Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG NHẰM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”

 

 


Tăng cường hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống và làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương, là giải pháp góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh. Theo đó, cần chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng về “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; đồng thời, luôn kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước.

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động và đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”. Gắn nhiệm vụ này với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo điều kiện để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

TÍCH CỰC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ, NHẰM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”

 


 

Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết thực xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham ô, tham nhũng theo hướng tích cực phòng ngừa là chủ yếu, kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như các biểu hiện dung túng, bao che hoặc ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí dưới mọi hình thức. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với tự tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên; với coi trọng công tác quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên theo đúng quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình thực chất kết hợp với mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, công khai minh bạch mọi vấn đề đối với từng cá nhân, tổ chức, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, ngân hàng, tài chính, xây dựng cơ bản, mua sắm công,… đảm bảo đủ sức phòng ngừa, răn đe, trừng trị để các đối tượng không thể và không dám tham nhũng.

Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong quá trình thực hiện, cần kiên quyết xử lý, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng; đồng thời, có chính sách khuyến khích, bảo vệ các tổ chức, cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, lãng phí. Chủ động và tích cực đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ lợi dụng vấn nạn tham nhũng để kích động, xúi giục, chia rẽ đoàn kết nội bộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

 

XÂY DỰNG, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CÁC CẤP NHẰM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”

 

 


 

Chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho dân, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố niềm tin trong nhân dân. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, gắn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; làm cho từng tổ chức đảng và đảng viên thực sự trong sạch, vững mạnh, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo xây dựng “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cùng với mở rộng dân chủ, cần tập trung xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; đồng thời, coi trọng nâng cao chất lượng công tác giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, đảm bảo mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, luôn đi đầu, đi trước, làm trước, làm có hiệu quả để nhân dân tin theo trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” từ cơ sở. Chú trọng việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng và nhân dân trong tổ chức triển khai, thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tạo sự tin tưởng, đồng thuận và ủng hộ của nhân dân đối với chủ trương, quyết sách của Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các cấp.

 

ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC GIÁO DỤC, TUYÊN TRUYỀN NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ TƯ TƯỞNG VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA TOÀN DÂN NHẰM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”

 

 


 

Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có cả những thuận lợi và khó khăn, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, càng phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền để nhân dân thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong củng cố “thế trận lòng dân” nói riêng. Phải làm cho “ý Đảng, lòng dân” về “thế trận lòng dân” thấm sâu vào mỗi người dân, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xây dựng “thế trận lòng dân” thời kỳ mới.

Cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp cần thường xuyên nắm chắc tình hình, đặc điểm dân cư và yêu cầu xây dựng “thế trận lòng dân” trên từng địa bàn để có biện pháp tiến hành phù hợp, hiệu quả. Quá trình thực hiện, cần chú trọng đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị của đất nước; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện thông tin, truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Đồng thời, cần đẩy mạnh phong trào thi đua nhằm tạo ra các điển hình tiên tiến về xây dựng “thế trận lòng dân”; từ đó, tổ chức học tập, rút kinh nghiệm và nhân rộng trên phạm vi cả nước.

 

QUAN TÂM, CHĂM LO, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN NHẰM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”

 


Thường xuyên quan tâm, chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng hệ thống các chính sách cụ thể, để nhân dân được ấm no, yên tâm và tin tưởng vào con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương cần tham gia, phối hợp chặt chẽ để tập trung phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống để nhân dân ổn định cuộc sống, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn. Quá trình thực hiện, cần có các cơ chế, chính sách phù hợp, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn bằng những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cụ thể, với khai thác tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương và nhân dân tiếp cận nguồn vốn và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; chăm lo sức khỏe cho nhân dân; chú trọng giải quyết các vấn đề bất bình đẳng về lợi ích, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền; thường xuyên quan tâm giải quyết tốt những bức xúc, những vấn đề nổi cộm trong đời sống của nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phù hợp để nhân dân được tham gia bàn bạc, giám sát, phản biện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo sự đồng thuận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN VỮNG CHẮC TRONG THỜI BÌNH

 


Đảng ta xác định: “Ngăn ngừa, loại bỏ nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” để bảo vệ Tổ quốc là phù hợp với xu thế chung và tinh thần chủ động giữ nước của dân tộc ta. Để thực hiện được chiến lược này, trước hết phải xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc...

Đây là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước là yếu tố quyết định. Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thời bình nhằm chuyển hóa thế trận đó thành sức mạnh trong thời chiến. Đây cũng chính là kế sách chiến lược để ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh trong tương lai.

Do vậy, cần tăng cường giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự tôn dân tộc, đấu tranh bất khuất, ý thức quốc phòng cho cả hệ thống chính trị, mọi tầng lớp nhân dân trong khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân; xây dựng quân đội, lực lượng vũ trang đủ mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Cần tăng cường hợp tác, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo sự tin tưởng, ủng hộ chống chiến tranh phi nghĩa, lên án hành động gây chiến tranh của đối phương và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng, lôi kéo, kích động, chia rẽ, ly khai... của các thế lực thù địch. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh và quốc phòng-an ninh với phát triển kinh tế-xã hội để không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng; phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện chủ trương, chính sách hợp lòng dân, tạo sức mạnh, khả năng đối phó với chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Quân đội là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vì vậy, cần tập trung xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng nghiên cứu có tính chiến lược, chủ động kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, các lực lượng trong khu vực phòng thủ; nắm chắc và chủ động ngăn chặn, làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, xác định đúng đắn các chủ trương, biện pháp phòng ngừa, xử lý kịp thời, hiệu quả không để bị động, bất ngờ.

 

“HIẾN KẾ NGƯỢC" - CHIÊU TRÒ PHÁ HOẠI THỦ ĐÔ HÀ NỘI: BÁNH VẼ VÀ GIẤC MỘNG PHÙ DU!

     Từ việc phủ nhận những chủ trương, chính sách về phát triển Thủ đô và đổ lỗi cho hệ thống chính trị, chỉ trích đội ngũ cán bộ của TP Hà Nội, các thành phần chống phá thỏa sức đưa ra những “kế sách bẩn” với nhiều thủ đoạn hòng mị dân, lôi kéo, kích động dư luận và gây bất ổn xã hội!

Kế bẩn chết chìm trong bánh vẽ ảo tưởng
Xoay quanh câu chuyện TP Hà Nội triển khai xây dựng đường Vành đai 4-Vùng Thủ đô với những công việc đang tiến triển, trong quá trình triển khai thực hiện, mới đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện luận điệu quy chụp, nói xấu hệ thống chính trị, kêu gọi dừng lại việc xây dựng con đường, tránh gây lãng phí.

Đường Vành đai 4 là một trong những dự án nhận được sự đồng thuận lớn nhất của người dân. Sự ủng hộ của nhân dân được thể hiện rất cụ thể, đó là tự giác, tự nguyện, chủ động bàn giao mặt bằng cho thành phố, ngay cả khi phần đất đó liên quan đến phần mộ của người thân, dòng họ. Nhiều hộ dân tự nguyện giao đất nông nghiệp để thực hiện dự án xây dựng nghĩa trang phục vụ di dời các phần mộ nằm trên diện tích đất giải phóng mặt bằng. Anh Vũ Xuân Định ở xã Tân Dân (Sóc Sơn, Hà Nội) khẳng định: “Tôi nắm rõ thông tin về dự án đường Vành đai 4 và ủng hộ chủ trương vì sự phát triển của huyện, thành phố. Khi biết xã gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm xây dựng nghĩa trang nhằm di dời các phần mộ, tôi cùng 10 hộ khác sẵn sàng giao diện tích đất nông nghiệp đang canh tác để phục vụ công tác này. Thời điểm ấy, chúng tôi chưa nhận một đồng tiền đền bù nào, nhưng không ai có ý kiến hay dị nghị gì. Tất cả đều đồng lòng vì việc chung”.

Với sự đồng tình ủng hộ cao của người dân, đến tháng 10-2023, Hà Nội bàn giao trên 90% mặt bằng thi công dự án đường Vành đai 4 và phấn đấu hoàn thành vào cuối năm nay. Sở dĩ công tác giải phóng mặt bằng diễn ra nhanh chóng, vượt kế hoạch đề ra, có nguyên nhân quan trọng từ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong tuyên truyền, vận động, nhất là thực hiện đúng chính sách, pháp luật, bảo đảm quyền lợi chính đáng tốt nhất cho người dân trong diện thu hồi đất. Chủ trương của Hà Nội rất đáng ghi nhận, được người dân đồng tình, đó là thành phố dành những vị trí thuận lợi và phù hợp để tái định cư cho bà con. Khi người dân di dời sẽ được đến vị trí tốt hơn, đẹp hơn nơi ở cũ.

Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là bà con thấy được chủ trương đúng đắn, tạo tiền đề phát triển toàn diện cho Vùng Thủ đô khi dự án hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng. Việc phát triển đường Vành đai 4 không chỉ giải quyết vấn đề của riêng Hà Nội mà sẽ giải quyết vấn đề liên vùng Thủ đô. Tác động của dự án đường Vành đai 4 không chỉ kết nối ở trong TP Hà Nội mà còn kết nối các tỉnh trong Vùng Thủ đô. Về mặt kinh tế, khi có đường Vành đai 4 sẽ tạo ra tính chất liên kết Vùng Thủ đô, các tỉnh lân cận. Quan trọng hơn, con đường kết nối được sự phát triển của Hà Nội với Vùng Thủ đô và mở rộng không gian phát triển cho Hà Nội. Như vậy, không chỉ Hà Nội là cực phát triển mà cực phát triển lan tỏa thành các điểm trong vùng. Hơn ai hết, người dân Hà Nội luôn mong mỏi dự án triển khai bảo đảm tiến độ để không lỡ hẹn với những cơ hội ở phía trước.

Không chỉ dự án đường Vành đai 4, nhiều công trình, dự án lớn của Thủ đô là tâm điểm chống phá của các thế lực thù địch. Cụ thể như nhiều đối tượng từng tập trung chống phá chủ trương mở rộng địa giới hành chính Hà Nội cách đây hơn 15 năm; bôi nhọ chủ trương của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố về việc chuyển cây xanh trên đường Phạm Văn Đồng để mở rộng đường Vành đai 3; phủ nhận chủ trương của Hà Nội về xây dựng các thành phố vệ tinh, hệ thống cầu bắc qua sông Hồng, hay gần đây là dự án thành phố thông minh...

Sự đồng tình ủng hộ của người dân trước những chủ trương, quyết sách phát triển Thủ đô chính là lời hồi đáp cho những người rắp tâm phá hoại. Như vậy, những đòn tấn công vô vọng cùng thủ đoạn “hiến kế ngược” chẳng khác nào trò cười cho thiên hạ và tự chết chìm trong bánh vẽ ảo tưởng do chính bản thân họ bày ra.

Hạ bệ cán bộ - giấc mộng phù du
Quy kết trách nhiệm trong việc “kìm hãm sự phát triển của Thủ đô”, đổ lỗi cho người đứng đầu và đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là việc đào sâu, đánh lái dư luận về các vụ việc vi phạm của người đứng đầu thành phố trước kia, các phần tử chống đối tung ra luận điệu lừa đảo, giật tít câu view trên các trang mạng cá nhân và đưa ra những suy diễn vô căn cứ, kêu gọi người dân Hà Nội đấu tranh để thanh trừng đội ngũ cán bộ.  

Thực tiễn thời gian qua, TP Hà Nội thực hiện chủ trương quyết liệt đổi mới công tác cán bộ, trong đó chú trọng phát huy vai trò người đứng đầu, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Không phải là những chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận... nằm trên bàn giấy mà được khẳng định bằng những việc làm cụ thể, tạo chuyển biến đột phá trên nhiều mặt.

Nói về vai trò người đứng đầu, bà Bùi Thị Thanh ở tổ dân phố Du Nghệ (thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai) còn nguyên sự xúc động khi nhớ lại lần gặp và được đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội trực tiếp chỉ đạo giải quyết nguyện vọng. Bà Thanh bộc bạch: “Ngày 11-7-2023, tôi được mời lên trụ sở Ban Tiếp công dân UBND TP Hà Nội gặp đồng chí Bí thư Thành ủy để trình bày đơn. Tôi là vợ liệt sĩ, gia đình không có nhà ở, phải đi ở nhờ hơn 6 năm. Tại buổi làm việc, đồng chí Bí thư Thành ủy trực tiếp lắng nghe nguyện vọng của tôi, nghiên cứu hồ sơ và nghe lãnh đạo huyện Quốc Oai báo cáo về phương án giải quyết”. Chỉ đạo giải quyết vụ việc đó, đồng chí Bí thư Thành ủy giao các cơ quan liên quan hoàn thiện nhanh các thủ tục để giao đất cho gia đình bà Thanh trước ngày 27-7-2023, bảo đảm đúng quy định. Thực hiện chỉ đạo trên, UBND thị trấn Quốc Oai tổ chức tạm giao đất trên thực địa cho bà Bùi Thị Thanh với diện tích 43,7m2 tại tổ dân phố Du Nghệ.

Không riêng trường hợp bà Bùi Thị Thanh, cấp ủy, người đứng đầu các cấp trong thành phố chủ động lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp tiếp dân, đối thoại, lắng nghe, xử lý kiến nghị của bà con. Nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025, đồng chí Bí thư Thành ủy tổ chức 24 buổi đối thoại và tiếp công dân, chỉ đạo giải quyết triệt để những vụ việc tồn đọng, kéo dài, phức tạp, nhận được sự đồng thuận cao. 9 tháng năm 2023, bí thư các quận, huyện, thị ủy tổ chức 273 cuộc tiếp hơn 3.000 lượt công dân, tiếp nhận hơn 2.500 đơn, thư. Bí thư các xã, phường, thị trấn tiếp gần 2.100 cuộc với hơn 6.700 lượt công dân... Các cấp ủy, ngành của thành phố công khai lịch tiếp công dân định kỳ của lãnh đạo; tổ chức đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền, tạo bước chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực, củng cố niềm tin trong nhân dân. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ khiếu kiện đông người, đơn, thư trên địa bàn Hà Nội giảm khoảng 15%.

Bên cạnh tăng cường tiếp xúc, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng của người dân, TP Hà Nội quyết liệt đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Mới đây, Chủ tịch UBND thành phố ký văn bản chỉ đạo các địa phương, đơn vị, yêu cầu kiên quyết khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, đồng thời thay thế hoặc điều chuyển sang công việc khác đối với cán bộ, công chức không dám làm, không dám tham mưu, đề xuất, không dám chịu trách nhiệm; giao Sở Nội vụ có trách nhiệm tham mưu với UBND thành phố kịp thời rà soát, thay thế hoặc điều chuyển sang công việc khác đối với cán bộ, công chức năng lực yếu, trì trệ, không dám làm và không đáp ứng yêu cầu công việc được giao.

Nhiệm kỳ 2020-2025, Thành ủy Hà Nội tiếp tục xác định công tác cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, sớm ban hành, triển khai Nghị quyết chuyên đề về “Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 và những năm tiếp theo". Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Thành ủy về công tác cán bộ với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của thành phố có tư duy, khát vọng đổi mới; năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, ứng phó với tình huống khó khăn, phức tạp phát sinh và nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Thủ đô trong giai đoạn mới. Đồng thời tập trung rà soát, ban hành đồng bộ 15 quy chế, quy định về công tác cán bộ, đổi mới các khâu công tác cán bộ theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát thực tiễn hơn.

Thường trực Thành ủy đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiều cách làm mới, giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ. Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Quyết định số 3814-QĐ/TU, thực hiện chấm điểm hằng tháng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn hệ thống chính trị của Thủ đô, trọng tâm là lấy năng suất, hiệu quả công việc làm thước đo để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các cơ quan, ban, ngành, địa phương triển khai đánh giá, phân loại mức độ hoàn thành công việc của cán bộ theo từng tuần, tháng, quý, gắn với cơ chế khen thưởng, xử phạt công khai. Nhờ đó tạo sự chuyển biến mạnh về trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật công vụ của cán bộ, góp phần vào kết quả hoàn thành mục tiêu tổng quát của thành phố.

Thực tiễn phát triển của Thủ đô là minh chứng cho vai trò người đứng đầu cùng năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp thời gian qua. Những thành quả, bài học kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước đã và đang được đội ngũ cán bộ, người đứng đầu thành phố vận dụng, phát huy hiệu quả. Song hành với chu trình đó, những hạn chế, tồn tại trong công tác cán bộ được cả hệ thống chính trị thành phố thẳng thắn nhìn nhận, tìm giải pháp khắc phục, kiên quyết xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

Chẳng gì qua được tai mắt của nhân dân, nhất là khi thành phố chủ trương phát huy vai trò của người dân trong tham gia giám sát, đánh giá cán bộ bằng nhiều kênh khác nhau. Vậy nên thủ đoạn bôi nhọ đội ngũ cán bộ để kích động người dân biểu tình, chống đối Đảng, chính quyền Hà Nội vẫn chỉ là âm mưu hèn hạ, là giấc mộng phù du mà thôi!

“Phát triển Thủ đô Hà Nội "Văn hiến-Văn minh-Hiện đại" là nhiệm vụ chính trị quan trọng đặc biệt trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần "Cả nước vì Hà Nội, Hà Nội vì cả nước"; là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị; là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội” (Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 5-5-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045)./.
Yêu nước ST.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TỪ NHÂN DÂN MÀ RA, VÌ NHÂN DÂN PHỤC VỤ

 

 



Chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân để xây dựng quốc phòng là luận điểm cách mạng, khoa học quan trọng trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong "xây dựng thế trận lòng dân", tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh; giữ vững bản chất, truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ; tăng cường mối quan hệ mật thiết quân - dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Dân vận: "Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" và quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã cụ thể hóa các nghị quyết, chương trình... chỉ đạo toàn quân thực hiện công tác dân vận luôn hướng về cơ sở, chú trọng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo. Hình thức dân vận thường xuyên được đổi mới đa dạng, phong phú, xây dựng được nhiều mô hình sáng tạo, hoạt động hiệu quả, nhất là mô hình hành quân dã ngoại làm công tác dân vận.

Là một trong những lực lượng đi đầu trong thực hiện công tác dân vận của Quân đội, với nhiệm vụ đặc thù đứng chân trên những địa bàn vùng sâu, vùng xa, Bộ đội Biên phòng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, gắn bó máu thịt với đồng bào các dân tộc nơi biên giới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Với phương châm "Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt", cán bộ, chiến sĩ Biên phòng đã kiên trì thực hiện "ba bám": bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương, chính sách và "bốn cùng": cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc. Các phong trào thi đua yêu nước, các mô hình, chương trình tiêu biểu như: "Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông thôn mới", "Nâng bước em tới trường", "Hãy làm sạch biển", Chương trình "Đồng hành cùng phụ nữ biên cương"... được thực hiện tốt, đem lại nhiều kết quả tích cực. 

Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từng khẳng định: "Trong mỗi bước phát triển, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội đều có sự giúp đỡ, bao bọc, chở che của nhân dân. Càng trong khó khăn, gian khổ, tình quân dân càng thêm gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam, cộng khổ. Vì vậy, tiến hành công tác dân vận, không chỉ là nhiệm vụ của Quân đội thực hiện chức năng "đội quân công tác", mà còn là tình cảm, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, che chở của nhân dân trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, trưởng thành và chiến đấu của Quân đội; phản ánh bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam".

Trước những diễn biến khó lường của đại dịch COVID-19, Quân đội là một trong những lực lượng trên tuyến đầu phòng, chống dịch, với hàng nghìn tổ, chốt Biên phòng duy trì những lá chắn nơi biên cương. Lực lượng Quân y ngày đêm nỗ lực tham gia nghiên cứu sinh phẩm xét nghiệm virus SARS-CoV-2 và vaccine ngừa COVID-19. Giữa tâm dịch, lực lượng Bộ đội Hóa học đã kịp thời có mặt, đảm bảo thực hiện công tác tiêu tẩy, khử trùng ở những ổ dịch, hạn chế mức thấp nhất sự lây lan của dịch bệnh trong cộng đồng. Với nhiệm vụ tiếp nhận, tổ chức cách ly y tế đối với người nhập cảnh từ các quốc gia, vùng lãnh thổ có dịch COVID-19 vào Việt Nam, trên khắp đất nước, các đơn vị của Quân đội được huy động trở thành những khu cách ly an toàn. Quân đội kiện toàn và sẵn sàng triển khai hàng trăm tổ cơ động phòng, chống dịch từ các bệnh xá quân y và đội y học dự phòng của các quân khu, quân đoàn...

Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, trước sự tàn phá khốc liệt của thiên tai, lũ lụt trên địa bàn các tỉnh miền Trung, gây nên thiệt hại lớn về tính mạng, tài sản của nhân dân, để lại hậu quả nặng nề đối với mọi mặt của đời sống xã hội, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không ngại gian khổ, kịp thời có mặt ở những nơi khó khăn nhất, hiểm nguy nhất để tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ. Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng - đội quân tuyệt đối trung thành, tin cậy, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân đã góp phần làm ngời sáng thêm phẩm chất cao đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", bộ đội của dân. 

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ, Quân đội đã xây dựng "thế trận lòng dân" từ chính sự gắn bó mật thiết với nhân dân, từ hình ảnh người chiến sĩ cứu hộ cứu nạn trong gian khó, hiểm nguy; người chiến sĩ trên tuyến đầu chống dịch; những người lính quân hàm xanh ngày đêm canh giữ các điểm chốt biên cương; người chiến sĩ mũ nồi xanh tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc... cũng như biết bao cống hiến lặng thầm của tất cả những người lính trên khắp đất nước này, đang từng ngày, từng giờ đóng góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, khắc họa rõ nét phẩm chất, bản lĩnh của Bộ đội Cụ Hồ Việt Nam, ghi dấu ấn trong lòng nhân dân và lan tỏa hình ảnh đẹp ra thế giới...

“HIẾN KẾ NGƯỢC" - CHIÊU TRÒ PHÁ HOẠI THỦ ĐÔ HÀ NỘI: QUY CHỤP HIỆN TƯỢNG THÀNH BẢN CHẤT!

     Một trọng điểm mà các thành phần chống phá hướng tới là cố tình hạ bệ vai trò, vị trí, uy tín của hệ thống chính trị TP Hà Nội hòng dẫn dắt, kích động dư luận quay lưng với cấp ủy, chính quyền Thủ đô!

Dựng chuyện "bưng bít thông tin"
“Giả đui để điêu” chính là bản chất của những thế lực chống đối, cố tình phớt lờ sự thật. Đối với Hà Nội, những thành phần chống phá cách mạng đang áp dụng chiêu thức này để trắng trợn quy chụp: “Hệ thống chính trị Hà Nội đang cố bưng bít khi để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng”. Mới đây nhất, lợi dụng việc Hà Nội đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, nhất là sau vụ cháy chung cư mini ở quận Thanh Xuân, họ lại ra sức thêu dệt, đặt điều.

Dễ nhận rõ, từ một vụ cháy thương tâm, các thế lực chống phá đã tìm mọi thủ đoạn, chiêu trò tấn công vào tâm lý người dân hòng gây hoang mang, bức xúc trong dư luận. Họ đặt điều rằng: Hà Nội có phải thành phố đáng sống? Tại sao giữa lòng Thủ đô vẫn tồn tại những chung cư mini ổ chuột? Nguy hiểm hơn, bằng thủ đoạn xảo quyệt, các lực lượng thù địch chủ ý cắt ghép, nhào nặn những thông tin với mục đích hướng lái dư luận tư duy theo ý đồ vạch sẵn.

Việc rõ mười mươi mà người dân Thủ đô đều biết, đó là ngay sau khi vụ cháy nghiêm trọng xảy ra tại chung cư mini ở phố Khương Hạ, đồng chí Bí thư Thành ủy Hà Nội thay mặt Ban Thường vụ Thành ủy có văn bản chỉ đạo việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 3 tổ chức đảng liên quan. Phần việc kịp thời, nghiêm túc, trách nhiệm này nhằm làm rõ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, xử lý theo quy định đối với các tổ chức đảng, đảng viên có liên quan khi để xảy ra vụ việc đáng tiếc. Như vậy, luận điệu “bưng bít sai phạm” mà các thế lực chống đối rêu rao lại chính là sự thể hiện rõ nét cho thói giả đui, giả điếc của các phần tử theo chủ nghĩa xét lại.

Không riêng vụ việc này, thời gian qua, Thành ủy Hà Nội đặc biệt quan tâm, coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương và thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025, Ủy ban Kiểm tra các cấp trong Đảng bộ TP Hà Nội đã kiểm tra 3.542 lượt tổ chức đảng, 992 đảng viên; giám sát 2.212 lượt tổ chức đảng, 1.098 đảng viên. Ủy ban Kiểm tra Thành ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 317 lượt tổ chức đảng và 758 đảng viên, kết luận 122 tổ chức đảng và 332 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 17 tổ chức đảng và 236 đảng viên. Điển hình là đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với các tổ chức đảng cấp dưới có liên quan trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện phòng, chống dịch Covid-19. Công tác thi hành kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng được cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra các cấp xem xét giải quyết kịp thời, đồng bộ, xử lý kỷ luật về Đảng đồng thời với xử lý kỷ luật về chính quyền, bảo đảm nghiêm minh. Cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra cấp ủy đã thi hành kỷ luật 28 tổ chức đảng và 2.377 đảng viên.

Tính riêng trong 9 tháng năm 2023, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội triển khai 2 cuộc kiểm tra (đối với 62 tổ chức đảng, 10 đảng viên) theo kế hoạch năm 2023 và 2 cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm (đối với 4 tổ chức đảng). Trong đó, Ban Thường vụ Thành ủy kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự đảng UBND thành phố nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021 trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các dự án, gói thầu do Công ty Cổ phần Tiến bộ quốc tế AIC và các doanh nghiệp thuộc “hệ sinh thái” AIC thực hiện từ năm 2011 đến 2021; kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Quận ủy Thanh Xuân, Đảng ủy Công an quận Thanh Xuân, Đảng ủy phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, nhiệm kỳ 2015-2020 và 2020-2025 trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương và thành phố về công tác phòng cháy, chữa cháy.

Các quận, huyện, thị ủy và đảng ủy trực thuộc Thành ủy cũng đã kiểm tra đối với 92 lượt tổ chức đảng và 91 đảng viên; đảng ủy cơ sở và chi bộ kiểm tra đối với 603 lượt tổ chức đảng và 291 đảng viên. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, các chương trình công tác của Thành ủy.

Không dừng lại ở đó, Hà Nội còn chủ trương đẩy mạnh kiểm tra, giám sát vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đặc biệt chú trọng kiểm tra, giám sát ở những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ xảy ra vi phạm, khuyết điểm, tham nhũng, tiêu cực, như công tác quản lý dự án, đất đai, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị, trật tự xây dựng, công tác cán bộ, công tác kê khai tài sản, thu nhập; kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu mất đoàn kết, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, rơi vào suy thoái, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để kịp thời nhắc nhở, giáo dục, ngăn chặn vi phạm.

Như vậy, tự thân những kết quả vừa dẫn chứng đã trả lời thuyết phục cho câu hỏi: Liệu tổ chức đảng các cấp ở Đảng bộ TP Hà Nội có sợ trách nhiệm, có chủ ý bưng bít thông tin như những đối tượng phản động cố tình rêu rao?

Thấy cây mà không thấy rừng
Mượn cớ chỉ trích một số vụ việc sai phạm cùng một số tổ chức đảng, đảng viên của Thủ đô bị kỷ luật, các thế lực thù địch đánh lái dư luận theo hướng “từ tiêu cực đến tham nhũng chỉ là một dấu gạch nối”. Đào bới, tô vẽ thêm việc sai phạm của một số cán bộ thành phố trước kia, những người này xuyên tạc công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Hà Nội chỉ như “ném đá ao bèo, cưỡi ngựa xem hoa, qua loa cho xong chuyện”, rồi tiếp tục suy diễn: “Nếu Hà Nội thực sự coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xa thì hẳn sẽ không có những đại án”. Quả thực, càng nói thì những người này lại càng lộ rõ bản chất xảo trá cùng tầm nhìn thiển cận “thấy cây mà không thấy rừng”.

Thực tiễn cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực luôn là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, được cả hệ thống chính trị Hà Nội tích cực vào cuộc. Để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực, Ban Thường vụ, Thường trực Thành ủy tích cực, chủ động chỉ đạo tiếp nhận, xử lý đơn thư từ các nguồn gửi đến. Trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025, Thành ủy tiếp nhận 14.933 đơn thư, chuyển cơ quan giải quyết 3.912 đơn... Do đó, hàng loạt vụ việc tồn đọng, kéo dài, phức tạp được đội ngũ lãnh đạo TP Hà Nội và cơ quan chức năng nắm bắt, quyết liệt chỉ đạo, giải quyết triệt để; đồng thời sớm phát hiện, tháo gỡ vướng mắc, ngăn chặn nảy sinh tiêu cực, nhất là bức xúc trong dân.

Cùng với đó, Thành ủy, HĐND thành phố, Ban chỉ đạo của Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 4-7-2017, Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 16-12-2016 của Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo các cấp, ngành tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26-5-2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; chú trọng các đơn thư tố cáo liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; thực hiện tốt công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là việc tiếp dân định kỳ, đột xuất của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Chỉ đạo tổ chức sơ kết từ cơ sở đến thành phố 5 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU và 6 năm thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy; qua sơ kết đã ban hành Kết luận tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU, Chỉ thị số 15-CT/TU với các giải pháp đồng bộ, thiết thực. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban chỉ đạo đã chỉ đạo rà soát trên địa bàn thành phố còn 150 vụ việc phức tạp thuộc diện Ban chỉ đạo Thành ủy tiếp tục theo dõi, chỉ đạo giải quyết. Với sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Thành ủy, các đơn vị đã giải quyết được hơn 100 vụ việc.

Bám sát các chỉ đạo của Trung ương, quán triệt, triển khai đầy đủ các văn bản, chỉ đạo của Trung ương về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chống lãng phí, Thành ủy Hà Nội ban hành và tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả Chương trình số 10-CTr/TU ngày 17-3-2021 về “Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2021-2025"; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đặc biệt, Hà Nội sớm thành lập Ban chỉ đạo Thành ủy về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và đi vào hoạt động nền nếp, hiệu quả. Theo đó, Ban chỉ đạo đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác tham mưu, xử lý các vụ việc, vụ án, ban hành 495 văn bản các loại; đôn đốc, theo dõi, hướng dẫn và giám sát kết quả giải quyết đối với hơn 200 vụ việc, vụ án; chỉ đạo công tác chuẩn bị xét xử đối với tổng số 43 vụ việc, vụ án; xử lý đối với 40 vụ việc, vụ án hình sự khác xảy ra trên địa bàn thành phố.

Nhằm thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Hà Nội tăng cường công khai, minh bạch, đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, hoạt động. Công tác cải cách hành chính được chỉ đạo, điều hành có nhiều đổi mới theo hướng sâu sát, cụ thể. Chỉ đạo nhiều giải pháp quyết liệt nhằm cải thiện, nâng cao các chỉ số đánh giá về hiệu quả hoạt động của chính quyền; tăng cường thực hiện kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả phục vụ doanh nghiệp, nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Ban Thường vụ Thành ủy còn thành lập 13 đoàn kiểm tra, giám sát đối với 35 tổ chức đảng và 54 đảng viên về các nội dung của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những bất cập, tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm, quán triệt chuyển cơ quan điều tra các vụ việc có dấu hiệu tội phạm khi chưa ban hành kết luận thanh tra. Hà Nội đặc biệt quán triệt, thực hiện nghiêm túc các kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại các hội nghị, phiên họp, cuộc họp của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chuyển hồ sơ, tài liệu một số vụ việc vi phạm có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phối hợp liên ngành giải quyết tốt các vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; của Thường trực Thành ủy Hà Nội và Ban chỉ đạo Thành ủy về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo.

Đẩy mạnh xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị của Thủ đô Hà Nội thực sự gương mẫu, đoàn kết, trong sạch, vững mạnh toàn diện, tiêu biểu; xây dựng đội ngũ cán bộ Hà Nội có trình độ cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là nhân tố có ý nghĩa quyết định; xây dựng người Hà Nội hào hoa, thanh lịch, nghĩa tình, văn minh, tiêu biểu cho văn hóa, lương tri và phẩm giá con người Việt Nam” (Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 5-5-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045)./.
Yêu nước ST.

“THẾ TRẬN LÒNG DÂN” - CỘI NGUỒN SỨC MẠNH ĐẤT NƯỚC

 

 

 


Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã cho thấy, khi toàn dân, toàn quân đồng lòng đều có thể chiến thắng mọi kẻ thù, từ giặc ngoại xâm cho đến “giặc đói, giặc dốt”. Ngay từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện và tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân và sự phát triển kinh tế - xã hội, sự đồng lòng ấy đã được hun đúc với quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, “chống dịch như chống giặc”. Cả hệ thống chính trị xác định việc tham gia phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ cấp bách, cần tập trung thực hiện một cách đồng bộ, với “mục tiêu kép”: vừa quyết liệt phòng, chống dịch hiệu quả, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Phát huy vai trò đại diện, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp từ Trung ương đến cơ sở cùng cả hệ thống chính trị đã và đang triển khai nhiều hoạt động tích cực, kịp thời, chung sức phòng, chống dịch. Trong những giai đoạn khó khăn vì ảnh hưởng của dịch bệnh, sự chung tay, đồng lòng của mỗi tổ chức, cá nhân đã cho thấy tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”, củng cố thêm sức mạnh, nguồn lực chống dịch của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, vẽ nên bức tranh đẹp về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về phòng, chống dịch COVID-19 và ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch, trong những ngày này, đồng bào cả nước đang hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch với tất cả sự sẻ chia, đồng cảm, dành những điều trân quý nhất cho đồng bào miền Nam. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có hướng dẫn và ra lời kêu gọi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố tăng cường tổ chức các cuộc vận động quyên góp, ủng hộ cho đồng bào ở vùng đang giãn cách xã hội, góp phần cùng chính quyền và các lực lượng chức năng đảm bảo an sinh xã hội. 

Bằng nhiều nghĩa cử cao đẹp, các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị, nhà hảo tâm đã quyên góp được lượng tài chính khá lớn ủng hộ công tác phòng, chống dịch và Quỹ vaccine phòng COVID-19, đến thời điểm này đạt khoảng 8.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tổng số tiền đã tiếp nhận và đăng ký ủng hộ qua Mặt trận các cấp từ ngày 1/5/2021 -15/8/2021 là 7.676 tỷ đồng. Như vậy, đã có trên 15.000 tỷ đồng được ủng hộ cho công tác phòng, chống dịch COVID-19. Các cấp Mặt trận đã sử dụng số kinh phí này để hỗ trợ mua trang thiết bị y tế, nhu yếu phẩm, trợ cấp an sinh, đảm bảo cho người dân ở những vùng giãn cách xã hội không thiếu ăn, thiếu nhu yếu phẩm. Rất nhiều người có hoàn cảnh khó khăn đã được trợ giúp tận nơi.

Để tiếp tục đồng lòng, chung sức cùng với cả nước phòng, chống đại dịch, ngày 25/8 vừa qua, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì hiệp thương, thống nhất với các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức triển khai thực hiện Chương trình "Triệu phần quà đại đoàn kết tiếp sức đồng bào miền Nam vượt qua đại dịch COVID-19". Ngay trong ngày đầu triển khai, Chương trình đã hỗ trợ cho TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đang thực hiện giãn cách xã hội tổng số 600.000 phần quà, tương đương 180 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, tại các địa phương chưa có dịch và ít bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhiều phong trào đã được phát động, đông đảo nhân dân đã tham gia ủng hộ lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Những đoàn xe với biểu ngữ, mang theo tình cảm hướng về miền Nam ruột thịt để tăng cường nhân lực, vật lực tiếp sức cho đồng bào chống dịch là hình ảnh thực sự rất xúc động về tinh thần đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, “lá lành đùm lá rách”.

Nhiều nhóm thiện nguyện, cá nhân chủ động đứng ra vận động quyên góp hoặc tự đóng góp nguồn lực của mình, trao tặng nhu yếu phẩm, trang bị vật tư y tế cho lực lượng đang làm nhiệm vụ ở tuyến đầu chống dịch; cũng như dành những phần quà giúp người nghèo, người lao động tự do vượt qua giai đoạn khó khăn của mùa dịch. Sự hỗ trợ về sức người, sức của của các tổ chức, cá nhân không những giúp chúng ta có thêm nguồn lực chống dịch, mà còn là biểu tượng sinh động cho tinh thần đại đoàn kết, tương thân tương ái đang lan tỏa rộng khắp trong toàn xã hội.

Khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của “lòng dân” và “thế trận lòng dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.

“Lòng dân” chính là cội nguồn sức mạnh của đất nước nói chung và sức mạnh quốc phòng nói riêng. “Thế trận lòng dân” chính là tinh thần yêu nước, tình đoàn kết gắn bó, khát vọng độc lập tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, nhân lên tạo thành nền tảng chính trị vững chắc, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, sẵn sàng được huy động nhằm thực hiện các mục tiêu trong từng giai đoạn của đất nước.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - QUÂN ĐỘI TRONG LÒNG DÂN

 




Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “Trước các diễn biến phức tạp của tình hình, Quân đội luôn vững vàng, kiên định, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, bảo đảm môi trường 'trong ấm, ngoài êm' cho đất nước”. 

Phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, Quân đội luôn phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương chỉ đạo điều chỉnh thế bố trí chiến lược, huy động nguồn lực xây dựng khu vực phòng thủ, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Cán bộ, chiến sĩ gắn bó máu thịt với nhân dân; tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giúp dân xóa đói, giảm nghèo; phối hợp xử lý có hiệu quả các tình huống phức tạp, nhất là trên những địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh. 

Chú thích ảnh

Học viên Học viện Quân y trước khi lên đường vào Nam làm nhiệm vụ.

Là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường, Quân đội luôn khẳng định vai trò của "Đội quân chiến đấu - Đội quân công tác - Đội quân lao động sản xuất". Đặc biệt, trong những nỗ lực phòng, chống đại dịch COVID-19, cán bộ, chiến sĩ toàn quân thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là Quân đội của nhân dân, Quân đội trong lòng dân.

Trước những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 tại các tỉnh, thành phía Nam, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã yêu cầu các đơn vị trong toàn quân phải chủ động tìm hiểu để hỗ trợ kịp thời những nhu cầu bức thiết của địa phương và người dân trong phòng, chống dịch, trên tinh thần bộ đội chủ động đến với dân, không chờ dân khó khăn phải tìm đến bộ đội. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng khẳng định: “Quân đội quyết tâm bằng mọi cách, bằng mọi biện pháp, sử dụng mọi lực lượng, với khả năng của mình và vượt cả khả năng của mình, quyết tâm cùng với nhân dân các địa bàn có dịch khắc phục dịch triệt để và đưa cuộc sống của người dân trở lại bình thường”.

Theo Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện đến nay, thực hiện Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự chỉ đạo của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ trong cả nước đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần yêu nước, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, vừa huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực, chủ động tham gia phòng, chống đại dịch COVID-19, hạn chế thấp nhất không để dịch bệnh lây lan trong cơ quan, đơn vị; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh tại nhiều nơi có ổ dịch lớn. 

Trước những diễn biến khó lường của dịch COVID-19, Quân đội là một trong những lực lượng trên tuyến đầu phòng, chống dịch, với hàng nghìn tổ, chốt Biên phòng duy trì những lá chắn nơi biên cương; với lực lượng quân y ngày đêm nỗ lực tham gia nghiên cứu sinh phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 và vaccine phòng COVID-19. Theo tiếng gọi từ trái tim, hàng ngàn cán bộ, y, bác sĩ, sinh viên quân y tình nguyện lên đường vào miền Nam tiếp sức cùng đồng bào chống dịch. Giữa tâm dịch, lực lượng Bộ đội Hóa học đã kịp thời có mặt, đảm bảo thực hiện công tác tiêu tẩy, khử trùng ở những ổ dịch, hạn chế mức thấp nhất sự lây lan của dịch bệnh trong cộng đồng. Trên khắp đất nước, các đơn vị của Quân đội được huy động trở thành những khu cách ly an toàn. Quân đội triển khai hàng trăm tổ cơ động phòng, chống dịch từ các bệnh xá quân y và đội y học dự phòng của các quân khu, quân đoàn...

Chú thích ảnh

Cán bộ, chiến sỹ chốt phòng chống dịch COVID-19 của Đồn Biên phòng cửa khẩu Giang Thành xuất quân làm nhiệm vụ.

Toàn quân đã triển khai hơn 1.900 tổ, chốt chống dịch với trên 13.000 lượt người, kiểm soát chặt chẽ tuyến biên giới trên đất liền và trên biển, ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép; phối hợp với địa phương tổ chức gần 5.000 tổ, chốt phòng dịch với sự tham gia của trên 22.000 cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ tại các địa bàn có dịch; triển khai 190 điểm cách ly phục vụ hơn 270.000 người; tổ chức 10 bệnh viện dã chiến truyền nhiễm, chuyển đổi công năng một bệnh viện đa khoa quân dân y thành bệnh viện điều trị bệnh nhân mắc COVID-19, thành lập một trung tâm điều trị bệnh nhân mắc COVID-19 vừa và nặng với hàng ngàn bác sĩ, nhân viên quân y.

Quân đội đã đóng góp 510 tỷ đồng ủng hộ Quỹ vaccine phòng COVID-19; điều động hàng ngàn xe ô tô vận chuyển vaccine đến các địa phương; khử khuẩn hàng ngàn khu vực, điểm có dịch. Nhiều đơn vị đã có cách làm sáng tạo, có các mô hình hay, thể hiện sâu sắc tình cảm tốt đẹp quân - dân "cá - nước" như: hiến máu tình nguyện, tổ chức các gian hàng 0 đồng, phối hợp giúp địa phương thu hoạch nông sản cho nông dân vùng có dịch...

Trước sự tàn phá khốc liệt của thiên tai, lũ lụt, gây nên thiệt hại lớn về tính mạng, tài sản của nhân dân, để lại hậu quả nặng nề đối với mọi mặt của đời sống xã hội, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không ngại gian khổ, kịp thời có mặt ở những nơi khó khăn nhất, hiểm nguy nhất để tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ. Tất cả những nỗ lực, đóng góp ấy một lần nữa khẳng định vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng - đội quân tuyệt đối trung thành, tin cậy, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần làm ngời sáng thêm phẩm chất cao đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", bộ đội của dân.




TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẢNG ỦY QUÂN ĐOÀN 12 HỌP PHIÊN THỨ NHẤT TRIỂN KHAI MỘT SỐ MẶT CÔNG TÁC TRỌNG TÂM!

         Ngày 28-11, tại TP Tam Điệp (Ninh Bình), Đảng ủy Quân đoàn 12 - Quân đoàn “tinh, gọn, mạnh” đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức họp phiên thứ nhất, ra nghị quyết lãnh đạo một số mặt công tác trọng tâm, nhanh chóng ổn định công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ, chính sách; đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ và các mặt công tác khác!
Tại hội nghị, các đại biểu nghe công bố quyết định của Quân ủy Trung ương về việc thành lập Đảng bộ Quân đoàn 12 nhiệm kỳ 2020-2025. Đảng ủy Quân đoàn 12 được Quân ủy Trung ương chỉ định gồm 19 đồng chí. Thiếu tướng Nguyễn Đức Hưng, Chính ủy Quân đoàn được chỉ định giữ chức Bí thư Đảng ủy; Thiếu tướng Trương Mạnh Dũng, Tư lệnh Quân đoàn được chỉ định giữ chức Phó bí thư Đảng ủy Quân đoàn.

Để lãnh đạo Quân đoàn thực sự “tinh, gọn, mạnh” sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, Đảng ủy đã quyết nghị 5 nhiệm vụ, giải pháp cơ bản: Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tập trung quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ thị, kết luận, kế hoạch của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng Quân đoàn 12 “tinh, gọn, mạnh” có tổ chức biên chế hợp lý, sức cơ động lớn, sức đột kích mạnh; tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đoàn “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, đảm nhiệm tác chiến trên nhiều hướng chiến lược của đất nước.

Nhanh chóng ổn định tổ chức, biên chế; kịp thời kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân theo đúng quy định. Nâng cao chất lượng huấn luyện theo Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương, chú trọng xây dựng, bảo đảm sức cơ động để Quân đoàn thực sự là đơn vị “chủ lực, cơ động chiến lược” của Bộ Quốc phòng, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, với mọi quy mô lực lượng và cự ly, yêu cầu của hình thức tác chiến được giao. Chủ động điều chỉnh quyết tâm, kế hoạch SSCĐ; phòng, chống cháy nổ; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai... Duy trì nghiêm nền nếp, chế độ trực SSCĐ; thường xuyên tuần tra, canh gác bảo đảm an toàn các mục tiêu. Thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền, LLVT địa phương giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, tạo chuyển biến vững chắc về xây dựng chính quy, chấp hành pháp luật, kỷ luật. Coi trọng phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tự giác của cán bộ, chiến sĩ trong chấp hành pháp luật, kỷ luật; duy trì nghiêm nền nếp, chế độ, tăng cường công tác kiểm tra, quản lý quân số và các mối quan hệ của bộ đội; kịp thời chấn chỉnh, xử lý các sai phạm, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm mọi hoạt động của đơn vị đều có lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ.

Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, tài chính cho các nhiệm vụ, không để thất thoát, tiêu cực, lãng phí. Bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch, chăm sóc sức khỏe bộ đội. Kiểm tra, đôn đốc thi công các dự án, công trình bảo đảm chất lượng, tiến độ và an toàn.

Chủ động đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp quản lý, chỉ huy, điều hành bảo đảm khoa học, dân chủ, sâu sát cơ sở; giải quyết tốt các mối quan hệ công tác trên cơ sở nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng; cấp trên làm gương cho cấp dưới, chỉ huy gương mẫu, mẫu mực trước đơn vị. Tăng cường kiểm tra việc quán triệt, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn của trên; kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân làm tốt, đồng thời kiên quyết xử lý vi phạm.

Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn giao các cơ quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cụ thể, kiểm tra, đôn đốc thực hiện; kịp thời đề xuất giải pháp theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ./.
Ảnh: Nguyễn Đức Hưng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân đoàn 12 chủ trì hội nghị.
Môi trường ST.

QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ NGÀY CÀNG SÂU RỘNG, VỊ THẾ VÀ UY TÍN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM NGÀY CÀNG ĐƯỢC NÂNG CAO SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

  


Với đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi… Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước. Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ đối ngoại Đảng với 254 chính đảng ở 114 quốc gia. Nước ta tham gia có hiệu quả vào các định chế khu vực và toàn cầu, nhất là các hiệp định thương mại (FTA) thế hệ mới và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách, ghi đậm dấu ấn về sự chủ động, tích cực trong vai trò Chủ tịch luân phiên lần thứ hai của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Việt Nam đã trở thành tâm điểm chú ý của toàn cầu với vị trí, uy tín cao trong năm 2020. Việt Nam được thế giới đánh giá là “ngôi sao sáng của châu Á”, được xếp vào tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.







QUỐC PHÒNG, AN NINH ĐƯỢC GIỮ VỮNG, TĂNG CƯỜNG SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

 

 

 


Đất nước ta tiến hành đổi mới trong bối cảnh thế giới có những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng, nhưng nền quốc phòng, an ninh nước ta luôn vững vàng, không ngừng được củng cố và phát triển. “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước… Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, được củng cố vững chắc”.

TỪ HIỆN TƯỢNG CÁ BIỆT QUY KẾT THÀNH BẢN CHẤT - THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ QUEN THUỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ

 TỪ HIỆN TƯỢNG CÁ BIỆT QUY KẾT THÀNH BẢN CHẤT - THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ QUEN THUỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ


Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách chống phá Việt Nam. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà chúng thường sử dụng là quy kết hiện tượng cá biệt thành bản chất nhằm vu cáo, xuyên tạc, làm trầm trọng hóa tình hình. Do đó, cần nhận diện rõ thủ đoạn tinh vi ấy để nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức đấu tranh, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.

Nhận diện thủ đoạn chống phá quen thuộc - từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất

Chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các thế lực chống phá thường theo dõi rất sát diễn biến về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Do vậy, mỗi khi có vấn đề nào đó xảy ra hay có hiện tượng nào đó phát sinh, các thế lực nhanh chóng quy kết, chụp mũ để nâng cao quan điểm, thổi phồng, bóp méo sự thật. Đó là bản chất của thủ đoạn quy kết các hiện tượng cá biệt thành bản chất rồi lớn tiếng quy chụp, rêu rao nhằm tạo sự chú ý của dư luận, dọn đường cho các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thực hiện các mưu đồ chống phá.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của các sự vật; còn bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng và bản chất là một cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng, trong đó bản chất luôn luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định; không có bản chất tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, đồng thời cũng không có hiện tượng nào mà không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”(1).

Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng, mà phải tiến đến bản chất của sự vật. Điều này cũng được V.I. Lê-nin chỉ rõ như sau: “Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng bản chất”(2). Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức bản chất của sự vật. Đó là, không thể xuất phát từ những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ mà quy kết là bản chất của sự vật bởi đây là biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí của chủ thể nhận thức.

Ấy vậy mà, thời gian qua, những kẻ phản động, cơ hội chính trị hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tình lờ đi những nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức bản chất của sự vật nên thường xuyên dùng chiêu bài quy chụp hiện tượng cá biệt thành bản chất. Điển hình như những sự việc sau:

Một là, xuất phát từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô mà quy kết cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một học thuyết khoa học.

Năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô sau hơn 74 năm ra đời đã sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu. Đây được coi là “chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX” và là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lên tiếng quy chụp, phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ảo tưởng, sai lầm. Họ rêu rao rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác vì “Chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”(3); “chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra các nguyên tắc “đấu tranh giai cấp”, “tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ”(4)(?!)... Những luận điệu nguy hiểm đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với mưu mô phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác, từ đó kêu gọi các nước không nên đi theo con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam, một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở nước ngoài đã lên tiếng quy chụp “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(5); hay con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng chính là “một khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản”(6). Từ đó, các phần tử cơ hội chính trị lên tiếng kêu gọi Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà các nước xã hội chủ nghĩa, như Liên Xô, Đông Âu đã đi qua để phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa!

Hai là, từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên “thoái hóa”, “biến chất”.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng được coi là một cái cớ để các thế lực nắm lấy nhằm thổi phồng, quy chụp đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta. Từ hiện tượng một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm, bị xử lý kỷ luật, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lớn tiếng quy chụp rằng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay đã “thoái hóa về tư tưởng, suy đồi về phẩm chất đạo đức, lối sống, không giữ được “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” như lời dạy của Bác Hồ”(7).

Gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn triệt để lợi dụng tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy chụp đó là một “quốc nạn không có thuốc chữa”. Họ hàm hồ cho rằng, tình trạng đó bắt nguồn từ nguyên nhân tất yếu là chế độ một đảng duy nhất ở Việt Nam và cáo buộc tham nhũng là “căn bệnh nan y, kinh niên của chế độ độc Đảng cầm quyền”(8). Ngoài ra, các thế lực phản động còn đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số đảng viên, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất và lên tiếng rêu rao “Đảng không còn là Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, Đảng không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc”(9).

Từ những lập luận kiểu quy chụp hiện tượng thành bản chất nêu trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn rêu rao rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng suy thoái, tham nhũng”(10). Những phần tử phản động đã ra sức bài xích chế độ một đảng của Việt Nam, lên tiếng kêu gọi Việt Nam phải đi theo con đường đa đảng, tam quyền phân lập vì “Chỉ có thể chống tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực”(11). Nguy hại hơn, các thế lực thù địch còn võ đoán bằng những luận điệu hết sức thâm hiểm: “Trước tình hình cai trị độc tài, không hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”(12)!

Ba là, xuất phát từ những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam “mất hết vai trò lãnh đạo”.

Trong thời gian qua, từ những hạn chế của công cuộc đổi mới, nhất là mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 mà Việt Nam đặt ra cách đây nhiều năm đã không đạt được, các thế lực thù địch lên tiếng đổ lỗi cho Đảng ta lãnh đạo đất nước không hiệu quả. Trên nhiều diễn đàn, nhất là mạng xã hội, với danh nghĩa đứng về phía nhân dân, các phần tử cơ hội chính trị đã lớn tiếng rêu rao “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo” và lên tiếng khuyên Việt Nam cần phải đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện chính sách “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”!

Gần đây, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến phức tạp, trên các kênh truyền thông và mạng xã hội của lực lượng phản động nước ngoài quy chụp rằng “Việt Nam đã mất khả năng phòng, chống dịch” hay “Đảng Cộng sản Việt Nam đã không thể chống đỡ trước cơn bão dịch”... Những luận điệu này được rêu rao khắp nơi hòng làm giảm sút uy tín và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào vai trò, vị thế và uy tín của Đảng.

Thực chất của thủ đoạn chống phá từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất và giải pháp đấu tranh

Từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất tuy là thủ đoạn không mới, nhưng vô cùng nguy hiểm. Những thế lực sử dụng thủ đoạn này hoặc là thiếu hiểu biết về việc xem xét bản chất của sự việc (trường hợp này không nhiều), hoặc là cố tình lờ đi nguyên tắc xem xét, đánh giá bản chất của sự việc từ những hiện tượng đơn lẻ (trường hợp này là nhiều). Do đó, họ đã quy kết, đồng nhất hiện tượng với bản chất. Đây thực chất là thủ đoạn xuyên tạc, thổi phồng kiểu “vơ đũa cả nắm” với mưu đồ chống phá. Dễ dàng nhận thấy mục đích đằng sau thủ đoạn này là các thế lực thù địch muốn quy chụp, vu cáo những sai lầm, hạn chế của Đảng và Nhà nước ta từ những vụ, việc cụ thể, cá biệt thành hiện tượng phổ biến, có tính quy luật nhằm làm trầm trọng hơn vấn đề, khoét sâu thêm những khuyết tật đã có. Mục đích sâu xa của thủ đoạn này là nhằm hạ thấp năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta, cổ xúy và thúc đẩy tình trạng phản đối, khiếu kiện, chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền của một bộ phận nhân dân kém hiểu biết, bản lĩnh chính trị không vững vàng; từ đó mưu toan hướng lái sự phát triển của Việt Nam theo con đường mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cho là “tối ưu nhất” - con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Có thể thấy rõ sự phiến diện, sai lầm trong cách quy kết đó. Chúng ta không phủ nhận những sai lầm, hạn chế, khuyết điểm từ những hiện tượng mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đưa ra, song điều nguy hại là ở chỗ nó đã bị xuyên tạc, bóp méo qua lăng kính chủ quan với mưu đồ chống phá nguy hiểm. Ví như, từ sự quy chụp sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu mà quy kết là sự “cáo chung” của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Mặc dù Liên Xô và các nước Đông Âu là những nước tiêu biểu về xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở thế kỷ XX, nhưng sự sụp đổ không phải là sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa với tính cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người hướng đến. Nguyên nhân của sự sụp đổ đó không phải là do những sai lầm cố hữu của chủ nghĩa Mác mà “bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(13). Hơn nữa còn do cả sự phản bội của một số lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ đúng như lời thú nhận của M.X. Goóc-ba-chốp được A.P. Sê-vi-a-kin công bố trong cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô - lịch sử những âm mưu và phản bội năm 1945 - 1991”. Đó là: “Mục tiêu của toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này, tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước. Khi trực tiếp làm quen với phương Tây, tôi đã hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đặt ra. Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô-viết tối cao cũng như Ban Lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hòa. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hóa mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A.Ya-kốp-lép, Sê-vát-nát-de...”(14).

Từ tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là tình trạng tham nhũng mà các thế lực thù địch, phản động quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên của nước ta thoái hóa, biến chất hay Đảng ta không có khả năng đấu tranh chống tham nhũng, Đảng chỉ dám đánh “con tôm, con tép”. Thực tiễn cho thấy, chúng ta không thể phủ nhận tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong những năm gần đây có những biểu hiện ngày càng nghiêm trọng, nhưng số cán bộ, đảng viên vi phạm chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cán bộ, đảng viên trên cả nước. Ngoài những cán bộ có biểu hiện tiêu cực, có rất nhiều cán bộ, đảng viên luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, nêu cao trách nhiệm cống hiến vì xã hội, vì cộng đồng và có đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước, được nhân dân tin tưởng, yêu mến và tôn vinh. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước, thời gian qua không thể không kể đến sự đóng góp của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cả nước. Họ không chỉ lãnh đạo, quản lý đất nước, mà thực sự còn là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, là nơi gửi gắm niềm tin yêu, sự tôn trọng của nhân dân.

Trước tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều hạn chế, tăng trưởng kinh tế còn chậm, các thế lực thù địch quy kết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mất vai trò lãnh đạo, đường lối đổi mới của Việt Nam không thành công. Đó thực chất là những luận điệu chủ quan, duy ý chí, thể hiện rõ mưu đồ quy chụp. Để đánh giá đúng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hay kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, cần có cái nhìn khách quan, công tâm, trên tinh thần khoa học, biện chứng mới thấy rõ hết được. Chúng ta không phủ nhận rằng, hiện nay Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển, mức độ tăng trưởng thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng nhìn lại cả chặng đường đã đi qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, chúng ta mới thấy hết được những bước phát triển vượt bậc của đất nước. Điều này đã được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(15). Đó là những bằng chứng thuyết phục để khẳng định vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối đổi mới của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, vừa phù hợp với quy luật khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đây cũng chính là căn cứ thực tiễn sinh động để phản bác những thủ đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, trong đó có thủ đoạn quy kết những hiện tượng đơn lẻ, cá biệt thành bản chất.

Thủ đoạn chống phá quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất tuy không mới, nhưng cũng không thể xem nhẹ, coi thường vì nó dễ khiến người khác hiểu sai, gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin. Do đó, cần có những biện pháp hợp lý để đấu tranh ngăn chặn.

Một là, cần nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải không ngừng tuyên truyền, giúp nhân dân nhận diện rõ thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch khi quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất để tránh bị các thế lực lôi kéo, mua chuộc, kích động. Ngoài ra, cần động viên, khích lệ, hướng dẫn nhân dân tham gia đấu tranh phản bác những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng điều kiện, khả năng của mình nhằm nâng cao “sức đề kháng” trước những hoạt động chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Hai là, tiếp tục phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc tuyên truyền, lan tỏa những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để, một mặt, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; mặt khác, từng bước pha loãng những thông tin xấu, độc, có nội dung xuyên tạc, quy chụp, võ đoán để các thông tin tích cực chiếm ưu thế trên báo chí, truyền thông, mạng xã hội. Ngoài ra, trước những vụ, việc có dấu hiệu bị quy chụp, xuyên tạc, các cơ quan báo chí, truyền thông cần phát huy vai trò trong việc định hướng tư tưởng cho nhân dân theo những luồng thông tin chính thống, tránh để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chiếm lĩnh thông tin, dẫn dắt dư luận theo ý muốn chủ quan để dễ bề thực hiện mưu đồ chống phá.

Ba là, cần chủ động có những biện pháp phù hợp để đấu tranh nhằm vô hiệu hóa các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Căn cứ vào vai trò, nhiệm vụ của các lực lượng chuyên trách, nòng cốt để xây dựng những phương án đấu tranh phù hợp với thủ đoạn quy chụp từ những hiện tượng cá biệt thành bản chất. Với lực lượng tuyên giáo các cấp, cần phát huy vai trò trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Với đội ngũ chuyên gia, cần đẩy mạnh nghiên cứu, cung cấp các luận cứ khoa học sắc bén, thuyết phục để phản bác những âm mưu, thủ đoạn chống phá. Với lực lượng xung kích (công an, quân đội, thanh niên...) cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp kỹ thuật để bóc gỡ, ngăn chặn, xử lý những thủ đoạn chống phá; đồng thời, tăng cường đấu tranh trên không gian mạng, mở rộng mạng lưới đấu tranh trong nhân dân để quy tụ và phát huy sức mạnh tổng lực.

Từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất là một trong những thủ đoạn tinh vi mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên thực hiện nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhận diện bản chất của thủ đoạn đó để nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm là cách mỗi chúng ta đấu tranh với những thủ đoạn chống phá đó, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay./.