia công tác ngoại giao, như cử Cụ vào Ủy ban nghiên cứu đặc biệt các vấn đề sẽ đàm phán ở Hội nghị Fontainebleau (22/5/1946), cùng Người tiếp khách nước ngoài nhất là với các tướng lĩnh Trung Hoa Dân quốc … qua đó tạo nên sự vị nể của các phái đoàn đối với chính phủ và đất nước Việt Nam. Điều này về sau được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại: “Chính phủ ta có vị tiến sĩ văn chương, chúng (Lư Hán, Tiêu Văn – TG) cũng trọng”.

Ngày 27/5/1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) được thành lập. Huỳnh Thúc Kháng được bầu làm Hội trưởng, Hồ Chí Minh làm Hội trưởng danh dự. Trong điều kiện Mặt trận Việt Minh có những hạn chế trong việc quy tụ, đoàn kết các tầng lớp trên tham gia vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, Hội liên hiệp quốc dân mà Huỳnh Thúc Kháng làm Hội trưởng đã nhanh chóng khoả lấp khoảng trống đó.

Đặc biệt, với sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 82 ngày 29/5/1946 ủy nhiệm cụ Huỳnh làm quyền Chủ tịch Chính phủ trong thời gian thực hiện chuyến công du sang Pháp đã khẳng định về sự trọng thị, tín nhiệm tuyệt đối của Người với Huỳnh Thúc Kháng. Đó không phải là hành động sách lược tạm thời hay chỉ là việc làm để thu hút các lực lượng không cộng sản đi theo cách mạng. Ẩn chứa trong đó là cả một tư duy chính trị sắc sảo, tầm nhìn và bản lĩnh của nhà lãnh đạo tài ba khi lựa chọn một người không phải đảng viên đảng cộng sản đảm nhiệm vi trí đứng đầu Nhà nước. Có thể nói, trong hoàn cảnh hiện tại của đất nước khi đó thì sự ủy nhiệm đó là logic và hợp lý nhất. Bởi trong bối cảnh năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy không ai đủ tư cách hơn Huỳnh Thúc Kháng, nhà chí sĩ lão thành không đảng phái, đức độ và khẳng khái; không ai hiệu quả hơn cụ Huỳnh - con người mang đậm cốt cách dung hoà trong việc quy tụ, đoàn kết các đảng phái, các tầng lớp khác nhau trong xã hội, nhất là những người thuộc tầng lớp trên, vốn chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản, lại chưa hiểu nhiều, thậm chí còn ác cảm về đảng Cộng sản và con đường cách mạng do những người cộng sản lãnh đạo.

Trước ngày đi Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có dặn lại cụ Huỳnh Thúc Kháng mấy câu tâm huyết: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong cụ “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Đáp lại sự kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng đã có những xử lý đúng đắn, sáng suốt trong việc điều hành bộ máy Nhà nước, giải quyết được nhiều khó khăn trong các vấn đề nội trị và ngoại giao. Nắm vững tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Huỳnh Thúc Kháng đã hành động một cách cương quyết nhưng khéo léo, chỉ đạo lực lượng của ta trấn áp bọn phản cách mạng không chỉ vụ án ở phố Ôn Như Hầu mà tiêu diệt toàn bộ quân đội của Việt Quốc, Việt Cách từ Vĩnh Yên cho đến Yên Bái, Lào Cai. Đến khi Hồ Chí Minh về thì mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa. Việc xử lý kiên quyết và sử dụng bạo lực cách mạng trong trường hợp cần thiết là một sự thay đổi lớn trong con người vốn có tính cách dung hoà, theo chủ thuyết cải lương, thậm chí đã từng bị đánh giá là “bất bình với đế quốc, nhưng sợ phong trào cách mạng”. Có thể nói làm việc với Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng không chỉ được đóng góp nhiều nhất trí tuệ và sức lực cho dân tộc mà chính bản thân Cụ đã có những thay đổi lớn về quan điểm, về phương pháp phù hợp với tình hình cách mạng.

Nhận thức rõ một trong những cái “bất biến” lớn nhất, quan trọng nhất của cách mạng là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đối phó với âm mưu chia rẽ của bọn phản động và sự chia rẽ trong nội bộ, ngày 15/7/1946, Huỳnh Thúc Kháng tổ chức cuộc họp báo tại Hà Nội nhằm khẳng định lập trường, nguyên tắc đoàn kết với các tổ chức, đảng phái. Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng chỉ rõ:

“1. Sự đoàn kết là cần nhưng đoàn kết là cốt hợp lực lượng để kiến thiết, để ủng hộ ngoại giao, nói chung là để xây dựng nền dân chủ cộng hòa, nhưng không thể vin vào hai chữ đoàn kết mà làm những việc phi pháp.

2. Đối với Việt Nam quốc dân Đảng thì tôi thiết tưởng những anh em đảng viên chân chính Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ theo truyền thống nhà chí sĩ Nguyễn Thái Học, nghĩa là vì quốc vì dân.

Chính phủ và riêng tôi bao giờ cũng bảo đảm sự tự do hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng trong vòng pháp luật”.

Chính sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đó đã giữ vững chính quyền cách mạng và nền độc lập non trẻ trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang nước Pháp và là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất tạo nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Những nỗ lực của cụ Huỳnh đã được Hồ Chí Minh ghi nhận: “trong lúc tôi đi vắng, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của cụ Huỳnh, … mà đã giải quyết được nhiều khó khăn”.

Năm 1947, mặc dù tuổi cao sức yếu nhưng Cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn hăng hái đảm nhận nhiệm vụ thay mặt Chính phủ Trung ương và Mặt trận Liên Việt đi kinh lý các tỉnh Trung Bộ để thăm hỏi đồng bào và giải thích rõ cho nhân dân về đường lối kháng chiến kiến quốc của Trung ương, đồng thời vận động nhân dân tích cực chuẩn bị cho công cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trên đường công tác, cụ Huỳnh lâm bệnh nặng. Biết mình khó qua khỏi, Cụ đã gửi bức điện cho Chủ tịch Hồ Chí Minh với lời vĩnh biệt “Chào vĩnh quyết”. Cả cuộc đời một con người “không màng danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. … chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập…” đã cống hiến trọn vẹn cho dân tộc và tỏa sáng rực rỡ nhất, đóng góp nhiều hơn hết thảy trong thời gian ngắn ngủi tham gia Chính phủ mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Mai Năm Mới (ST)

QUYỀN CON NGƯỜI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và quyền con người. Người hiểu rõ, một dân tộc bị nô lệ thì người dân ở đó không thể có bất cứ quyền con người và tự do nào.


Vì thế, ý chí “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” mà Người khái quát đã lay động mọi người Việt Nam yêu nước, nhờ đó đã thức tỉnh cả dân tộc và tạo nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vang dội.

Bắt bệnh và trị bệnh


          Liên tục trong thời gian qua, ở nhiều nơi diễn ra tình trạng cán bộ hưu trí, cán bộ nghỉ chế độ, cán bộ bị kỷ luật buộc phải rời khỏi tổ chức... có những phát ngôn thiếu chuẩn mực, tuyên bố “cạch mặt” tổ chức, bôi nhọ cơ quan, đơn vị cũ; nêu chính kiến đi ngược lại với quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước.

          Thậm chí, một số cá nhân còn chủ ý cổ xúy hoặc vô tình bị các lực lượng thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia vào các hoạt động tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam.

          Phải khẳng định ngay, những cá nhân nêu trên đã tự đánh mất mình, rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Họ đã mặc nhiên quay lưng với chính hệ tư tưởng, quan điểm, lý tưởng cống hiến trong suốt quãng đời công tác trước đây của bản thân. Chính họ đã tự xúc phạm, giẫm đạp lên quá khứ của chính mình!
          Vì sao lại thế? Có muôn nghìn câu trả lời. Cũng thấy rõ muôn vàn lý do, nguyên nhân đưa đến thực trạng đó. Nào là do những xích mích, mất lòng trong hàng ngũ lúc còn đương chức; do về hưu phải đối diện với sự cô đơn, cô độc, lại có nhiều thời gian nên “rảnh rỗi sinh nông nổi”; do thiếu thông tin, không tìm hiểu cặn kẽ sự việc... nên nhận thức phiến diện, cực đoan; do tác động từ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, nhất là khi chúng xác định nhóm công dân này là một trong những đối tượng có thể tập trung lợi dụng, lôi kéo...

          Thế nhưng, dù căn nguyên ra sao thì vấn đề cốt tử vẫn nằm ở bản lĩnh chính trị và bản chất của những người từng khoác lên mình màu áo đảng viên và danh dự, tư cách người cán bộ cách mạng. Thực tế cho thấy, một khi cán bộ thật sự có bản lĩnh, chí công, vô tư phục vụ tổ chức, cơ quan, đơn vị, sống chân thành, tử tế với đồng chí, đồng đội lúc đương chức thì khi nghỉ hưu, rời tổ chức, họ vẫn một lòng gắn bó với sự nghiệp của tập thể. Họ vẫn theo dõi, quan sát từng bước phát triển, trưởng thành của tổ chức, xem đó là nguồn hạnh phúc của mình. Thậm chí, nhiều người còn chủ động tham mưu, hiến kế, giúp đỡ thế hệ đi sau hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều cán bộ khi nghỉ hưu hoặc luân chuyển đi nơi khác... vẫn nhận được sự quan tâm, động viên, kính trọng của đồng nghiệp, anh em nơi cơ quan cũ. Cấp trên đương chức, nhân viên, đồng nghiệp vẫn thường xuyên lui tới thăm hỏi, trò chuyện, giữ mối liên hệ mật thiết, sẻ chia vui buồn. Ngược lại, những kẻ đã, đang và sẽ hống hách, rao giảng, kêu than trên mạng xã hội thì lúc đương chức tâm địa có lẽ cũng có vấn đề...

          Nói như vậy sẽ không hẳn là đúng với mọi trường hợp, mà câu chuyện này còn chịu sự chi phối đa chiều bởi các quy luật tâm lý-xã hội. Có nghĩa, bất cứ ai nghỉ hưu, bị thải loại, rời xa tổ chức cũ... cũng đều ít nhiều rơi vào các biểu hiện, vấn đề của tư tưởng, tâm lý. Con người ta sẽ không tránh khỏi những nỗi buồn khách quan và sự hẫng hụt về mặt tinh thần khi phải bắt đầu một nếp sống mới. Nói như vậy để thấy, việc quan tâm, làm tốt công tác tư tưởng cho đối tượng sắp nghỉ hưu, đối tượng tinh giản... cần phải được cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp tiến hành thường xuyên, liên tục. Bởi có một thực tế là, ở một số cơ quan, đơn vị hiện nay, việc tiến hành công tác tư tưởng cho cán bộ trước và sau khi nghỉ công tác vẫn bị coi nhẹ, ít có sự động viên, quan tâm thường xuyên.
          Thế nhưng, dù các tác động khách quan có đến mức nào đi chăng nữa thì yếu tố chủ quan vẫn giữ vai trò quyết định. Nhiều cá nhân trước khi nghỉ hưu vẫn mưu toan giữ ghế, tham vọng bám trụ lại tổ chức vì quyền lợi riêng nên thật khó chiến thắng được sự xung đột tâm lý cá nhân. Và nhất là khi mưu cầu tư lợi không đạt được thì sinh ra bệnh tư tưởng, rồi “giận cá chém thớt”, làm những chuyện trái khoáy... khiến dư luận phải dị nghị, xem thường!

          Nhiều chuyên gia tâm lý cho rằng: Trong khi toàn Đảng và cả hệ thống chính trị đang quyết liệt thực hiện chủ trương “có lên, có xuống, có vào, có ra” thì tinh thần này phải được thấu triệt đến mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương. Từng cấp ủy, tổ chức phải đẩy mạnh giáo dục để cán bộ lúc đương chức luôn thông suốt về tư tưởng, nhận thức rõ việc nghỉ hưu, rời tổ chức là việc đương nhiên, tất yếu. Từng cá nhân phải cố gắng duy trì quan điểm dù đang công tác hay nghỉ công tác thì đều giữ đúng chức phận của mình; là người đảng viên kiên định, kiên trung của Đảng. Có được tư duy và cách nghĩ đó thì chắc chắn việc nghỉ hưu, rời tổ chức sẽ tự nó trở nên thanh thản, nhẹ nhàng...

          Còn xét dưới góc độ tổ chức, đối với những trường hợp vừa rời tập thể đã hòa vào đám đông một cách tiêu cực thì cần phải được cấp có thẩm quyền nhận diện, đấu tranh phê bình nghiêm khắc; thậm chí xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để giáo dục chung. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, những trường hợp như đã nêu ở trên diễn ra khá phổ biến, ở nhiều cơ quan, đơn vị, nhưng việc xử lý vẫn chưa triệt để, nghiêm khắc. Có chăng chỉ là sự nhắc nhở, động viên, đối thoại, cảnh tỉnh... rồi “đâu lại vào đấy”. Do vậy, cùng với giáo dục, thuyết phục, các cơ quan chức năng cần có thái độ quyết liệt xử lý thực trạng này. Khi phát hiện các đối tượng lợi dụng mạng xã hội để nói xấu Đảng, chế độ, bôi nhọ tổ chức, cơ quan, đơn vị thì kiên quyết xử lý nghiêm minh đến cùng, đúng người, đúng mức độ vi phạm, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”...
          Làm cán bộ, đảng viên của Đảng thì cần phải khắc ghi và hiểu sâu sắc lời dạy quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

 

 

Đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong “cuộc chiến” chống dịch Covid-19

Truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc hình thành, xây dựng và được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ ngày có Đảng, Ðảng  ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám  năm 1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục được phát huy, trở thành động lực của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành một trong những đường lối chiến lược, là bài học lớn quyết định đến thành công của cách mạng Việt Nam. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đang là động lực, kết nối sức mạnh vô địch của toàn dân tộc Việt Nam. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.

Đặc biệt, từ đầu năm 2020 đến nay khi đại dịch Covid – 19 bùng phát, diễn biến rất phức tạp trên toàn cầu và ở Việt Nam, toàn dân ta đoàn kết, đồng lòng thực hiện “chống dịch như chống giặc” để đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân và ổn định phát triển sản xuất, thực hiện mục tiêu kép được quốc tế đánh giá cao. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc và hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, nhân dân Việt Nam lại cùng chung tay, đồng lòng chống dịch. Tất cả tỉnh, thành phố, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân đều nhiệttình,tích cực tham gia phòng, chống dịch. 

Đi đầu là lực lượng cán bộ, nhân viên ngành Y tế. Họ đã không kể ngày đêm tham gia xét nghiệm, sàng lọc, cứu chữa bệnh nhân bị mắc Covid-19. Mặc dù cũng có không ít nhân viên y tế bị nhiễm bệnh nhưng với tinh thần "tất cả vì cộng đồng", các y, bác sĩ trên tuyến đầu chống dịch đã nêu cao tinh thần đoàn kết, chia sẻ những khó khăn, vất vả trong các khu điều trị cách ly để hàng ngày, hàng giờ cứu chữa người bệnh. Đặc biệt, có nhiều sinh viên ngành y mặc dù chưa tốt nghiệp nhưng đã tình nguyện tham gia chống dịch tại địa phương cũng như xung phong đến những vùng dịch lớn để tăng cường cho các y, bác sĩ. Lực lượng cán bộ các cấp, các ngành tại địa phương đã đồng sức, đồng lòng ngày đêm rà quét, khoanh vùng dập dịch tại các khu dân cư. Ở khắp cả nước, đã có nhiều Tổ Covid cộng đồng với sự tham gia của nhiều cán bộ cơ sở như công an, dân phòng, mặt trận, phụ nữ, thanh niên... Nhiều doanh trại quân đội được trưng dụng làm cơ sở cách ly cho nhân dân. Nhiều cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng vào rừng nhường lại nơi ăn, chốn ở cho nhân dân có điều kiện tốt để cách ly. Trong các doanh trại cách ly của quân đội, người cán bộ, chiến sĩ vừa là người hướng dẫn nhân dân thực hiện đúng quy định của Nhà nước về cách ly tập trung song họ cũng giống như những người thân trong gia đình, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người cách ly mỗi khi họ cần. Có thể nói, chưa bao giờ các doanh trại quân đội lại được sưởi ấm tình quân dân đến thế!

Với tinh thần "chống dịch như chống giặc", cả hệ thống chính trị của Việt Nam đã cùng vào cuộc để chung tay bảo vệ sức khỏe và tính mạng của nhân dân. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân cả nước không chỉ đóng góp công sức mà còn tích cực đóng góp tiền bạc, vật chất cho công tác phòng, chống dịch. Ở nhiều nơi trên khắp đất nước đã hình thành các ATM đặc biệt như ATM gạo, ATM mì, ATM khẩu trang và nhiều của hàng 0 đồng. Nhiều người dân, trong đó có cả những ca sĩ, người mẫu vốn chỉ quen ánh đèn sân khấu nhưng cũng đã chung tay phát đồ ăn, nhu yếu phẩm miễn phí cho nhân dân vùng dịch. Đã có nhiều bếp ăn từ thiện được mọc lên khắp nơi để lan tỏa tinh thần yêu thương, sẻ chia, tình đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Hiếm có một đất nước nào mà có sự tham gia đông đảo, đầy trách nhiệm của Đảng, Chính phủ và các tầng lớp nhân dân trong cuộc chiến chống covid-19 như Việt Nam.

Một biểu tượng cao đẹp cho tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống đại dịch là Quỹ Vaccine. Quỹ được thành lập ngày 26/5/2021 để tiếp nhận, quản lý, sử dụng các nguồn tài trợ, hỗ trợ, đóng góp tự nguyện bằng tiền, vaccine của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và các nguồn vốn hợp pháp khác cho hoạt động mua, nhập khẩu vaccine, nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước và sử dụng vacccine phòng, chống Covi-19 cho nhân dân. Ngay khi vừa thành lập, Quỹ Vaccine đã nhanh chóng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo nhân dân trong cả nước và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Chỉ trong một thời gian ngắn, Quỹ đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, to lớn không chỉ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tập đoàn... mà còn của các tầng lớp nhân dân, trong đó có nhiều em nhỏ, nhiều cụ già, cán bộ hưu trí và đông đảo kiều bào ở nước ngoài. Theo số liệu cập nhật của Ban Quản lý Quỹ vắc-xin phòng COVID-19, tới chiều 27/8, quỹ đã nhận được hơn 8.692 tỷ đồng ủng hộ từ hàng nghìn tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Số tiền mà các tổ chức, cá nhân đóng góp không chỉ có giá trị vật chất mà còn thể hiện tinh thần đoàn kết, sẻ chia, cộng đồng trách nhiệm của nhân dân với Đảng và Chính phủ. Điều đó giúp cho Việt Nam tiếp tục được thế giới đánh giá cao trong việc phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong cuôc chiến chống đại dịch.

Cuộc chiến chống Covid-19 phía trước sẽ còn rất nhiều cam go, với không ít khó khăn rất lớn tác động đến Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, với tinh thần đại đoàn kết, sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục được nhân lên và trở thành động lực to lớn để nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thử thách.

 

THỦ PHÁP NGÔN NGỮ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”

 

Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là một văn bản mẫu mực, cho thấy phong cách ngôn ngữ giản dị của Hồ Chí Minh. Bằng những thủ pháp như so sánh, liên tưởng, thí dụ, tục ngữ, Người làm cho những nội dung tưởng như khô khan trở nên hấp dẫn; những nội dung tưởng như phức tạp trở nên đơn giản; những nội dung tưởng như xa lạ trở nên gần gũi. Nhờ vậy, nội dung tác phẩm trở nên dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo đúng với tinh thần của một cuốn cẩm nang hướng dẫn cán bộ, đảng viên sửa chữa những thói quen, khuyết điểm hàng ngày.

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong thời gian chuẩn bị Chiến dịch Thu Đông và hoàn thành vào tháng 10/1947, ký bút danh X.Y.Z. Tác phẩm “điểm mặt chỉ tên” các căn bệnh phổ biến trong cán bộ, đảng viên đồng thời “bốc thuốc kê đơn” cho từng căn bệnh.

Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” không phải là cuốn sách dạy cách nói, cách viết cụ thể nhưng lại là văn bản mẫu mực cho những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu. Để đáp ứng yêu cầu học tập, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn đất nước bộn bề công việc, chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh đã viết thật giản dị mà sâu sắc về những căn bệnh phổ biến của cán bộ, đảng viên… Để giúp người đọc hiểu dễ nhớ lâu, Hồ Chí Minh đã sử dụng các thủ pháp ngôn ngữ chủ yếu như: so sánh; liên tưởng; thành ngữ, tục ngữ và thí dụ. Các thủ pháp này được sử dụng xuyên suốt trong tác phẩm, tạo nên một phong cách ngôn ngữ đặc sắc của Hồ Chí Minh. Việc tìm hiểu, vận dụng các thủ pháp này sẽ góp phần giúp cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tuyên giáo học được cách nói, cách viết đơn giản, thiết thực, phù hợp với quần chúng.

Để nghiên cứu thủ pháp ngôn ngữ của Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi lối làm việc”, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích nội dung. Phương pháp này được sử dụng để khảo sát, thống kê, phân loại và đánh giá hiệu quả của các thủ pháp ngôn ngữ trong tác phẩm.

Thủ pháp So sánh

Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh sử dụng phép so sánh 25 lần với những hình ảnh rất quen thuộc với người đọc. Các từ như: “là”, “như”, “cũng như”, “khác nào”, “cũng khác nào như”, “chẳng khác gì” được sử dụng làm từ so sánh. Các cấu trúc so sánh phổ biến trong tác phẩm bao gồm: “A như/cũng như/khác nào/chẳng khác gì B” và “Nếu A, thì cũng như/khác nào/chẳng khác gì B”.

ví dụ, để nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiêm túc phê bình và sửa chữa khuyết điểm, Hồ Chí Minh viết, “Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình…”. Người so sánh cán bộ, đảng viên không chịu sửa chữa khuyết điểm với người bệnh không chịu uống thuốc hay “Khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”. Người nhấn mạnh, “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết “cũng la lết quả dưa””.

Trong tác phẩm, Hồ Chí Minh nhiều lần sử dụng các hình ảnh so sánh để nói rõ tầm quan trọng, quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Người so sánh “Lý luận như cái kim chỉ nam”; “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn)”. Phê bình tình trạng lý luận suông, Người ví von cán bộ, đảng viên chỉ học mà không áp dụng lý luận vào thực tế như “cái hòm đựng sách”. Người nhấn mạnh việc học tập lý luận gắn với thực tiễn vì “Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mù”.

Phép so sánh là thủ pháp ngôn ngữ được sử dụng nhiều trong “Sửa đổi lối làm việc” và trong các tác phẩm khác của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, Người thường sử dụng các phép so sánh liên hoàn để tăng cường hiệu quả. Mục đích của phép so sánh là tạo ra sự liên hệ gần gũi, lấy cái biết để giải thích cái chưa biết, lấy cái đơn giản để làm rõ cái phức tạp. Cách sử dụng này phù hợp với tư duy từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng của quần chúng; giúp cho việc truyền tải thông tin vừa sinh động, trực quan vừa đơn giản, dễ hiểu với người tiếp nhận.

Trong bối cảnh trình độ của cán bộ, đảng viên và quần chúng chưa cao thì cách truyền tải của Hồ Chí Minh là hoàn toàn phù hợp. Mục đích cao nhất của người viết là giúp người đọc dễ hiểu và dễ làm theo, chứ không phải để “khoe chữ, khoe tài”, đánh đố người đọc. Nó cũng giúp tránh được căn bệnh viết dài mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, “Nhiều anh em hay viết dài. Viết dòng này qua dòng khác, trang này qua trang khác. Nhưng không có ích cho người xem. Chỉ làm tốn giấy tốn mực, mất công người xem. Khác nào vải băng bó mụn lở, đã thối lại dài”.

Thủ pháp Liên tưởng

Liên tưởng giống như so sánh nhưng dựa trên sự liên kết, kết nối, tương quan của một chuỗi các sự vật, sự việc liên quan. Phép liên tưởng giúp cho thông tin trở nên đơn giản, dễ hiểu đồng thời giúp cho người đọc nắm được bản chất vấn đề. Hồ Chí Minh thường xuyên sử dụng phép liên tưởng trong các bài viết của mình. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người sử dụng phép liên tưởng 8 lần. Giống như phép so sánh, các từ như: “cũng như”, “như”, “như vậy”, “hóa ra là” được sử dụng để chỉ sự liên tưởng, tương quan. Người thường vận dụng các sự vật, sự việc mang tính quy luật của tự nhiên và xã hội để chỉ ra mối quan hệ mang tính bản chất, biện chứng.

Ví dụ, nói về tầm quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh viết, “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Dựa trên một chuỗi các liên kết “nguồn-nước”, “cây-gốc”, Hồ Chí Minh chỉ ra mối liên hệ mật thiết hay tầm quan trọng của đạo đức đối với người cách mạng. Theo đó, đạo đức là cái gốc của người cách mạng để đảm trách nhiệm vụ trước nhân dân.

Đây không phải lần đầu tiên Hồ Chí Minh nói về tầm quan trọng của đạo đức, mối quan hệ giữa tài năng và đạo đức đối với người cách mạng. Trong bài viết “Cần, kiệm, liêm, chính” đăng trên báo Cứu Quốc số ngày 30/5, 31/5, 1/6 và 2/6 năm 1949, Người đã nêu ra mối tương quan giữa các phẩm chất của người cách mạng với các quy luật của tự nhiên và xã hội bằng 6 câu thơ:

“Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông,

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người”.

Việc không rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng hay 4 phẩm chất trên đây sẽ khiến cán bộ, đảng viên không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Hồ Chí Minh sử dụng hình ảnh “rể khờ, dâu dại” để nói đến những cán bộ, đảng viên không tốt, không hoàn thành nhiệm vụ. Người viết, “Cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại, không thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc không tốt kia, cũng không thể giấu”. Những hình ảnh này không chỉ nói đúng bản chất vấn đề mà còn góp phần gia tăng hiệu quả về nhận thức và đánh đúng tâm lý tiếp nhận của người Việt Nam.  

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn sử dụng các hình ảnh như “giã gạo” để nói về việc cất nhắc cán bộ mà không xem xét kỹ càng, không hỗ trợ; “bức tường” để nói về thói quen sử dụng mệnh lệnh của cán bộ, đảng viên làm Đảng, Chính phủ xa cách với nhân dân; “lá bùa của thầy cúng” để nói về khẩu hiệu “nói không ai hiểu”… Các phép liên tưởng này làm cho ngôn ngữ trở nên vừa trực quan, sinh động vừa dễ đọc, dễ hiểu. Các hình ảnh được sử dụng đều là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với quần chúng nên dễ được quần chúng tiếp nhận, lắng nghe.

Thủ pháp sử dụng tục ngữ, thành ngữ

Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần sử dụng các câu thành ngữ, tục ngữ quen thuộc để chứng minh quan điểm, giải thích lý lẽ, khẳng định ý kiến. Người rất linh hoạt trong việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, khi thì giữ nguyên văn, khi thì biến hóa câu gốc cho phù hợp với văn cảnh. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh sử dụng tục ngữ, thành ngữ 18 lần.

Trong “Sửa đổi lối làm việc”, ít nhất 4 lần, Người sử dụng các câu thành ngữ, tục ngữ để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc viết, nói cho dễ hiểu. Người viết, “Về việc đặt khẩu hiệu, đặt chương trình làm việc, chương trình tranh đấu, tuyên truyền, làm báo tường, viết báo, cũng như thế… Chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ, chắp cằm bà kia””; “Tục ngữ nói: “Đo bò làm chuồng, đo người may áo”. Bất kỳ làm việc gì cũng phải có chừng mực. Viết và nói cũng vậy”; “Tục ngữ nói “gẩy đờn tai trâu” là có ý chế người nghe không hiểu. Song những người tuyên truyền mà viết và nói khó hiểu, thì chính người đó là “trâu”” và “Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: "Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói”. Cách dẫn giải của Hồ Chí Minh vừa dễ hiểu vừa hóm hỉnh, nhất là khi ví người viết, nói khó hiểu như “trâu”.

Trong một số trường hợp, Hồ Chí Minh diễn đạt lại các câu tục ngữ, thành ngữ cho phù hợp với bối cảnh thay vì trích dẫn nguyên văn. Ví dụ, Người viết, “Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm”. Câu “Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc” được biến hóa từ hai câu gốc “Nước chảy đá mòn” và “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Ý tứ của câu tục ngữ gốc vẫn được truyền tải trọn vẹn nhằm khuyên cán bộ, đảng viên kiên trì sửa chữa các khuyết điểm của mình. Hoặc người sử dụng cách nói “làm ít suýt ra nhiều” để phê phán căn bệnh “hữu danh, vô thực” của một số cán bộ, đảng viên.

Việc sử dụng các câu thành ngữ, tục ngữ gia tăng chất thơ của bài viết, làm cho nội dung trở nên hàm súc và hấp dẫn hơn với người đọc. Nó cũng giúp cho nội dung thông tin gần gũi, dễ hiểu hơn với người đọc vì các thành ngữ, tục ngữ vốn ăn sâu trong nhận thức của mỗi người Việt Nam. Bên cạnh đó, các thành ngữ và tục ngữ thường thể hiện sắc thái biểu cảm nên nó dễ đi vào lòng người.

Thủ pháp Thí dụ

Đây là phép cụ thể hóa, liệt kê sự vật, sự việc để làm rõ vấn đề; thường được dẫn ra trước hoặc sau một luận điểm để minh họa, chứng minh, làm rõ luận điểm đó. Đây là một trong những thủ pháp quen thuộc được Hồ Chí Minh sử dụng trong các tác phẩm của mình như “Đời sống mới”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Thường thức chính trị”… Thí dụ bổ sung, làm rõ ý chính và khiến cho nội dung trở nên đơn giản, cụ thể, dễ hiểu hơn. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh dùng phép thí dụ 36 lần.

Viết về tình trạng cán bộ, đảng viên quen làm việc theo cách “hạ lệnh, cưỡng bức” khiến cho quần chúng không hiểu, mà có phần oán thán, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, “Vì cán bộ và đảng viên không hiểu rõ hai lẽ: vì ai mà làm, đối ai phụ trách, khi gặp mỗi công việc không biết tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu. Cho nên những việc trực tiếp lợi cho dân, như đắp đê, hộ đê, tăng gia sản xuất, bình dân học vụ, v.v., cán bộ chỉ làm theo cách hạ lệnh, cách cưỡng bức. Kết quả dân không hiểu, dân oán. Thì có gì lạ đâu? Một thí dụ rất tầm thường, dễ hiểu: bánh ngọt là một thứ ngon lành, nhưng đem bánh ngọt bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta, thì ai cũng chán!”.

Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cần sắp xếp người phù hợp với công việc, giúp họ phát huy được thế mạnh của mình. Thế nhưng, trong thực tế, việc sắp xếp, phân công cán bộ đôi khi theo chủ quan của người lãnh đạo, khiến cho cán bộ thì không phát huy được năng lực mà công việc thì không có được kết quả. Viết về tình trạng này, Người sử dụng thí dụ, “Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”.

Hay khi nói về tầm quan trọng của sự cẩn trọng trong khi viết, Hồ Chí Minh lấy thí dụ, “Một thí dụ rất rõ ràng: mỗi ngày, chúng ta ai cũng rửa mặt. Rửa mặt rồi, thì chải đầu. Nhiều người chải đầu rồi, còn soi gương xem đã sạch, đã mượt chưa. Nếu viết bài và diễn thuyết cũng cẩn thận như thế thì chắc không đến nỗi có nhiều khuyết điểm”. Thí dụ giản dị này giúp cho người đọc hình dung việc viết lách cũng giống như chăm chút cho hình ảnh của mình, càng cẩn thận, kỹ lưỡng bao nhiêu thì kết quả càng tốt đẹp bấy nhiêu.

Hồ Chí Minh luôn lấy những thí dụ cụ thể, quen thuộc, trực quan, thực tế từ chính đời sống thường ngày. Thủ pháp này không chỉ giúp trực quan hóa ngôn ngữ mà còn củng cố sự chặt chẽ của luận điểm. Mục đích của Hồ Chí Minh luôn là làm sao cho nội dung mình viết trở nên đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ với cán bộ, đảng viên và quần chúng. “Viết cho ai cũng hiểu” tưởng là đơn giản nhưng thực ra rất khó khăn nếu người viết không đặt mình vào vị trí của người đọc. Hồ Chí Minh luôn viết và nói từ trình độ nhận thức của người tiếp nhận, chứ không xuất phát từ bản thân mình.

Bốn thủ pháp: so sánh; liên tưởng; thành ngữ, tục ngữ và thí dụ được sử dụng nhuần nhuyễn trong “Sửa đổi lối làm việc”, cho thấy phong cách ngôn ngữ giản dị của Hồ Chí Minh. Hiệu quả lớn nhất của các thủ pháp này là làm cho nội dung trở nên dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo đúng với tinh thần của một cuốn cẩm nang hướng dẫn cán bộ, đảng viên sửa chữa những thói quen, khuyết điểm hàng ngày. Điều này giải thích tại sao khi đọc các tác phẩm của Hồ Chí Minh, bao gồm “Sửa đổi lối làm việc”, người đọc luôn cảm nhận được sự nhẹ nhàng, mực thước, điềm đạm mà không thấy bất kỳ sự lên gân, lên cốt nào.

*

Từ những phân tích nêu trên dưới góc độ thủ pháp ngôn ngữ nói riêng và phong cách Hồ Chí Minh nói chung, đặt trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ cán bộ tuyên giáo có thể coi đây là những bài học quý để có thể học tập, vận dụng trong thực tiễn công tác tuyên truyền, lý luận, báo chí xuất bản…

Trước hết, cần học tập phong cách gần gũi, dân chủ với quần chúng, tôn trọng quần chúng khi nói và viết. Rõ ràng, bằng những thủ pháp như so sánh, liên tưởng, thí dụ, tục ngữ, thành ngữ, Người làm cho những nội dung tưởng như khô khan trở nên hấp dẫn; những nội dung tưởng như phức tạp trở nên đơn giản; những nội dung tưởng như xa lạ trở nên gần gũi. Mặc dù Hồ Chí Minh không viết ra những hướng dẫn cụ thể về văn phạm nhưng những bài nói, bài viết của Người chính là những văn bản mẫu mực về cách nói, cách viết mà người làm công tác tuyên giáo phải hết sức học cho được.

Sau đó, “Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu”, tránh tình trạng viết “dài dòng, rỗng tuếch”. Từ năm 1947, Hồ Chí Minh đã chỉ ra căn bệnh “Nói không ai hiểu” hay “dài dòng, rỗng tuếch” bởi lẽ “Đảng thường kêu gọi khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá. Khẩu hiệu đó rất đúng. Tiếc vì nhiều cán bộ và đảng viên, có “hoá” gì đâu! Vẫn cứ chứng cũ, nếp cũ đó. Thậm chí, miệng càng hô “đại chúng hoá”, mà trong lúc thực hành thì lại “tiểu chúng hoá”. Vì những lời các ông ấy nói, những bài các ông ấy viết, đại chúng không xem được, không hiểu được. Vì họ không học quần chúng, không hiểu quần chúng”. Muốn tránh được khuyết điểm ấy, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên cần lấy câu “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng” làm khuôn phép cho việc nói và viết. Người viết, “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng” và “Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình”./.


CON TÀU CÒN LẠI- BẢO VẬT QUỐC GIA

 



Con tàu còn lại duy nhất của Đoàn tàu “không số” lừng lẫy thuở nào, đã làm nên huyền thoại “đường Hồ Chí Minh trên biển” vừa chính thức được công nhận bảo vật quốc gia. Cũng chính con tàu này từng có thời gian dài góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quần đảo Trường Sa.
Tàu HQ671 hay còn được biết đến với số hiệu C41, 641 đã góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển
Tàu HQ671 hay còn được biết đến với số hiệu C41, 641 đã góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển
Con tàu huyền thoại…
Tàu vận tải quân sự HQ671 từng có tên gọi khác là C41, 641 hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Quân chủng Hải quân. Tàu dài 31,5m, rộng 5,8m, cao từ đáy đến đỉnh cột cờ 11,7m, lượng giãn nước 165 tấn, là loại tàu Quảng Châu (trọng tải 50 tấn) do Trung Quốc sản xuất năm 1962, viện trợ cho Hải quân Việt Nam năm 1964. Khi đó, tàu được biên chế về Đoàn 125 (còn gọi là Đoàn tàu “không số”) làm nhiệm vụ vận tải chi viện chiến trường miền Nam theo con đường vận chuyển chiến lược trên Biển Đông mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh - đường Hồ Chí Minh trên biển.
Từ năm 1967 đến năm 1971, tàu làm nhiệm vụ bí mật vận chuyển vũ khí, hàng hóa trên con đường vận tải chiến lược chi viện trực tiếp cho chiến trường miền Nam và tham gia vận chuyển trong Chiến dịch vận tải VT5 (1968 - 1969), đưa vũ khí, hàng hóa từ cảng Hải Phòng vào cảng Gianh, tỉnh Quảng Bình, để từ đó, các lực lượng tiếp tục vận chuyển theo đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường miền Nam.
Từ tháng 7-1971 đến năm 1974, tàu mang số hiệu 641, làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, hàng hóa, phương tiện và bộ đội vào cảng Đồng Hới, Quảng Bình và cảng Cửa Việt, Quảng Trị để chuyển tiếp vào chi viện chiến trường miền Nam.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tàu 641 chở người, vũ khí, hàng hóa vào chi viện cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung và chở lực lượng đặc công Hải quân ra tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa. Sau năm 1975, tàu làm nhiệm vụ vận chuyển và trực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa.
Năm 1980, tàu 641 được mang số hiệu HQ671 và năm 1982 được biên chế về Hải đội 413, Vùng 4 Hải quân, làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và vận chuyển bộ đội, hàng hóa chi viện cho xây dựng, bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tuần tra bảo vệ khu vực căn cứ quân sự Cam Ranh.
Năm 2002, tàu HQ671 được biên chế về Hải đội 384, Cục Hậu cần Hải quân làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hậu cần phục vụ cho các đơn vị trong Quân chủng Hải quân. Trong dịp kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961/23-10-2011), ngày 20-9-2011, tàu HQ671 được đưa từ Hải đội 384, Cục Hậu cần Hải quân về Bảo tàng của Quân chủng làm hiện vật trưng bày tuyên truyền chiến công “Đường Hồ Chí Minh trên biển”.
                                                                                                                            st

NỮ ANH HÙNG PHẠM THI THAO - VAI TRĂM CÂN, CHÂN NGHÌN DẶM

 

Năm 1968, Cục Hậu cần Quân khu 5 thành lậpTiểu đoàn vận tải nữ 232 với nhiệm vụ gùi lương thực, đạn dược, cõng thương binh, mở đường và chống lầy để xe ô-tô đi qua... đúng vào giai đoạn cam go nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường khói lửa miền trung. Phạm Thị Thao khi đó mới ở độ tuổi 19, đôi mươi nhưng đã là Đại đội trưởng Tiểu đoàn Bắc Hải (Tổng đội Thanh niên xung phong Quảng Đà - Nguyễn Văn Trỗi) được điều sang làm Tiểu đoàn trưởng, quản lý bốn đại đội vận tải, một tiểu đoàn bộ, một trạm xá và một đội sản xuất với hơn 600 cô gái ở độ tuổi chỉ mười sáu, đôi mươi.

Trong bốn năm thực hiện nhiệm vụ đó, Tiểu đoàn vận tải nữ 232 dưới sự dẫn dắt của Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao đã được quân và dân đất Quảng và chiến trường khu 5 gọi với cái tên rất đỗi dung dị: "Tiểu đoàn bà Thao". Trong bốn năm, đã có hơn 5.000 tấn hàng được các cô gái vận chuyển ra chiến trường. Ước tính trung bình mỗi nữ chiến sĩ của Tiểu đoàn đi bộ khoảng 600km mỗi năm. Với phương châm như: "đạp 50 cân xuống đất, hất 70 cân sang bên, vì chiến trường mang lên một tạ" hay "không tính khối lượng, không tính chỉ tiêu, có sức bao nhiêu cống hiến tất cả"... "Tiểu đoàn bà Thao" đã làm nên bao huyền thoại sống gắn liền với những chiến công trên các cung đường Trường Sơn máu lửa.

P/s: Trong những năm tháng kháng chiến ác liệt, việc khai thêm tuổi để được nhập ngũ như bà Thao (14 tuổi khai thêm 4 tuổi) là rất phổ biến. Đó là minh chứng rõ nét cho một thế hệ thanh niên anh hùng của dân tộc, sẵn sàng xả thân vì đất nước.

Nguồn Sinh viên và người lính

HỌC TẬP PHONG CÁCH DIỄN ĐẠT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Trong hệ thống các giá trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại qua cuộc đời hoạt động cách mạng, phong cách diễn đạt có vị trí hết sức đặc biệt. Phong cách diễn đạt của Người đã trở thành một giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo, là biểu hiện sống động của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh qua ngôn ngữ (nói, viết) và qua cử chỉ (hành động). Đối với cán bộ, đảng viên, học tập, rèn luyện và làm theo phong cách diễn đạt của Người có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Về ngôn ngữ nói và viết, Bác Hồ nhấn mạnh các giá trị độc đáo: tính đại chúng,gọn, rõ, nói đi đôi với làm. Bác luôn ưu tiên sử dụng ngôn ngữ đại chúng để mọi người đều có thể hiểu được. Từ đó, người phê bình những cán bộ, đảng viên có “bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ,bệnh sính dùng chữ nước ngoài”. Ngôn ngữ diễn đạt phải phù hợp với người nghe: Nói và viết cho ai; nói và viết để làm gì; nói và viết như thế nào. Người không phản đối việc nói dài, viết dài, nhưng Người khuyến khích cách diễn đạt súc tích, dễ hiểu. Bác hay phê bình cách diễn đạt quá dài, “lên gân, lên cốt” trích dẫn nghị quyết này, chỉ thị nọ mà thông tin ít, thậm chí “rỗng tuếch”. Ngôn ngữ hành động, hay cử chỉ cũng là một nét phong cách diễn đạt đặc biệt, rất riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Người quan niệm: Một tấm gương sáng còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền; và vì thế, từng cử chỉ, hành động của Người đều thể hiện phong cách “nói đi đôi với làm”,không khoa trương, mệnh lệnh, chỉ đạo suông mà rất ân cần,gần gũi, “xắn tay áo làm” khi đề ra nhiệm vụ công tác; những việc cấp bách thì phải làm ngay, làm gấp và Người nêu gương thực hiện trước.Học tập và nghiên cứu về phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng nhận thức rõ nhiều giá trị thực tiễn đối với công tác, sinh hoạt của từng cán bộ, đảng viên và càng thấm nhuần tư tưởng “vì nhân dân phục vụ” cả trong nhận thức, lời nói và hành động. Khi tiếp xúc, làm việc, công tác với nhân dân, cán bộ, đảng viên phải có lời nói, việc làm chuẩn mực, dễ nghe, dễ hiểu, gần gũi với quần chúng nhân dân. Phải ưu tiên dùng ngôn ngữ thuần Việt và trong nhiều điều kiện, hoàn cảnh, cán bộ, đảng viên phải thông thạo tiếng địa phương, phong tục, tập quán của từng vùng, miền để có cách ứng xử, truyền đạt phù hợp. Khi tuyên truyền về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu kỹ đối tượng người nghe để có hình thức phù hợp, nên diễn đạt súc tích, hấp dẫn, dễ hiểu. Bác Hồ từng dùng ca dao, tục ngữ, các

thể loại thơ, vè… để tuyên truyền cho nhân dân về đường lối cách mạng; đó cũng là một hình thức độc đáo mỗi cán bộ đảng viên hôm nay cần học tập, noi theo. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, đảng viên càng phải tích cực rèn luyện theo phong cách của Bác, nói và viết phải rõ ý, đầy đủ thông tin, đúng pháp luật. Cách thức diễn đạt phải rõ ràng, mạch lạc, thẳng thắn; không suồng sã, qua loa, đại khái, cũng không chấp nhận việc rập khuôn, máy móc,“quan trọng hóa vấn đề” dẫn đến người nghe hiểu nhầm, hiểu sai bản chất sự việc, gây hệ quả không tốt. Qua học tập phong cách diễn đạt của Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện tác phong gần dân, hiểu dân và nhất là biết “lắng nghe Dân”. Đối với mỗi công việc, nhiệm vụ đều phải tìm hiểu thật kỹ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,xuất phát từ lợi ích chính đáng của người dân. Lắng nghe dân tức là tuyệt đối không sử dụng mệnh lệnh, áp đặt phi lý, phải ghi nhận, giải đáp đầy đủ, hợp lý các kiến nghị chính đáng của Nhân dân, làm cho dân hiểu, dân tin và huy động sức mạnh của toàn dân vào thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ một trong các biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị đó là: “Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu”. Thực vậy, các đức tính quý báu của người cách mạng như: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tận trung với nước,tận hiếu với dân… phải được cụ thể hóa thành hành động cách mạng, chứ không chỉ dừng lại ở việc hô khẩu hiệu mà không có quá trình rèn luyện, tu dưỡng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải chủ động rèn luyện phong cách “nói đi đôi với làm”, xem đây là nhiệm vụ thường xuyên để tu dưỡng đạo đức, lối sống. Ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, phải nhận thức và hành động theo đúng chính sách, pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đồng thời phải không ngừng học tập, rèn luyện tác phong sinh hoạt, xây dựng bản lĩnh cách mạng kiên định, vững vàng. Nghiên cứu về phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng nhận thấy những giá trị thực tiễn to lớn, sinh động đối với mỗi cán bộ đảng viên trong tình hình hiện nay. Đó cũng là kho tàng tri thức, kinh nghiệm thực tiễn và tài sản vô giá để mỗi cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước tin tưởng, giao phó và được Nhân dân tin yêu, giúp đỡ./.