Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Gần dân, giúp dân để xây dựng địa bàn vững mạnh

 

Những năm qua, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Tây Ninh triển khai thực hiện hiệu quả nhiều mô hình bám dân, bám ấp để vận động, giúp đỡ nhân dân ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, xây dựng quê hương.

    Một trong những mô hình mang lại nhiều kết quả trong công tác bám nắm địa bàn là mô hình đảng viên đồn biên phòng tham gia sinh hoạt chi bộ ấp thuộc xã biên giới. Đây là chủ trương của Tỉnh ủy Tây Ninh, được triển khai từ năm 2016. Tính đến nay, đã có hàng nghìn lượt đảng viên BĐBP tham gia sinh hoạt ở các chi bộ ấp thuộc khu vực biên giới.

    Thượng tá Đỗ Quốc Hùng, Trưởng ban Vận động quần chúng (Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Tây Ninh) cho biết: “Tham gia các buổi sinh hoạt, bên cạnh việc cung cấp, chia sẻ cho cán bộ, đảng viên trong chi bộ những thông tin liên quan đến tình hình quản lý, bảo vệ biên giới, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm... các đảng viên BĐBP còn tham mưu, tư vấn, giúp đỡ chi bộ chuẩn bị nội dung tổ chức sinh hoạt, ghi chép sổ sách thống kê, tiếp nhận sinh hoạt, giới thiệu chuyển sinh hoạt cho đảng viên... theo đúng quy định, hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng và chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; đồng thời nắm bắt tình hình địa bàn, những biểu hiện nghi vấn của các đối tượng, phục vụ tốt cho công tác giữ gìn an ninh trật tự địa phương”.

Gần dân, giúp dân để xây dựng địa bàn vững mạnh
Lãnh đạo Bộ đội Biên phòng tỉnh Tây Ninh trao quà tặng hộ nghèo xã Hòa Hiệp, huyện Tân Biên.  

    Mặt khác, có đảng viên BĐBP tham gia sinh hoạt, chi bộ ấp tiếp cận được nhiều chủ trương, chính sách mới nên năng lực lãnh đạo của chi bộ cũng được nâng lên đáng kể. Theo đồng chí Nguyễn Minh Sơn, Bí thư Đảng ủy xã Hòa Hiệp, huyện Tân Biên (Tây Ninh), từ ngày có đảng viên của các đồn biên phòng về sinh hoạt tại chi bộ các ấp, chất lượng lãnh đạo có nhiều chuyển biến tiến bộ. Những chủ trương, biện pháp lãnh đạo của đảng ủy xã được quán triệt tới từng đảng viên và tổ chức thực hiện đầy đủ, hiệu quả hơn, đặc biệt là năng lực tham mưu của cấp ủy chi bộ ngày càng sát thực tế địa bàn, dân cư.

    Cùng với mô hình này, BĐBP tỉnh Tây Ninh còn thực hiện tốt mô hình đảng viên đồn biên phòng phụ trách các hộ đặc biệt ở khu vực biên giới; cử đảng viên tham gia cấp ủy địa phương... Để những mô hình trên phát huy tác dụng, đội ngũ cán bộ, đảng viên biên phòng phải có trình độ lý luận chính trị tương ứng, giỏi tham mưu, nắm chắc đặc điểm địa bàn, tình hình kinh tế, quốc phòng, an ninh, trật tự tại địa phương và nhiệt huyết, trách nhiệm với công việc, bám dân, sát cơ sở. Do vậy, Đảng ủy, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh tích cực cử cán bộ đi đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, kỹ năng tham mưu; phối hợp mở các lớp học tiếng dân tộc thiểu số, bồi dưỡng nghiệp vụ xây dựng Đảng, vận động quần chúng... cho cán bộ, đảng viên. Cấp ủy, chỉ huy các cấp giao nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên trước khi giới thiệu tham gia cấp ủy địa phương.

    Để tăng cường gắn kết và thiết thực hỗ trợ nhân dân có hoàn cảnh khó khăn, BĐBP tỉnh còn duy trì đều đặn mô hình “Nâng bước em tới trường-Con nuôi đồn biên phòng”. Các cháu nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, mồ côi cha mẹ, không nơi nương tựa được hỗ trợ kinh phí để tiếp tục đến trường, hoặc được nhận nuôi tại đồn biên phòng. Tính từ năm 2016 đến nay, đã có hàng trăm cháu được các đồn biên phòng chăm lo, nuôi dưỡng.

    Trong số đó, có 12 cháu đã và đang theo học các trường cao đẳng, đại học; nhiều cháu có việc làm ổn định. Cô giáo Đặng Thị Thanh Hằng, Trường Mầm non Lợi Thuận, huyện Bến Cầu (Tây Ninh) tâm sự: “Nhờ sự giúp đỡ của các chú BĐBP thông qua Chương trình “Nâng bước em tới trường”, tôi đã thực hiện được ước mơ trở thành cô giáo. Bằng kiến thức, tình cảm và trách nhiệm của mình, tôi sẽ dìu dắt học sinh để các em khôn lớn, trưởng thành, có ích cho xã hội”...

    Theo thống kê, dân số tỉnh Tây Ninh hiện có khoảng 1,19 triệu người, thuộc các dân tộc: Kinh, Khmer, Chăm, Hoa... Toàn tỉnh có 20 xã biên giới, đời sống người dân còn nhiều khó khăn. Ở các xã biên giới luôn có lực lượng biên phòng và dân quân bám nắm, thường xuyên hỗ trợ, giúp đỡ bà con khi cần thiết. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, BĐBP tỉnh phối hợp tổ chức nhiều chương trình giúp dân thiết thực như: “Xuân biên phòng ấm lòng dân bản”, “Ngày hội Biên phòng toàn dân”, “Mái ấm biên cương”...; tổ chức khám bệnh, tặng quà, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo; mời chuyên gia pháp luật tham gia tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho nhân dân và triển khai các hoạt động giao lưu, kết nghĩa, văn nghệ... góp phần củng cố tình đoàn kết quân dân.

    Đại tá Phạm Đình Triệu, Chính ủy BĐBP tỉnh Tây Ninh nhấn mạnh: “Muốn hoàn thành nhiệm vụ phải dựa vào dân, mà muốn dân tin, dân ủng hộ thì phải bám dân, gần dân, tuyên truyền, vận động, kết hợp với những việc làm thiết thực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; đồng thời chung tay cùng cấp ủy, chính quyền địa phương phát triển an sinh xã hội, xây dựng cơ sở chính trị an toàn, vững mạnh, khu dân cư no ấm, yên vui”.

Cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc kết thúc tốt đẹp chuyến tuần tra liên hợp

     Ngày 29-4, Cảnh sát biển hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã kết thúc tốt đẹp chuyến tuần tra liên hợp trên vùng biển lân cận đường phân định Vịnh Bắc Bộ lần thứ nhất năm 2024.

    Tham gia chuyến tuần tra liên hợp lần này, về phía Cảnh sát biển Việt Nam có biên đội tàu CSB 8004 và CSB 8003, do Đại tá Lương Cao Khải, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 1 làm chỉ huy trưởng.

    Phía Cảnh sát biển Trung Quốc có biên đội tàu Hải cảnh 4302 và 4203, do Đại tá Ngô Ấu Lâm, Phó cục trưởng Phân cục Nam Hải làm chỉ huy trưởng.

Cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc kết thúc tốt đẹp chuyến tuần tra liên hợp
Cảnh sát biển hai nước hội đàm tổng kết tuần tra. 
Cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc kết thúc tốt đẹp chuyến tuần tra liên hợp
 Đại tá Ngô Ấu Lâm trao quà lưu niệm tặng Đại tá Lương Cao Khải.
Cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc kết thúc tốt đẹp chuyến tuần tra liên hợp

 Cảnh sát biển hai nước chụp ảnh lưu niệm.

    Trong buổi tổng kết tuần tra tổ chức trên tàu Hải cảnh 4302 (Cảnh sát biển Trung Quốc), hai bên vui mừng nhận thấy, với tinh thần tích cực, chủ động, lực lượng Cảnh sát biển hai nước đã cùng nhau nỗ lực, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt kế hoạch đề ra, bảo đảm an toàn tuyệt đối.

    Hai bên bày tỏ tin tưởng, thành công của chuyến tuần tra liên hợp lần này sẽ là tiền đề tốt đẹp cho các hoạt động hợp tác tiếp theo giữa Cảnh sát biển Việt Nam và Cảnh sát biển Trung Quốc.

Sẽ thông toàn tuyến cao tốc từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi trong năm 2025

     Trong chương trình công tác tại các tỉnh Nam Trung Bộ, ngày 29-4, Thủ tướng Phạm Minh Chính khảo sát hiện trường, động viên, kiểm tra, đôn đốc các lực lượng đang thi công và chỉ đạo xử lý vướng mắc thúc đẩy các dự án đường bộ cao tốc tại các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định.

    Cùng đi có Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh; lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương và lãnh đạo các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định.

    Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn công tác tới kiểm tra các dự án thành phần thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông gồm: Vân Phong - Nha Trang, Chí Thạnh - Vân Phong, Hoài Nhơn - Quy Nhơn; đồng thời khảo sát dự án xây dựng cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột.

Sẽ thông toàn tuyến cao tốc từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi trong năm 2025

Thủ tướng Phạm Minh Chính kiểm tra tiến độ thi công cao tốc Chí Thạnh - Vân Phong thuộc Dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông. Ảnh: TTXVN

 

Sẽ thông toàn tuyến cao tốc từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi trong năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính kiểm tra tiến độ thi công cao tốc Chí Thạnh - Vân Phong đoạn qua tỉnh Phú Yên, thuộc Dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông. Ảnh: TTXVN

    Tại các điểm tới kiểm tra, Thủ tướng Chính phủ biểu dương tinh thần lao động của các cán bộ, kỹ sư, công nhân, người lao động vì đất nước, vì nhân dân và đề nghị các đơn vị tiếp tục tập trung lực lượng, phương tiện, tổ chức thi công “3 ca, 4 kíp”, “xuyên lễ, xuyên Tết”, “vượt nắng, thắng mưa”, “ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương”, “bàn làm không bàn lùi”; thi công bảo đảm tiến độ, chất lượng, kỹ/mĩ thuật công trình, an toàn lao động, bảo vệ môi trường.

    Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát khen thưởng kịp thời và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là không để xảy ra tình trạng mua-bán thầu; chăm lo đời sống cho người lao động; bảo đảm đời sống của người dân phải di dời nhường đất cho các dự án có nơi ở mới tốt hơn, ít nhất là bằng nơi ở cũ.

    Đặc biệt, các bộ, ngành và địa phương phải phối hợp chặt chẽ, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh; tổ chức quản lý, vận hành giao thông thông minh; xây dựng các trạm dừng nghỉ và công trình phụ trợ bảo đảm các tiêu chuẩn, tiêu chí đường bộ cao tốc mà Bộ Giao thông vận tải vừa ban hành.

Sẽ thông toàn tuyến cao tốc từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi trong năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính kiểm tra tình hình thi công dự án Vân Phong - Nha Trang. Ảnh: VGP/Nhật Bắc 

Dự án thành phần đường bộ cao tốc đoạn Vân Phong - Nha Trang có tổng chiều dài 83,35km đi qua 4 huyện, thị xã của tỉnh Khánh Hòa; có tổng mức đầu tư 11.808 tỷ đồng; khởi công tháng 1-2023, dự kiến hoàn thành tháng 12-2025. 

    Tặng quà động viên lực lượng đang thi công tại công trình, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Giao thông vận tải quyết liệt chỉ đạo các đơn vị tranh thủ thời tiết thuận lợi, tập trung thi công để rút ngắn tiến độ so với dự kiến; cùng với tổ chức thi công đường, tiến hành xây dựng các trạm dừng nghỉ, hệ thống quản lý, vận hành giao thông thông minh đồng thời khi dự án hoàn thành. 

    Thủ tướng chỉ đạo tỉnh Khánh Hòa khẩn trương hoàn thành giải phóng mặt bằng; bảo đảm đời sống của nhân dân phải di dời và bị ảnh hưởng bởi dự án; phối hợp với các ngành hoàn thành di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật, nhất là việc di dời điện cao thế phục vụ thi công dự án.

Sẽ thông toàn tuyến cao tốc từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi trong năm 2025

Thủ tướng Phạm Minh Chính tặng quà công nhân thi công hầm Tuy An thuộc Dự án cao tốc Chí Thạnh - Vân Phong. Ảnh: TTXVN 

Sẽ thông toàn tuyến cao tốc từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Ngãi trong năm 2025
 Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm hỏi, động viên công nhân thi công hầm Tuy An thuộc Dự án cao tốc Chí Thạnh - Vân Phong đoạn qua tỉnh Phú Yên. Ảnh: TTXVN

    * Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột giai đoạn 1 có tổng chiều dài 117,5km, qua 2 tỉnh Khánh Hòa (khoảng 32,7km) và tỉnh Đắk Lắk (khoảng 84,8km). Dự án gồm 3 dự án thành phần; dự kiến cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2026 và hoàn thành đưa vào khai thác đồng bộ toàn dự án vào năm 2027. 

    Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành và hai tỉnh Khánh Hòa, Đắk Lắk khẩn trương hoàn thành giải phóng mặt bằng, trong đó giải quyết thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng, khai thác, xử lý tài sản tận thu rừng. Bộ Giao thông vận tải và các địa phương dự án đi qua tính toán tổ chức nút giao phù hợp, vừa tạo thuận lợi kết nối giao thông liên vùng, toàn quốc, vừa tạo không gian phát triển mới. 

    * Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ tới kiểm tra thi công Dự án thành phần đoạn Chí Thạnh - Vân Phong, dài 48,05km đi qua 5 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Phú Yên; có tổng mức đầu tư 10.733 tỷ đồng; khởi công tháng 1-2023, dự kiến hoàn thành tháng 12-2025.

    Báo cáo với Thủ tướng, Ban Quản lý dự án 7 cho biết, đến nay, dự án đã cơ bản hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, bàn giao 99,9% mặt bằng cho đơn vị thi công; chuẩn bị đủ vật liệu xây dựng, đá, cát, đất đắp cho dự án. Đặc biệt, các nhà thầu đã huy động máy móc, thiết bị, nhân lực thi công đồng loạt trên toàn bộ tuyến đường. Nhờ đó, sản lượng lũy kế thực hiện dự án đến nay đạt 39,85% hợp đồng. 

    Thăm hỏi cán bộ, kỹ sư, công nhân, người lao động đang thi công trên công trường hầm đường bộ Tuy An thuộc dự án do Tập đoàn Đèo Cả thực hiện, Thủ tướng Chính phủ biểu dương tinh thần hăng say lao động của cán bộ, kỹ sư, công nhân trên công trường vì sự phát triển của đất nước; Bộ Giao thông vận tải, Ban Quản lý dự án 7 và tỉnh Phú Yên đã phối hợp, triển khai hiệu quả các phần việc liên quan dự án; yêu cầu các bộ, ngành, đơn vị và tỉnh Phú Yên tiếp tục phối hợp xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, phấn đấu hoàn thành dự án vào dịp Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2-9.

    * Kết thúc chuyến công tác, Thủ tướng Phạm Minh Chính kiểm tra tình hình triển khai tuyến cao tốc Hoài Nhơn - Quy Nhơn dài 70,1km đi qua 6 huyện, thị xã thuộc tỉnh Bình Định; có tổng mức đầu tư 12.400 tỷ đồng, mới khởi công ngày 1-1-2023, dự kiến hoàn thành ngày 30-9-2025. 

    Báo cáo với Thủ tướng Ban Quản lý dự án cho biết, công tác giải phóng mặt bằng của dự án đã hoàn thành; tỉnh đã xây dựng 24 khu tái định cư để đón 582 hộ dân vào ở. Hiện nay việc di dời công trình hạ tầng kỹ thuật, nhất là các đường điện chậm hơn do tính chất kỹ thuật.  

    Thủ tướng đề nghị các chủ thể liên quan cùng nỗ lực để cố gắng ngày 30-4-2025, chậm nhất là 30-6-2025 hoàn thành dự án Hoài Nhơn – Quy Nhơn, góp phần thông tuyến cao tốc từ Quảng Ngãi tới TP Hồ Chí Minh trong năm 2025, với tinh thần “tất cả vì lợi ích quốc gia, dân tộc”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

    Cùng với tuyến cao tốc Bắc – Nam, cả nước đã, đang và sẽ triển khai nhiều tuyến đường bộ cao tốc liên vùng từ Bắc tới Nam; phấn đấu đến năm 2025 cả nước có 3.000km đường bộ cao tốc và sẽ đạt mục tiêu có 5.000 km đường cao tốc vào năm 2030.

Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn tri ân các đồng chí tướng lĩnh Quân đội

     Nhân dịp kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2024) và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024), ngày 29-4, đoàn Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng do Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm trưởng đoàn đã đến dâng hoa, dâng hương tưởng niệm, tri ân các đồng chí tướng lĩnh Quân đội.

    Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn đã đến dâng hoa, dâng hương tưởng niệm, tri ân các đồng chí: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó bí thư Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Thượng tướng Đào Đình Luyện, nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Trung tướng Vương Thừa Vũ, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Thượng tướng Phùng Thế Tài, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn tri ân các đồng chí tướng lĩnh Quân đội

 Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn dâng hương tưởng nhớ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn tri ân các đồng chí tướng lĩnh Quân đội
Đoàn công tác thăm hỏi thân nhân Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.
Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn tri ân các đồng chí tướng lĩnh Quân đội
 Đoàn công tác thăm hỏi sức khỏe thân nhân Trung tướng Vương Thừa Vũ.
Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn tri ân các đồng chí tướng lĩnh Quân đội
 Đoàn công tác thắp hương tưởng nhớ Thượng tướng Phùng Thế Tài.

    Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn và đoàn công tác dâng hương, bày tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ, biết ơn và tri ân sâu sắc những đóng góp to lớn của các đồng chí nguyên lãnh đạo Bộ Quốc phòng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự nghiệp xây dựng Quân đội qua các thời kỳ. Những cống hiến, công lao to lớn của các đồng chí đã góp phần làm nên những chiến công hào hùng, bất khuất, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, để các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, cống hiến xây dựng quê hương, đất nước. 

    Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn ân cần thăm hỏi sức khỏe, đời sống của thân nhân gia đình các đồng chí và mong muốn thân nhân gia đình các đồng chí nguyên lãnh đạo Quân đội luôn giữ gìn sức khỏe, tiếp tục phát huy truyền thống gia đình, chung tay đóng góp cho sự phát triển của đất nước, sự lớn mạnh của Quân đội.

Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo là giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam


Yêu nước, thương người là sự cao quý của tư tưởng và tâm hồn Việt Nam, là giá trị nhân cách của con người Việt Nam, đó là truyền thống dân tộc trải qua bao biến thiên của lịch sử vẫn tồn tại một cách bền bỉ và tỏa sáng rạng rỡ trên gương mặt tinh thần của cả dân tộc. Đó cũng là một truyền thống văn hóa, văn hóa chính trị gắn liền với văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn truyền thống của Việt Nam được sản sinh và nuôi dưỡng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hằng nghìn năm cho tới ngày nay vừa anh hùng vừa bi tráng. Cốt cách Việt Nam định hình trong thử thách khắc nghiệt chống thiên tai và chống ngoại xâm, đoàn kết và cố kết cộng đồng, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, bởi sức mạnh của hợp tác và đồng thuận. Sức mạnh ấy chẳng những được quy định thành văn mà còn được tổng kết thành triết lý sống và thành phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, sự khẳng định các giá trị. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có trong mối liên kết giữa Nhà với Làng với Nước, là liên kết cộng đồng, lấy sức mạnh ở tổng thể, trong đó từng cái riêng, đơn lẻ và cá thể được tập hợp và hòa đồng trong cái chung của cộng đồng rộng lớn, lấy tương đồng, cố kết cộng đồng để khắc phục những khác biệt và những xung đột.

Nhà là biểu hiện đầu tiên, là điểm xuất phát và cũng là chỗ trở về trong mục đích hòa đồng để phát triển của Nước.

Làng là sự mở rộng của Nhà và Nước là sự mở rộng và tập hợp của các làng mà thành. Trong tâm thức con người Việt Nam, làng là quê hương, là cái nôi thiêng liêng. Tổ quốc cũng vậy. Nước là đất nước, là nhà nước.

Giá trị và sức mạnh cộng đồng là một nét nổi bật, là một đặc tính truyền thống Việt Nam, trước hết là trong chống thiên tai và sau đó là chống giặc ngoại xâm.

Trong thời hiện đại, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, giá trị và sức mạnh ấy cũng phải phát huy và đồng thời cũng cần khắc phục những hạn chế của chính giá trị này, sao cho cố kết cộng đồng không bao giờ buông lỏng mà tự do cá nhân cũng không thể xem thường. Hài hòa giữa những “cái tôi” với “cái chung” trong phát triển đòi hỏi những tác động sâu xa của dân chủ và sự công phu trong giáo dục văn hóa lối sống, để vừa phát triển hợp lý, chính đáng những cá thể, vừa phát triển lành mạnh cộng đồng xã hội – những tập thể chân chính chứ không phải những cộng đồng trừu tượng, hư ảo, những biến tướng “giả tập thể” của những phường hội, cục bộ, chủ nghĩa địa phương, cát cứ và bè phái.

Đó chính là sự khắc phục những hạn chế có trong “tính lưỡng diện văn hóa” của tâm lý, lối sống truyền thống mà cơ sở kinh tế – xã hội đã sản sinh ra nó chính là nền kinh tế nông nghiệp của xã hội nông thôn với cộng đồng nhưng tiểu nông tư hữu, sản xuất nhỏ. Di tồn này vẫn còn trong xã hội Việt Nam ngày nay vốn chưa được cải tạo hết, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại chưa hoàn thành. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống bao hàm cả xây dựng và cải tạo, cả kế thừa và loại bỏ, đổi mới để phát triển.

Cuộc đấu tranh giữa cái mới tiên tiến với cái lạc hậu, bảo thủ là một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài. Theo V.I. Lê-nin, thói quen là điều đáng sợ nhất. Yêu nước, thương người, chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn truyền thống là những giá trị văn hóa, những triết lý văn hóa bền vững và đặc sắc nhưng cũng biến đổi khi hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đã thay đổi. Nội dung yêu nước ở thời hiện đại, trong bối cảnh quốc tế hiện nay đã có thêm những biểu hiện mới, yêu cầu mới. Tình cảm thương người, vị tha, nhân ái cũng vậy, nó không chỉ thể hiện trong quan hệ giữa người và người trong cộng đồng, trong sự gắn bó, chia sẻ với số phận chung của dân tộc khi gặp hoạn nạn với những thử thách mất – còn, tự do và nô lệ. Ngày nay, trong kinh tế thị trường, trong phát triển để vượt qua cái nghèo vươn tới giàu có, khi cá nhân và lợi ích cá nhân được đề cao, thậm chí phát triển thái quá thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan… thì những giá trị trong văn hóa truyền thống nêu trên không tránh khỏi những thách thức. Quan niệm mới và cách thức giải quyết mới, nếu không rõ ràng, không được hướng dẫn và giáo dục thì những lệch lạc về định hướng giá trị và chuẩn mực giá trị sẽ có thể xảy ra. Nó biểu hiện thành hành vi ứng xử ở những đối tượng nào đó, những nhóm xã hội nào đó, cả thế hệ và lứa tuổi, có thể như một sự suy đồi văn hóa, suy đồi đạo đức.

Vì vậy, việc xây dựng quan niệm mới về giá trị, đổi mới nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống, chú trọng giáo dục văn hóa, đặc biệt là giáo dục giá trị để hướng dẫn dư luận và thực hành trong lối sống, trong đời sống văn hóa là một đòi hỏi bức xúc, cần thiết. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống hướng tới phát triển có ý nghĩa như là hiện đại hóa truyền thống.

Văn hóa do con người sáng tạo ra


Việt Nam, xét trên phương diện đất nước học, là cả một địa – văn hóa hết sức độc đáo bên cạnh một địa – kinh tế và địa – chính trị rất đặc thù.

Lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một truyền thống từ lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân – thiện – mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia – dân tộc mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân – thiện – mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Trong văn hóa tinh thần (phi vật thể) và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam truyền thống, qua các thời đại lịch sử cần đặc biệt chú trọng tới một lĩnh vực rất phong phú và tinh tế nằm chung trong cấu trúc của văn hóa, ấy là văn học, nghệ thuật, bao gồm cả dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học. Đây là di sản tinh thần rất quan trọng mà các thế hệ người Việt Nam từ xa xưa – tổ tiên, ông cha chúng ta đã sáng tạo ra, đã để lại cho đời sau. Nó phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Nó cần phải có mặt trong hành trang của những con người Việt Nam hiện nay, nhất là thế hệ trẻ nhập cuộc với đổi mới để phát triển, đổi mới trong nội tại của đất nước, con người và dân tộc mình đồng thời hội nhập với bên ngoài để phát triển và hiện đại hóa. 


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người


Hồ Chí Minh khẳng định, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”.

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.

Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp...

Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và của chính bản thân mỗi người.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên...); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”, “việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”. 

Xây dựng Đạo đức CM cho cán bộ của Đảng


Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; coi đó là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Theo Bác, “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”1. Người khái quát nội hàm đạo đức cách mạng là: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”2; “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác”3.

Vận dụng tư tưởng của Người vào thực tiễn hiện nay, cần tập trung giải quyết một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.

Thứ hai, tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.

Thứ ba, không ngừng rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo hướng thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thứ tư, xây dựng Đảng về đạo đức phải được tiến hành thường xuyên, đồng bộ, bằng nhiều hình thức, theo phương châm kết hợp biện pháp tư tưởng và tổ chức, lý luận và thực tiễn, giữa giáo dục, nâng cao nhận thức lý luận, quan điểm, tư tưởng với rèn luyện trong thực tiễn, tự phê bình và phê bình.

Thứ năm, xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân.

Đảng muốn vững mạnh, phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên. Đó là việc hết sức quan trọng và rất cần thiết của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phải trở thành việc làm tự giác, nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên. VNĐ


Cần kiên quyết trong phòng chống “TDB”, “TCH” trong nội bộ

 

Trong đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", cần tạo ra phong trào và hành động cụ thể, thiết thực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Cần tập trung: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp. Vấn đề này đã được Đảng ta chú trọng thực hiện trong thời gian qua và đã thu được những kết quả nhất định; kiên quyết sử dụng nhiều biện pháp để đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; kiên quyết thực hiện phê bình, tự phê bình. Khi có dấu hiệu vi phạm thì dù cán bộ ở cương vị nào cũng cần phải được kiểm điểm, phê bình, xử lý kịp thời, mạnh mẽ, không "dĩ hòa vi quý", không nể nang, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, không có vùng cấm, không loại trừ cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp cao tự coi mình là "bề trên", đứng ngoài tổ chức. Những biểu hiện, những đối tượng như thế càng phải kiên quyết trong đấu tranh, khắc phục, loại trừ, bởi đó thực sự là "mầm họa" của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", là nguyên nhân sâu xa nhưng trực tiếp dẫn tới làm ảnh hưởng đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng. 


Thường xuyên quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong giữ vững ổn định chính trị

 

Hồ Chí Minh khẳng định: Chính trị của lực lượng vũ trang phải được thể hiện trong lúc đánh giặc. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị được thể hiện bằng những hoạt động chính trị, giải quyết các mối quan hệ chính trị, được hội tụ ở việc tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.

Cần thực hiện thống nhất và thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, vững chắc; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp mọi nơi nòng cốt cho nhân dân địa phương đánh giặc. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngăn chăn làm thất bại mọi mưu đồ xâm lược, “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn, quan điểm, hiện tượng sai trái thù địch. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng chiến lược diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá toàn diện sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Một trong những thủ đoạn cơ bản của chiến lược đó là chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng – văn hoá, “phi chính tri hoá” lực lượng vũ trang . Phòng, chống, đấu tranh, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó sẽ góp phần trực tiếp xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang về chính trị.

Tích cực, kiên quyết đấu tranh vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội và trong lực lượng vũ trang; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử, truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc, lực lượng vũ trang, những luận điệu “ đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập”; ca ngơi, cổ vũ những giá trị của chủ nghĩa tư bản, văn hoá, lối sống phương tây; những thủ đoạn kích động đối lập Đảng với Nhà nước, với hệ thống chính trị, với lực lượng vũ trang; xuyên tạc, phủ nhận bản chất, mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, tầm thường hoá, vô hiệu hoá vai trò của lực lượng vũ trang trong thời bình.

 

 

Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong lực lượng vũ trang vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, đảo bảo chất lượng, hiệu quả.


Các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang gồm: đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Công đoàn, Hội đồng quân nhân. Đây là một bộ phận của hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động ở các đơn vị lực lượng vũ trang để đại diện, bảo vệ lợi ích và thực hiện, phát huy quyền làm chủ của các thành viên, hội viên. Cùng với việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện thì xây dựng tổ chức chính trị,  xã hội vững mạnh sẽ trực tiếp góp phần xây dựng, củng cố thể chế chính trị trong lực lượng vũ

Quan hệ chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện trước hết ở quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng xây dựng củng cố và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, đó là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ đồng chí đồng đội, quan hệ cá nhân với tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng… Đây là mối quan hệ nội tại bên trong của quân đội cách mạng, được thể hiện trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, thống nhất lợi ích. Vì vậy, các mối quan hệ đó phải được thực hiện trên cơ sở  tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang đồng thời phải thực sự dân chủ, bình đẳng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, lợi ích. Cá mối quan hệ đó phải được xây dựng và giải quyết trên nền tảng của tình cảm đồng chí, đồng đội, luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó phải là mối quan hệ đoàn kết

Lực lượng vũ trang ta là lực lượng vũ trang của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân là thể hiện bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang. Hơn nữa, cơ sở chính trị xã hội vững chắc của quân đội là nhân dân, sức mạnh từ gốc của lực lượng vũ trang là trận địa lòng dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu… Là tiêu chí để phân biệt quân đội cách mạng với phản cách mạng, đồng thời thể hiện tập trung bản chất chính trị của lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng giữ vững, tăng cường quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tiến hành và nâng cao công tác dân vận. 


Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị trong xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị


Nắm vững đường lối, nhiệm vụ chính trị; bám sát đối tượng và tình hình thực tiễn, đổi mới nội dung hình thức, tiến hành công tác tư tưởng, công tác tổ chức phù hợp, thiết thực kịp hời. đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, văn hoá, nhất là công tác giáo dục chính trị, công tác tư tưởng lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng và tuyên truyền đường lối, chính sách, giải thích có lý, có tình những hiện tượng của đời sống xã hội; đấu tranh tư tưởng lý luận; xây dựng, củng cố niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, xây dựng động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ. Đổi mới  công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng, công tác chín sách…kết hợp chặt chẽ công tác tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách để tiến hành có hiệu quả mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động của lực lượng vũ trang

Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt tạo thành tổ chức, tạo thành quân đội. Đường lối, chính sách và cán bộ là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mang, xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang. Bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị xã hội, sức mạnh chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện tập trung ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ là người trực tiếp chỉ huy đơn vị, giáo dục rèn luyện chiến sĩ, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh làm cơ sở để xây dựng các đơn vị lực lượng vũ trang  vững mạnh vè chính trị, giáo dục, rèn luyện chiến sĩ. Để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị phải hết sức coi trọng xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị.


 Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang.

Kiên trì, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, kết hợp với nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đấu tranh chống thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch.

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương.

Xây dựng các tổ chức trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng gắn với kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ chủ chốt. Coi trọng củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có chất lượng cao, số lượng phù hợp, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.

Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện ché độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội. Chế độ một người chỉ huy và chế độ chính uỷ, chính trị viên đều là bộ phận trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng uỷ cùng cấp. Người chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chủ trì công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Quan hệ giữa người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên là quan hệ hợp đồng công tác.

Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Không đối lập sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục quan niệm sai lầm đòi tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng cách buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.