Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021

Hiểu rõ những chiêu trò chống phá Đảng của các thế lực thù địch

    Hiện nay, các thế lực phản động, thù địch chống phá Đảng ngày càng có hệ thống, tổ chức chặt chẽ, thủ đoạn rất tinh vi, chống phá toàn diện trên nhiều phạm vi, lĩnh vực, không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận mà còn bao hàm cả các vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Điều này thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau:

    Một là, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch hiểu rất rõ vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Bởi vậy, để chống phá Đảng thì vấn đề quan trọng hàng đầu mà chúng tập trung là phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với các luận điệu cho rằng: “Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng cho Chủ nghĩa Mác-Lênin hiện đã lỗi thời, không còn phù hợp”; việc “Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin là sai lầm”... Không những thế, chúng còn tuyệt đối hóa và chia tách, đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin và xuyên tạc, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp Hồ Chí Minh nhằm hạ bệ uy tín và phủ nhận tư tưởng của Người. Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, chúng rêu rao rằng: “Chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao của sự phát triển của xã hội loài người không có gì có thể thay thế, chủ nghĩa tư bản đang tự điều chỉnh và hoàn thiện”, “nếu Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục kiên định với Mác thì đừng trông chờ gì vào đường lối Đại hội XIII”(!)...

    Hai là, chúng xuyên tạc, phủ nhận cương lĩnh, đường lối và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là thủ đoạn cũ rích, nhưng chúng luôn coi là một trọng điểm chống phá với những chiêu trò hết sức tinh vi, thâm độc. Chúng xuyên tạc, phủ nhận đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng. Chúng cố tình lờ đi vấn đề mang tính khách quan trong quy luật phát triển xã hội là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người chỉ thực sự triệt để khi có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, điều này đồng nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, chúng “lý sự” rằng: “Mọi câu hỏi của xã hội đều được tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản”(!); Đảng Cộng sản Việt Nam “bảo thủ” với con đường đi lên CNXH là trái quy luật, hoặc “đã phát triển kinh tế thị trường thì đâu còn là CNXH”(!); Việt Nam hiện nay là “đỏ vỏ, xanh lòng”(!)... 

Đối với quân đội, chúng cho rằng “quân đội chỉ trung thành và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, “quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị”(!)... Bên cạnh đó, chúng còn ra sức tuyên truyền cho luận điệu “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ”, logic của chúng là phải xóa bỏ sự “độc tài, toàn trị” của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước ta. Thực chất là, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền, thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập; phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), hướng lái Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đó là hai vấn đề căn cốt để chúng tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

    Ba là, chống phá công tác cán bộ của Đảng. Với mưu đồ gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc là “thanh trừng nội bộ”, là “chuẩn bị ghế nhân sự” cho đại hội Đảng... Không những thế, chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự... hòng hạ bệ uy tín của cán bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng.

    Bốn là, chúng phủ nhận thành tựu phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch trắng trợn phủ nhận sạch trơn những thành tựu to lớn mà Đảng và quân, dân ta đã đạt được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thành tựu qua gần 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (dù thực tế những thành tựu của nước ta đã được nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao)... Mục đích của chúng là hòng tạo nên bức tranh bi quan về tình hình Việt Nam, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN.

Những đòn phép thâm độc và hèn hạ liên quan đến sự sụp đổ của Liên Xô

    Một trong những dự án nổi tiếng nhất thuộc chuyên ngành bí mật nhất mang tên Dự án Havard đã được áp dụng trong thời gian cải tổ ở Liên Xô nhằm phi ý thức hệ, thực chất là thay đổi hệ tư tưởng Mác - Lênin bằng một hệ tưởng khác. Đối tượng chịu tác động của những đòn chiến tranh tâm lý Mỹ là người dân Liên Xô, nhất là những người cầm quyền cao nhất, làm cho họ không có khả năng nhận thức được tình thế và cũng không phát hiện ra được những độc chất trên mặt trận tư tưởng, mất tính độc lập quyết định.

Phương Tây xây dựng cả một ngành khoa học gọi là ngành Klemli học chuyên nghiên cứu những đặc điểm cá nhân và những khả năng tiềm ẩn của những nhân vật chủ chốt trong giới lãnh đạo ở Liên Xô. Trong những năm 1980, kẻ thù của Liên Xô đã bắt đầu tăng cường mọi nỗ lực điều khiển ban lãnh đạo cao nhất.

Chiến tranh tâm lý của Mỹ đã gây mất ổn định trong nhận thức và hấp dẫn người dân bằng màn kịch chính trị lớn - cải tổ. Quần chúng chỉ còn là đám đông. Trong tình trạng đó, nhiều người đã để mất thái độ trách nhiệm công dân vốn có đối với những đổi thay trong xã hội Xô viết đang đứng trước những nguy cơ to lớn.

Cùng với chiến tranh tâm lý, thế lực thù địch với Liên Xô đã mở cuộc chiến tranh tổ chức. Sau khi Breznev qua đời, Andropov và Chernenko ốm yếu, phương Tây đã nghiên cứu tỉ mỉ phẩm chất của Romanov và Gorbachev. Họ đã quyết định loại bỏ Romanov và dọn đường cho Gorbachev. Họ đã bịa đặt và tung ra những lời vu khống đối với Romanov trên các phương tiện thông tin đại chúng đến mức các chiến hữu, thậm chí Andrôpv - người đã từng coi Romanov là bạn cũng không thể có cách nào bác bỏ sự vu khống đó. Đặc biệt là thông tin vu khống, Romanov ăn chơi, xa xỉ, sử dụng đồ dùng bằng vàng bạc, châu báu của Sa hoàng để lại trong đám cưới con ông ta.

Phương thức nguy hiểm nhất mà phương Tây áp dụng ở Liên Xô là đưa kẻ thù giấu mặt hoặc những kẻ cơ hội thâm nhập cơ cấu quyền lực. Họ quan tâm thu nạp những nhân vật dễ bị mua chuộc là những kẻ thiếu hiểu biết về Tổ quốc, không có nguồn gốc xã hội, văn hoá, tình cảm với đất nước nơi họ sinh ra và lớn lên. Cho dù đây là việc khó, song nếu thành công sẽ là một chiến thắng trọn vẹn. Cho đến nay mọi người vẫn chưa biết các nhà chiến lược phương Tây đã sử dụng phương pháp nào để “đẩy” Gorbachev lên ngai. Chỉ biết rằng, nếu không có các cơ quan mật vụ nước ngoài thì điều này đã không xảy ra. Những thông tin có chủ định phát ra từ phương Tây nhằm vào cuộc chiến tranh tổ chức ở Liên Xô nhằm giành chiếc ghế cao cho “người của mình”. Những nhân vật then chốt trong ban lãnh đạo Liên Xô, nhiều người trong số đó trước đây đã từng học ở các trường nước ngoài, nay đã tha hoá biến chất được bố trí vào những vị trí quan trọng trong hệ thống điều hành. Khi chính quyền cao nhất Liên Xô đã bộc lộ những yếu kém thì cuộc bầu cử “thật sự dân chủ” vào Đại hội Đại biểu nhân dân và Xô Viết tối cao năm 1988 - 1989 đã đưa một số lượng đáng kể “các nhà dân chủ” tham gia chính quyền, để họ có thể can thiệp vào cơ cấu điều hành. Các nhân tố thù địch lọt được vào cơ quan điều hành quốc gia là một thành công của phương Tây trong âm mưu làm sụp đổ Liên Xô.

Bài học đắt giá là cần đặc biệt chăm lo xây dựng hệ thống chính trị từ Đảng, Nhà nước đến các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự trung thành và tin cậy về chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Mục tiêu của chiến tranh kinh tế - tài chính của Mỹ chống Liên Xô là khai thác được càng nhiều tài nguyên càng tốt, làm tê liệt chức năng điều hành nền tài chính quốc gia, ngăn cản Liên Xô tiếp cận khoa học công nghệ, phục vụ cho một “chiến lược gây căng thẳng”. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, hàng loạt biện pháp, chiến dịch đã được tiến hành nhằm vào những hướng phát triển kinh tế then chốt ở Liên Xô.

Đó là đòn giảm giá dầu mỏ. Liên Xô đã có được một nguồn ngân sách chủ yếu từ việc xuất khẩu dầu mỏ, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu. Cứ mỗi lần nâng giá lên 1 USD/thùng thì ngân khố quốc gia Liên Xô có thêm 1 tỷ USD. Mỹ không bao giờ bỏ qua chuyện này. Vào tháng 4-1981, Giám đốc CIA là W. Casey thăm Arab Saudi để gặp đồng minh cấp cao của mình là Turki Al Fasal và Nhà vua Al Saud. Arab Saudi chiếm 40% tổng sản lượng dầu lửa của OPEC, thực tế là nước định đoạt giá dầu mỏ. Sự giảm ngoại tệ xuất khẩu dầu thô sau đó làm cho Liên Xô không đủ tiền mua thiết bị khai thác dầu mỏ, đủ cạnh tranh với các nước khác.

Với đòn giảm giá dầu chằng những Mỹ đã giành được quyền kiểm soát giá dầu mỏ mà còn đẩy kinh tế Liên Xô thêm khó khăn trước thềm cải tổ.

Thứ hai là, việc bán tống bán tháo vàng của Liên Xô. Vào trước và trong những năm cải tổ của Liên Xô, cơ quan tình báo Mỹ có những báo cáo cho biết, “Liên Xô từ 1981 đã gia tăng số lượng vàng bán ra. Trong năm 1980 họ bán ra 90 tấn nhưng tháng 11 năm 1981 đã bán ra 240 tấn. Liên Xô đang có những khó khăn lớn và chúng ta cần tiếp tục phải kiên trì đường lối của mình”.

Cùng với lời khuyến nghị này là những hoạt động phá hoại ngầm của chính quyền Reagan nhằm đánh bại Liên Xô. Từ thời thượng cổ, vàng trong ngân khố thường được dùng để phá hoại nền độc lập của quốc gia thù địch. Mỹ cùng dùng thứ vũ khí bí mật này để phá hoại Liên Xô. Nhằm bóp nghẹt Liên Xô trên thị trường vàng, CIA đã bí mật ký nhiều thoả thuận với Nam Phi, đối thủ cạnh tranh của Liên Xô. Hậu quả là Liên Xô phải bán đổ bán tháo vàng. Lượng vàng dự trữ của Liên Xô sụt giảm ở mức nguy hiểm và cùng với điều này là sự suy yếu chung của đất nước.

Nền kinh tế Liên Xô vốn đã phát triển không thật tốt. Cho đến khi Mỹ thực hiện Chỉ lệnh của Hội đồng An ninh quốc gia (NSC), NSDD số 66 ngày 13-11-1982, áp dụng bổ sung các phương thức phá hoại có chủ ý trong lĩnh vực tài chính và kinh tế Liên Xô đã bị phá vỡ hoàn toàn.

Nhận diện thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa

 Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa đối với nước ta trong những năm qua được thể hiện trên các thủ đoạn và nội dung chủ yếu như xuyên tạc bôi nhọ, đả kích bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là truyền thống văn hóa, văn nghệ cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa - những giá trị tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ra sức truyền bá văn hóa, lối sống tư sản phương Tây vào nước ta, đây là lối sống thực dụng, vụ lợi, cá nhân sùng bái đồng tiền, dâm ô trụy lạc… kích thích sự phục hồi phát triển lối sống mê tín dị đoan, tôn thờ chủ nghĩa hữu thần, tìm hiểu, móc nối, mua chuộc, kích động trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội,... Qua đó, lôi kéo vào con đường chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tìm cách thao túng, lũng đoạn, chi phối các cơ quan, tổ chức văn hóa, văn nghệ làm cho văn hóa, văn nghệ đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, chúng cũng ra sức phá vỡ, đẩy lùi lý luận chủ nghĩa Mác Lênin  tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, đời sống tinh thần của xã hội. Đồng thời, chúng tăng cường đả kích, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Chúng cho rằng con đường đó không còn phù hợp với quy luật của lịch sử, làm cho đất nước không thể phát triển và đòi Việt Nam từ bỏ con đường đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Một năm nội lực

Với tôi, cuộc đời như dòng sông, không bao giờ thẳng. Bị chặn đầu này, nước sẽ chảy đầu kia. Nhưng tôi cũng biết, với nhiều người, năm 2021 trôi qua trong loay hoay, mọi thứ dừng lại hay chậm hẳn ngoài tầm kiểm soát. Cuộc đời đã nhiều lần dạy tôi rằng: Trong nguy có cơ. Năm 2006, tôi quyết định khởi nghiệp từ hai bằng phát minh của mình. Có nhà đầu tư chấp nhận bỏ ra 500 nghìn USD với điều kiện tôi từ bỏ vị trí giáo sư tại đại học, ra làm công ty. Lúc đó, con còn nhỏ nên tôi cho rằng điều kiện này quá rủi ro và không nhận. Tuy nhiên, nhà đầu tư đã bỏ tiền làm một phân tích thị trường chi tiết. Từ khảo sát này, tôi quyết định bỏ tiền cá nhân của mình đầu tư cho khởi nghiệp. Khủng hoảng kinh tế ở Mỹ năm 2009 dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu. Khởi nghiệp thành công xây dựng sản phẩm nhưng không tìm được người dùng. Thất bại này phần lớn do chủ quan từ tôi và khách quan do suy thoái kinh tế. Kết quả, tôi mất căn nhà trị giá trên 300 nghìn USD, nợ nần chồng chất. Xe ô tô hư nặng, tôi bỏ luôn không sửa. Ở Mỹ, chiếc xe hơi như là xe máy ở Việt Nam mà tôi không có. Từ một người có nhà cửa khang trang, xe riêng, tôi ở nhà trọ, đi xe bus. Chủ nợ gọi liên tục, lời lẽ rất khó nghe. Ở khía cạnh học thuật, tôi thành công vượt bậc. Nhưng lần đầu bước ra khởi nghiệp, tôi té dập mặt. Danh dự, "cái tôi" như bị ai đó bỏ vào bồn, dội nước trôi đi. Nhiều lúc buồn nản, tôi vác ba lô đi bộ trong rừng cả ngày. Một khoảnh khắc, tôi nhận ra ngày mai mặt trời vẫn mọc. Ngày mai, tôi sẽ thức dậy để sống cho đáng, học tất cả những gì để có thể làm tốt hơn lần sau. Và chắc chắn sẽ có lần sau. Cuộc sống này, có rất nhiều thứ không nằm trong kiểm soát của chúng ta. Một ngày, bạn vào công ty thì nhận tin mất việc trong khi là trụ cột gia đình. Một ngày, biến cố ập đến, thanh danh và sự nghiệp bạn cố công gầy dựng tan biến. Một ngày, người bạn đời nói với bạn rằng không thể sống chung trọn đời và ra ở riêng ngay. Một ngày, cả gia đình bị dương tính với Covid-19. Một ngày, thiên tai ập đến, nhà cửa và tài sản bị cuốn đi. Có rất nhiều thứ trong cuộc sống mà bạn không thể kiểm soát, như trời ngày mai sẽ mưa hay nắng. Dù có tiền, có quyền lực, có tất cả, ta cũng không thể kiểm soát thế giới này. Chúng ta sẽ làm gì? Các nhà xã hội khi giúp đỡ nạn nhân thiên tai cho biết, nghịch cảnh tạo ra hai nhóm người, tùy thuộc vào tư duy chứ không phụ thuộc vào trình độ học vấn, vị trí xã hội. Tư duy nạn nhân là những người cho rằng mình là nạn nhân. Họ tập trung vào những gì đã mất, sống thụ động, hoài mộng quá khứ, không cố gắng tự giúp bản thân mà chờ đợi ai đó sẽ giúp. Họ cho rằng cố gắng là vô bổ. Và cái kết thì bạn có thể đoán ra. Có người từng là đại gia trở nên vô gia cư, có người bị bệnh tâm thần, và cũng có người chấp nhận bỏ cuộc. Tư duy sống sót là những người cho rằng mình may mắn. Tuy buồn vì mất mát nhưng họ nhìn về tương lai với suy nghĩ chuẩn bị cho điều xấu nhất nhưng hành động cho điều tốt nhất. Họ nhìn nhận tích cực, sẵn sàng gầy dựng lại từ đầu. Hai tư duy này có thể nói là tiêu cực và tích cực. Tư duy là hệ điều hành của con người, đã định hình từ quá trình sinh ra, lớn lên. Hệ điều hành này nằm trong vô thức, rất khó thay đổi. Vậy làm sao để những người có tư duy nạn nhân xoay chuyển tâm thức để vượt qua biến cố? Các nhà tâm lý và xã hội học cho rằng đó là nội lực và niềm hy vọng. Hy vọng là một trạng thái tâm lý, cảm xúc mạnh mẽ đi kèm niềm tin rằng hoàn cảnh của mình sẽ tốt hơn, thiết lập ngay các kế hoạch thiết thực và bắt tay hành động. Hy vọng khác với ảo vọng - những ao ước không có thật như "trời cho", hay hư vọng - tin tưởng những điều xác suất xảy ra rất thấp như "trúng số độc đắc". Hy vọng có những mục tiêu thực tế, rõ ràng, đồng thời có lộ trình để đạt mục tiêu. Nhưng hy vọng xuất phát từ trái tim chứ không phải trên đầu. Do đó, ta không thể dùng lý trí để bảo một người "hãy hy vọng" mà phải giúp họ có động lực từ bên trong. Lễ Giáng sinh vừa qua, Takara - con trai tôi - về thăm nhà nên tôi ưu tiên thời gian với con trước khi cậu trở lại trường. Một trong những chủ đề thảo luận là nội lực. Động lực để con người hành động có hai loại: Ngoại lực từ những yếu tố bên ngoài và nội lực từ bên trong chính cá nhân ấy. Ngoại lực có hai hình thức; tiêu cực như phạt, mắng, đánh, đe dọa, kỷ luật, trừ lương và tích cực như thưởng, quà, tuyên dương, tăng lương, thăng chức. Nội lực cũng có hai khía cạnh, từ cảm xúc tiêu cực như sợ hãi, lo lắng hay cảm xúc tích cực là hy vọng. Chúng ta thường tạo động lực cho con hay nhân viên từ các phương án ngoại lực cả tích cực lẫn tiêu cực. "Thi đậu sẽ được chuyến du lịch", "nếu điểm kém đừng có hòng xin tiền bố mẹ", nhân viên đạt chỉ tiêu sẽ được một tháng lương thưởng Tết, không đạt sẽ bị giảm thưởng 50%... Takara nói rằng nhờ ba rèn luyện nội lực từ thời trung học mà con có thể vượt qua thử thách ở đại học. Thử thách ở Stanford thật sự rất lớn. Takara có bằng kỹ sư cơ khí về Robotics, nhưng lại quyết định học thạc sĩ về Trí tuệ nhân tạo ở một chương trình rất khó khi không có kiến thức bài bản về công nghệ. Có những lúc, cậu bảo gần như kiệt sức. Lúc khó khăn nhất, tôi hỏi: "Con hãy suy nghĩ lại, tại sao, điều gì và lý do gì mà con quyết định học AI ở Stanford dù biết rằng nó rất khó?", "Con còn nhớ lúc đạp xe một lèo từ chân đèo Hải Vân lên đến đỉnh mà không dừng nghỉ, trong đầu con nghĩ gì?" để giúp cậu tìm lại động lực. Và rồi con cũng vượt qua và đang hoàn tất chương trình. Takara nói, nội lực mới là thứ mà mọi người cần phát triển chứ không phải lệ thuộc vào ngoại lực, vì ngoại lực không phải lúc nào cũng sẵn có. Vậy, làm sao để phát triển nội lực? Tôi trầm ngâm một chút rồi trả lời, người muốn phát triển nội lực phải có khả năng "tự nhủ" - ta nói với ta - một cách có ý thức và tích cực. Con người ai cũng có khả năng "tự nhủ" và thường là tiêu cực. Khi thất bại thì tự bảo "mày đúng là không làm gì nên thân", nhìn gương thì bảo "sao tôi mập quá vậy nè", hay "mày xấu xí thế nên không ai thương cũng phải". Những lời lẽ này thường do nhận định của người thân nói khi họ còn trẻ, nó hình thành khung tư duy trong trong ý thức hay tiềm thức của từng người. Để phát triển nội lực, một người phải có khả năng thay thế các "tự nhủ" tiêu cực bằng tích cực, như "Thất bại là cơ hội để học, mình sẽ làm tốt hơn lần sau". Vậy, bạn có bao giờ mất đi niềm hy vọng? Bạn có để ý mình thường nghĩ gì về chính bản thân? Chúc bạn một năm mới đầy nội lực!

KHI KẺ ĐỘC TÀI FRANCO ( TÂY BAN NHA) KHÉT TIẾNG NÓI VỀ CỘNG SẢN VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

      Chống Cộng nổi tiếng, nhưng nhà độc tài Franco lại cho tổng thổng Johnson những khuyến nghị đáng kinh ngạc về Cộng sản và về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 1965, 3 tuần sau khi Johnson đề nghị Tây Ban Nha góp sức tại Việt Nam, Franco phúc đáp:

"Thoạt nhìn thì tình hình Việt Nam là quân sự, nhưng theo tôi thực chất tận cùng vấn đề lại là chính trị, hàm chứa vận mệnh của các quốc gia mới (giành độc lập). Thật không dễ để phương Tây nhận ra gốc rễ của vấn đề. Cuộc đấu tranh giành độc lập của họ khởi phát từ tinh thần dân tộc. Tình trạng nghèo khổ và chẳng còn mấy để mất đã đẩy họ về phía Cộng sản với nhiều cơ hội và hy vọng, hơn là kiểu hệ thống tự do được phương Tây bảo trợ vốn gợi lại cho họ giai đoạn bị thực dân sỉ nhục. Các quốc gia này có xu hướng ngả về Cộng sản, bên cạnh sức quyến rũ của nó, còn bởi vì đó là con đường hữu hiệu duy nhất mở ra cho họ. Việc Nga Trung hỗ trợ đối với họ là cơ hội và lợi ích...

Hãy cùng biện luận tiếp, nếu mọi việc được giải quyết, thì các bên về cơ bản lại có (lẽ) cùng chung một ước muốn: Hoa Kỳ muốn Trung Quốc không xâm lược Đông Nam Á và càng cách xa biên giới của mình càng tốt; Nga không muốn đối thủ tương lai là Trung Quốc bành trướng và lớn mạnh; còn Hồ Chí Minh thì muốn Việt Nam thống nhất hùng mạnh để không bị Trung Quốc nuốt chửng.

Tôi không quen biết Hồ Chí Minh, nhưng nhìn vào hồ sơ và nỗ lực của ông ấy trong việc đánh đuổi Nhật đầu tiên, Tàu (Tưởng) thứ hai, và tiếp đến là Pháp, chúng ta phải công nhận rằng ông ấy là một người yêu nước, không chịu khoanh tay khi đất nước mình bị giày xéo. Bên cạnh danh tiếng lừng lẫy là một đối thủ khó nhằn, không nghi ngờ gì nữa, ông ấy có thể chính là người đã xuất hiện đúng lúc Việt Nam cần."

Trong thư dài, dù không nói thẳng tuột, nhưng Franco phân tích rành rọt và ngụ ý rõ ràng: chỗ bạn bè tôi nói thật, nếu cố chấp, ông sẽ là thứ tư nối gót Pháp đó./.

Yêu nước ST.

CHÀO 2022!




Đào, mai, cam, quất, bưởi, bòng.

Đã ngồi lên chậu rời đồng đón xuân.

Năm qua kinh tế dậm chân.

Tại con Covid mười phần gây ra.


2021 chào nha.

Một năm dịch bệnh làm ta khổ nhiều.

Thu nhập chẳng có bao nhiêu.

Trăm thứ đều phải chi tiêu dè chừng.


Tín hiệu dịch bệnh chưa dừng.

Năm mới đến, thấy ít mừng nhiều lo

Truyền thông nhà nước vẫn loa.

Nâng cao cảnh giác tránh cho dịch bùng.


Xu hướng chấp nhận sống chung.

Chớ nên kỳ thị, lạnh lùng đâm sai.

Chào đón 2022.

Mong là Covid nay mai không còn.


CHÀO 2022! 


Đào, mai, cam, quất, bưởi, bòng.

Đã ngồi lên chậu rời đồng đón xuân.

Năm qua kinh tế dậm chân.

Tại con Covid mười phần gây ra.


2021 chào nha.

Một năm dịch bệnh làm ta khổ nhiều.

Thu nhập chẳng có bao nhiêu.

Trăm thứ đều phải chi tiêu dè chừng.


Tín hiệu dịch bệnh chưa dừng.

Năm mới đến, thấy ít mừng nhiều lo

Truyền thông nhà nước vẫn loa.

Nâng cao cảnh giác tránh cho dịch bùng.


Xu hướng chấp nhận sống chung.

Chớ nên kỳ thị, lạnh lùng đâm sai.

Chào đón 2022.

Mong là Covid nay mai không còn.

CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI CHIẾN SĨ CUỐI CÙNG CỦA ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN KHÓC NGHẸN KHI KHÔNG THỂ ĐẾN VIẾNG ĐẠI TƯỚNG!

      Nhắc đến cụ Tô Đình Cắm (còn có bí danh là Tô Tiến Lực), sinh ngày 16-10-1922 tại bản Um, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Chàng trai người dân tộc Tày này là một trong 34 đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo ngày 22-12-1944. Cụ Tô Đình Cắm từng trải qua những ngày tháng oai hùng nhưng cũng không kém phần lận đận.

Năm 1942, anh Văn (bí danh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), về Tam Kim hoạt động, ông Cắm được gặp anh Văn và được giác ngộ cách mạng. Buổi chiều ngày 22/12/1944, ông Tô Văn Cắm (bí danh Tô Tiến Lực), vinh dự là 1 trong 34 chiến sĩ được đứng tuyên thệ dưới lá cờ tổ quốc trong khu rừng Trần Hưng Đạo trong buổi lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.

Vào buổi chiều lịch sử ngày 22.12.1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, quê hương Cách mạng Cao Bằng, Tô Đình Cắm và 33 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã cùng anh Văn (cách gọi thân thiết của cụ Cắm về Đại tướng Võ Nguyên Giáp) tuyên thề. Vài ngày sau đó, tuy còn non trẻ nhưng đội quân Việt Minh đã giành chiến thắng vang dội trong trận đánh ở Phay Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu. Cũng trong thời gian này, cụ Tô Đình Cắm vinh dự được chọn là người dịch, viết ra tiếng Tày cho tờ báo “Tiếng Súng Reo” - tờ báo tiền thân của lực lượng vũ trang được viết bằng tiếng phổ thông. Sau đó, Tô Đình Cắm về công tác ở huyện Nguyên Bình và Ngân Sơn đến tháng 1 năm 1945 thì được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 8 năm 1945, Tô Đình Cắm là một trong những lớp người tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Bắc Cạn. Một tháng ông theo đoàn quân Nam tiến vào tận Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang đánh Tây. Tháng 6 năm 1946, trong một trận đánh, cụ Tô Đình Cắm bị thương ở chân, sau khi điều trị vết thương, ông được chuyển ra Quảng Nam rồi trở về Cao Bằng. Tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, Tô Đình Cắm lại xung phong tái ngũ và được bổ nhiệm làm Trung đội trưởng Trung đội Pháo binh. Năm 1950, trong trận đánh tại Đông Khê của chiến dịch Biên giới, cụ Cắm không may bị thương ở vai.

Năm 1951, Tô Đình Cắm kết hôn với bà Đồng Thị Hiển (SN 1926), cũng người dân tộc Tày và sinh được bảy người con. Năm 1954, hòa bình lập lại trên miền bắc, Tô Đình Cắm giải ngũ về quê. Trong thời gian này, ông tích cực công tác xã hội tại địa phương đảm nhiệm làm thôn trưởng, đội trưởng hợp tác xã, luôn hoàn thành tốt các trọng trách được giao và được mọi người tín trọng.

Năm 1992, dù đã 70 tuổi, nhưng do cuộc sống quá khó khăn, thiếu đất sản xuất nên người chiến sỹ Tô Đình Cắm cùng vợ con rời Cao Bằng vào Đạ Tẻh (Lâm Đồng) lập nghiệp, trồng lúa để sinh sống. Con đông nên cuộc sống ở quê mới cũng không dễ dàng gì. Ông ở trong căn nhà cấp 4 cũ kỹ suốt mấy chục năm.

Năm 2000, khi vào thăm các cơ quan quân sự phía Nam, nghe tin ông Cắm đang sống tại vùng quê nghèo ở Lâm Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngỏ ý muốn gặp. “Chúng tôi lập tức mời cụ Cắm xuống TPHCM. Cuộc hội ngộ sau hơn nửa thế kỷ của vị tổng chỉ huy và người lính trẻ năm xưa thật xúc động” - một cán bộ Quân khu 7 nói.

“Anh Văn ôm chiến sỹ Cắm thật chặt và hỏi bằng tiếng Tày: Tiến Lực à, lâu rồi không gặp, cậu già hơn mình rồi đấy. Sau khi xuất ngũ cậu làm gì? Cuộc sống bây giờ thế nào? Sao không đưa vợ đi cùng? Rồi Đại tướng tặng cho cụ Cắm chiếc áo khoác và chiếc áo khoác màu xám trắng được cụ gìn giữ như báu vật.

 Cụ cảm động không kìm được nước mắt bởi hơn nửa thế kỷ trôi qua mà anh Văn vẫn nhớ tới mình, nhờ người tìm cụ ở tận vùng quê nghèo xa xôi cách trở này. Anh Văn vẫn nói sõi tiếng của dân tộc Tày và nhớ cả bí danh của mình”, cụ Cắm từng kể.

Cụ bảo, nhờ có tướng Giáp mà cơ quan chức năng tin tưởng làm hồ sơ cấp thẻ thương binh, dù cụ đã làm mất giấy chứng thương. Cụ Cắm được trao thẻ thương binh vào năm 2013 khi đã 91 tuổi và sau 67 năm bị thương. Cũng trong năm đó, phía quân đội phối hợp với huyện Đạ Tẻh và tỉnh Lâm Đồng xây nhà tình nghĩa rộng 120m2 cho cụ.

Kết thúc chiến tranh, trong 34 chiến sĩ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng đội có người đã hi sinh, có người may mắn tiếp tục đảm nhiệm nhiệm vụ nhà binh và được lên cấp tướng. Riêng cụ Tô Đình Cắm lại trở về cuộc sống của một nông dân gắn bó với cái cuốc, cái cày, không một quân hàm, chức tước. Gần bảy thập kỷ sau hai lần bị thương trong hai trận đánh tại trận địa Rạch Giá và mặt trận Đông Khê trôi qua, cụ Tô Đình Cắm vẫn sống trong căn nhà cấp 4 đã cũ kỹ, mãi đến ngày 27-7 người cựu binh mới được công nhận là thương binh khi bước vào tuổi 91 và được xây tặng căn nhà tình nghĩa.

Trong số 34 chiến sĩ tuyên thệ dưới cờ Tổ quốc thành lập đội VNTTGPQ, có lẽ Tô Đình Cắm có ân tình sâu nặng với vị chỉ huy của mình hơn cả.

Về câu chuyện trong những ngày diễn ra Quốc tang của Đại tướng, khi biết tin Đại tướng qua đời, cụ Cắm đã rất đau buồn. Cụ đã lập bàn thờ ngay tại nhà riêng ở thôn 8B, thị trấn Đạ Tẻh, huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

Cụ Tô Văn Cắm đã nằng nặc đòi con, cháu đưa cụ ra Hà Nội bởi tâm nguyện cuối cùng là được ra Hà Nội để được gặp và tiễn biệt người “Anh Cả” vô cùng kính yêu của mình lần cuối.

Khi biết kết quả khám sức khoẻ cho thấy không thể đi xa bằng ô tô hay máy bay, cụ Tô Văn Cắm đã khóc ngất vì không thực hiện được tâm nguyện ra Hà Nội tiễn biệt người "Anh Cả".

Sáng 9/10/2013,Thượng tá Hoàng Đình Tuấn, Chính trị viên Ban chỉ huy Quân sự huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng, thể hiện sự luyến tiếc khi không thể thực hiện tâm nguyện của cụ Tô Văn Cắm (91 tuổi, người chiến sĩ duy nhất còn sống của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân) ra Hà Nội viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, do điều kiện sức khỏe của cụ khi đó quá yếu.

Thượng tá Hoàng Đình Tuấn cho biết chiều 8/10/2013, theo tâm nguyện của cụ Cắm, và theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân Khu 7, lãnh đạo Ban chỉ huy Quân sự huyện Đạ Tẻh đã đến nhà và đón cụ Tô Văn Cắm đi khám và kiểm tra sức khoẻ. Nếu sức khoẻ của cụ đảm bảo đi được sẽ đón cụ đi máy bay ra Hà Nội viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Tuy nhiên, sau khi kiểm tra sức khoẻ, các bác sĩ tại Trung tâm y tế huyện Đạ Tẻh đã khuyến cáo rằng cụ không thể đi được máy bay hoặc đi xa bằng ô tô, bởi sức khoẻ của cụ hiện đang rất kém, nếu đi xa sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Theo người nhà cụ Tô Văn Cắm, người lính già đã khóc ngất và rất đau buồn khi biết mình không thể ra Hà Nội để tiễn biệt người “Anh Cả” kính yêu của mình khiến con cháu cụ hết sức lo lắng.

“Trong ngày tổ chức Quốc tang, quân khu 7 đã cử người đến đón cụ tới đơn vị để làm lễ viếng hương hồn Đại tướng”.

Ngày 14/7/2017 cụ Tô Đình Cắm, người cuối cùng trong 34 chiến sỹ đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ) qua đời. Đám tang của cụ diễn ra bình dị theo tập tục của người Tày nhưng cũng không kém phần trang trọng./.

Môi Trường ST.

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Tin Covid trưa 31-12: Quảng Nam thêm 14 F0 mang biến chủng Omicron; gần 151 triệu liều vắc xin phòng Covid-19 đã được tiêm

 

Tính đến nay, nhiều địa phương trên cả nước có số ca mắc mới tăng cao. Đáng chú ý sáng nay, tỉnh Quảng Nam ghi nhận 14 ca SARS-CoV-2 nhiễm siêu biến chủng Omicron.

SAI LẦM TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO ĐÃ ĐẨY UKRAINA XUỐNG BỜ VỰC THẲM!

     Dưới gầm trời này, không chỉ Ukraine là quốc gia mà lịch sử bắt họ phải nằm cạnh một nước lớn. Nhiều nước trên thế giới cũng phải tự sinh tồn trong điều kiện sống gần những gã hàng xóm khổng lồ. Nước nhỏ hơn, nếu không biết cách chung sống hòa bình thì sơm muộn đều phải nhận trái đắng. Từ cổ chí kim, nhiều quốc gia nhỏ bé nhưng biết lựa chọn cho mình con đường trung dung, hài hòa với các nước lớn thì dân tộc đó tồn tại và ngược lại. Nhiều quốc gia đã bị xóa sổ vĩnh viễn trên bản đồ thế giới, kể từ khi xã hội bắt đầu phân chia giai cấp. Vấn đề Ukraine hiện nay là ví dụ điển hình cho những nước đi sai lầm, khó cứu vãn của các nhà lãnh đạo Ukraine. Họ lựa chọn Mỹ và châu Âu và đưa đất nước vào thế đối đầu với Nga - quốc gia hùng cường!

Cả Nga và Ukraina đều là những đất nước có ơn với Việt Nam ta, trước đây là anh em một nhà, trong đại gia đình Liên Xô vĩ đại. Ukraine được coi là một nước hùng mạnh ở châu Âu, quốc gia này đã từng có diện tích đất lớn thứ hai ở châu Âu, với ngành nông nghiệp khá phát triển và giá trị sản lượng chiếm 20% GDP trong nước. Với điều kiện tự nhiên tuyệt vời và một vị trí địa lý độc đáo nên Ukraine thường xuyên bị quấy nhiễu và đã trở thành chiến trường từ thời cổ đại do xung đột lợi ích.

Đến thời kỳ Liên Xô cũ, Ukraine là một thành viên chủ chốt của Liên bang Xô Viết, thừa hưởng nhiều di sản của Liên Xô cũ và đã có một vị trí nhất định ở châu Âu. Nhưng cùng với việc xa rời Nga và xây dựng đường lối thân Mỹ, chiến lược của Ukraine có thể coi là sai lầm nối tiếp sai lầm và đã rơi vào tình trạng nội chiến liên miên. 

Ukraine đã thực sự không nhận ra đạo lý "bán anh em xa mua láng giềng gần" và ngày càng nhích lại gần hơn với Mỹ, điều này cuối cùng đã dẫn đến cuộc khủng hoảng Crimea. Đến nay, Chính phủ Ukraine vẫn chưa có lại được vị trí ở Đông Âu. Nền kinh tế trong nước thì suy sụp, sức mạnh quân sự suy yếu nghiêm trọng và thậm chí vấn đề an ninh lương thực cũng chưa được giải quyết. Nguyên nhân của tất cả điều này là do đường lối thân Mỹ của Ukraine và bị Nga “chèn ép”, bao vây. Nhưng liệu Mỹ có giúp đỡ Ukraine thoát khỏi khốn cảnh này?

Hiện nay Crimea đã thuộc về Nga và hai vùng lãnh thổ của Ukraine là Donetsk và Lugansk đã tự tuyên bố thành lập Cộng hòa nhân dân Lugansk (LPR) và Cộng hòa nhân dân Donetsk (DPR). Điều đáng nói, cả hai vùng tự trị này đa số là người gốc Nga và họ đã được cấp quốc tịch Nga. Chiến lược thân Mỹ của Ukraine dường như không được Washington coi trọng, và việc xin gia nhập NATO của Ukraine cũng bị Mỹ “lạnh lùng” phủ quyết. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cho rằng, Ukraine đang đứng trước "cánh cửa để ngỏ” gia nhập NATO nhưng việc mở rộng liên minh này có thể làm tăng rủi ro Mỹ bị kéo vào một cuộc chiến tranh với Nga và châm ngòi cho cuộc xung đột lớn giữa NATO và Nga. Việc Mỹ không hỗ trợ Ukraine trong hoạt động chống lại lực lượng nổi dậy ở đông Ukraine cũng bị truyền thông các nước chỉ trích.

Giới phân tích cho rằng, đây là điều dễ hiểu, bởi vì Mỹ theo đuổi chủ nghĩa đơn phương và luôn đặt lợi ích của mình lên hàng đầu, viện trợ cho Ukraine trong thời gian này sẽ chỉ mang lại nguy hiểm cho Quân đội Mỹ. Không ngoa ngôn nhưng rõ ràng nước Nga với tiềm lực quân sự và lợi thế về tài nguyên, khoáng sản của mình, sẽ là nơi bất khả xâm lược. Nato chẳng đoàn kết để vì một Ukraina què quặt mà đắc tội với Nga. Châu Âu đang phụ thuộc quá nhiều vào lượng nhiên liệu, chất đốt của Nga. Hãy nhìn người Đức khốn khó thế nào khi mùa đông đến để biết rằng, người châu Âu cần Nga như thế nào. Ngoài mặt họ ủng hộ Ukraina nhưng rõ ràng là Nato sẽ không dám động binh để giải cứu Ukraina, vì các thành viên Nato thừa hiểu sức mạnh quân sự của Nga. 

Phía Ukraine cũng lên án sự “lạnh lùng” của Quân đội Mỹ vào thời điểm quan trọng. Chính phủ Ukraine rất không hài lòng với cách tiếp cận của Quân đội Mỹ, Ukraine cáo buộc Mỹ đã “thất hứa” khi không cung cấp bất kỳ sự hỗ trợ nào cho Ukraine như đã từng hứa hẹn. Phải thôi, người Mỹ đứng ngoài kích động, mục đích là muốn Nga phải lao tâm khổ tứ ở Ukraina, để họ đắc lợi ở trung đông và nhiều điểm nóng khác trên thế giới. Chẳng đời nào họ mang quân đội sang giúp Ukraina đánh Nga. Mặc cho Ukrana kêu gào nhưng tất cả đều án binh bất động. Tại thời điểm khó khăn như hiện nay, Ukraine lại chưa nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào từ Mỹ, ngoài việc lên án bằng lời nói, thì Ukraine có lẽ cũng không còn biện pháp nào để “đe dọa” Mỹ và điều này cũng tiếp tục chứng minh sự sai lầm trong chính sách thân Mỹ của Ukraine.

Bàn cờ thế giới nhìn có vẻ bao la nhưng thực chất là cuộc chơi của các nước lớn, Ukraina sai lầm trong quan hệ với các nước lớn, tự chui đầu vào cái bẫy mà người Nga, Mỹ, Nato giăng ra. Lãnh thổ, lãnh hải mất, đất nước nội loạn, bất ổn liên miên. Nói thế để hiểu rằng cha ông và Đảng ta đã khôn khéo như thế nào. Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính; trên tinh thần tranh thủ sức mạnh của thời đại để phát triển đất nước. Sẵn sàng làm bạn với các nước trên thế giới, miễm là tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi. Một nước nhỏ mà tự mình chọn cách đối đầu với nước hàng xóm khổng lồ thì chẳng khác nào tự minh giết mình; tạo cớ cho nước lớn xâm chiếm. Lịch sử thế giới đã chứng minh, một khi chiến tranh xảy ra thì chiến trường luôn nằm trên lãnh thổ các nước nhỏ, ngọc đá đều tan. Petro Oleksiyovych Poroshenko là một diễn viên hài nổi tiếng ở Ukraina nhưng làm chính trị thì khác xa với diễn hài. Mỗi một sai lầm trên bàn cờ chính trị sẽ phải trả giá bằng máu và nước mắt và Ukraina đã chọn cho mình nước đi tối nhất./.


Yêu nước ST.

CHA ÔNG TA ĐÁNH GIẶC: ANH HÙNG DƯƠNG QUẢNG CHÂU!

   Anh hùng Dương Quảng Châu cùng một đồng đội bị sốt rét, phải ở lại trông chừng đồ đạc, tài liệu để đơn vị tiếp tục di chuyển.

Chợt nghe tiếng lạo xạo phía ngoài, hai người vào vị trí chiến đấu, quan sát thấy từ xa, hơn hai mươi lính Ngụy đang di chuyển về phía mình. Nếu chiến đấu trực tiếp, khả năng giành thắng lợi rất thấp mà lại không đảm bảo an toàn cho tài liệu.

Dương Quảng Châu mưu trí sử dụng kế nghi binh lừa bắt địch. Quan sát địch đang tập trung ở cửa khe, anh nấp sau gốc cây hô to: "Đứng im, giơ tay lên!", sau đó gương súng tiến về phía địch, rồi hô tiếp: "Đại đội bao vây chặt, bọn kia hạ súng xuống!". 22 tên lính đứng im như tượng, mặt tái mét, ngoan ngoãn đặt súng xuống đất vì cứ ngỡ đang bị cả trăm lính của ta bao vây.

Dương Quảng Châu tiếp tục hô: "Cử một người ra thu vũ khí". Hiểu ý, đồng đội nhanh chóng tiến ra thu gọn súng đạn, bó thành bó đem cất vào trong khe. Đồng chí còn tự mình trèo lên ngọn cây, rút khăn đánh tín hiệu, làm như ra lệnh cho đại đội tiến vào. Anh bình tĩnh cùng đồng đội thay nhau giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ cho tù binh nghe, chờ đơn vị trở về.

Sáng hôm sau, đồng chí Châu cùng đồng đội áp giải 22 tù binh về Sở chỉ huy. Trên đường trở về họ lại chạm trán 11 tên lính Ngụy đang tiến vào rừng sục sạo. Anh ra hiệu mọi người lùi lại, còn mình cùng một đồng chí bí mật tiếp cận, bất ngờ dùng báng súng nhằm thẳng tên chỉ huy quật ngã.


Lính địch sợ hãi, vứt súng xuống đất, nhất loạt giơ tay. Thế là đoàn tù binh từ 22 đã trở thành 33 tên, không hề mất một viên đạn, đồng chí Dương quảng Châu đã bắt sống hơn ba mươi tên địch như thế đó./.

Ảnh: Anh hùng trinh sát Dương Quảng Châu & Bộ đội ta chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Môi Trường ST.

Tư duy chiến lược trong bảo vệ biển, đảo và phát triển kinh tế biển

Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn dành sự quan tâm đến chủ quyền biển, đảo với những tư duy chiến lược toàn diện, sâu sắc đối với công cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo và phát triển bền vững kinh tế biển. Tư duy chiến lược về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đại tướng được thể hiện ở sự quan tâm xây dựng và phát triển lực lượng hải quân. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, đặc biệt là nguy cơ thực dân Pháp xâm lược nước ta một lần nữa, trước tình hình ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tham mưu với Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có lực lượng hải quân. Ngày 8-3-1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký Nghị định số 604/QĐ, thành lập Ban Nghiên cứu Thủy quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu, có nhiệm vụ nghiên cứu những phương án xây dựng và chiến đấu của lực lượng thủy quân. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội, Đại tướng rất quan tâm đến việc bảo vệ biên giới, chủ quyền biển, đảo, Đại tướng khẳng định: “Việc xây dựng lực lượng hải quân phải gắn liền với việc xây dựng lực lượng vũ trang rộng rãi ven biển, ven sông; sự phát triển của hải quân có quan hệ chặt chẽ với các địa phương ven biển và các ngành kinh tế trên biển. Các lực lượng vũ trang địa phương ven biển, ven sông rất quan trọng. Cần chú ý xây dựng và bồi dưỡng để các lực lượng ấy trở thành rộng khắp, mạnh mẽ, phối hợp đắc lực với hải quân để bảo vệ sông biển”. Đại tướng nhìn thấy việc xây dựng lực lượng hải quân không thể tách rời quá trình xây dựng kinh tế của đất nước, Đại tướng cho rằng: Công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác lớn mạnh thì ngành đóng tàu, ngành hàng hải, ngành vận tải trên sông, ngành đánh cá nhất định sẽ phát triển nhanh chóng. Chúng ta càng có điều kiện tốt về cơ sở vật chất và kỹ thuật để phát triển lực lượng hải quân. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hải quân gắn liền với tiềm lực kinh tế quốc phòng của nước nhà. Trong cuốn "Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng", Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã dành riêng một chương giải phóng Trường Sa để hồi tưởng sự kiện này. Đại tướng đã kiến nghị với Bộ Chính trị: Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo trên Biển Đông do quân đội Việt Nam cộng hòa đang chiếm giữ. Kiến nghị này đã được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25-3-1975. Ngay sau khi quần đảo Trường Sa được giải phóng, Đại tướng luôn trăn trở việc mở đường ra biển theo phương pháp kết hợp biện chứng giữa quốc phòng với kinh tế và kinh tế với quốc phòng trên biển. Đại tướng đã kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Quốc hội sớm thành lập đơn vị hành chính ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để đấu tranh bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế biển. Trên cơ sở đề nghị mang tầm tư duy chiến lược của Đại tướng, ngày 9-12-1982, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 193-HĐBT và Quyết định số 194-HĐBT về việc thành lập hai huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên cương vị Phó thủ tướng Chính phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề xuất một chiến lược về khoa học biển và kinh tế miền biển: Muốn phát triển kinh tế vùng biển thì phải từ đất liền mà phát triển ra, dựa vào vùng ven biển ở đất liền mà phát triển. Mặt khác, Đại tướng sớm đã có quan điểm đưa dân ra làm kinh tế biển trên các đảo và hải đảo xa bờ, vừa cải thiện được đời sống của dân, vừa có lực lượng để giữ vững chủ quyền biển, đảo. Những thập niên cuối của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, Đại tướng đã rất quan tâm đến xây dựng lực lượng thực thi pháp luật trên biển, nhất là việc thành lập và phát triển lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Đại tướng đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước phải nhanh chóng xây dựng lực lượng Cảnh sát biển với quan điểm Cảnh sát biển là lực lượng vũ trang, nhưng là lực lượng chuyên trách để thực thi pháp luật trên biển. Hiện nay Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đặc biệt quan tâm, đầu tư xây dựng lực lượng Cảnh sát biển, hải quân phát triển ngang tầm với nhiệm vụ, trở thành một trong những lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về với thế giới người hiền, nhưng tư duy chiến lược đối với công cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc luôn là tài sản quý giá, đồng hành với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển kinh tế biển.

Dự báo sớm, nhận diện đúng Trước những chiêu trò ngày càng tinh vi của các lực lượng thù địch hòng tạo dựng dư luận tiêu cực và hình thành điểm nóng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền, nhất là ngành tuyên giáo Thủ đô phải dự báo sớm, nhận diện đúng và có phương pháp đấu tranh hợp lý.

Thực tế cho thấy, không ít trường hợp từ những điểm nóng nhỏ lẻ có nguyên nhân là các vấn đề dân sinh, lại bị các lực lượng thù địch lợi dụng, thúc đẩy các mâu thuẫn nội tại, gây bức xúc trong dân chúng và tạo điểm nóng trên thực địa, hoặc trên mạng xã hội. Trong khi đội ngũ cán bộ không hiểu được dân, không nắm chắc dân càng tạo điều kiện để các thế lực thù địch hiện thực âm mưu đó một cách dễ dàng. Ví như, sự vụ ở xã Đồng Tâm (Mỹ Đức) có nguyên nhân từ việc cán bộ cơ sở không hiểu dân; không nắm chắc và chưa phân tích đúng tình hình, do đó lúng túng trong xử lý. Nghị quyết Đại hội lần thứ XVII Đảng bộ TP Hà Nội (nhiệm kỳ 2020-2025) thẳng thắn đánh giá: Công tác nắm bắt, dự báo tình hình, tham mưu với cấp ủy, chính quyền trong giải quyết một số vụ việc phát sinh, giải quyết điểm nóng... còn hạn chế. Nghị quyết xác định mục tiêu: Không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm hiệu quả; bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của Trung ương và thành phố, các sự kiện quốc gia, quốc tế. Một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu đó là phải bám dân, hiểu dân, dựa vào dân. Giải pháp này thực chất là một bài học thực tiễn quý báu, có tính kế thừa, kế tiếp qua các nhiệm kỳ. Theo thông tin từ đội ngũ làm công tác tuyên giáo, nhiều năm qua, trong quá trình tiến hành công tác dự báo và nắm bắt thông tin, cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm đến cả những vấn đề thông tin nhỏ nhất từ quần chúng. Vì quần chúng có trăm nghìn “tai mắt” nên kẻ thù dẫu có tinh vi cũng khó lòng “cất giấu” mọi thủ đoạn, manh mối. Mặt khác, nếu kẻ thù có lợi dụng, mua chuộc quần chúng thì cũng bắt đầu từ những con người cụ thể. Do đó, để kiếm tìm, nhận rõ các nguy cơ, dấu hiệu nảy sinh dư luận tiêu cực, hình thành điểm nóng, Ban Tuyên giáo Thành ủy và ngành tuyên giáo định kỳ tổ chức các cuộc điều tra dư luận xã hội. Định kỳ hoặc đột xuất, ngành tuyên giáo tiến hành tổng hợp phản ánh tình hình xã hội theo phân cấp, trên cơ sở thu thập, phân tích, tổng hợp từ nhiều nguồn: Phản ánh của nhân dân, dư luận từ cơ sở, hội nghị, hội họp và báo chí... Hà Nội cũng sớm có chủ trương tạo mọi điều kiện, cơ chế để các cơ quan chức năng trong hệ thống chính trị tăng cường phối hợp, phát huy sức mạnh tham gia vào việc tổng hợp, phân tích tình hình nhân dân chính xác, kịp thời. Hiện ở Hà Nội có rất nhiều cơ quan cùng thực hiện chức năng, nhiệm vụ nắm tình hình nhân dân, như: Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc, LLVT, cấp ủy các cấp, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, tổ chức đoàn thể, các trung tâm nghiên cứu và hệ thống học viện, nhà trường... Theo chức năng, nhiệm vụ và theo phân công, phân cấp, mỗi cơ quan, đơn vị nắm số liệu, tư liệu liên quan tình hình nhân dân ở từng địa bàn, từng lĩnh vực, khu vực. Trên cơ sở đó, tổng hợp, phân tích qua các kênh thông tin của cả hệ thống chính trị làm cơ sở để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền thành phố lãnh đạo, chỉ đạo đạt hiệu quả cao hơn. Một điểm nhấn khác trong công tác nắm bắt dư luận xã hội là Đảng bộ TP Hà Nội sớm có chủ trương, giải pháp, cơ chế, quy chế phát huy cao nhất vai trò của đội ngũ cộng tác viên; xây dựng các phương án, kịch bản công tác tuyên truyền đối với những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trên địa bàn để sẵn sàng đối phó, chuẩn bị các phương án truyền thông trước mọi tình huống và đấu tranh hiệu quả trên không gian mạng. Với các giải pháp căn cơ, đồng bộ như vậy, cùng kinh nghiệm đã có là tiền đề nền tảng để cấp ủy, chính quyền nắm chắc "trận địa lòng dân"; kịp thời phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các lực lượng thù địch. Minh chứng là qua các kênh nắm bắt tư tưởng, tâm lý xã hội thường xuyên, đã giúp Hà Nội phát hiện, khống chế được các làn sóng dư luận tiêu cực và tin đồn; đẩy lùi mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, khống chế, triệt phá từ sớm những điểm nóng trên địa bàn. Ví như ngay từ những tháng đầu của quý II-2018, cơ quan chức năng đã sớm nắm thông tin, phát hiện: Vào thời điểm Quốc hội khóa XIV bàn về Dự thảo Luật Đơn vị Hành chính-Kinh tế đặc biệt và Dự thảo Luật An ninh mạng, trên các trang mạng xuất hiện những bài viết kích động biểu tình, gây bạo loạn chính trị, hướng vào nhiều tầng lớp xã hội. Các bài viết trên có nhiều nội dung bịa đặt, phiến diện hoặc bóp méo sự thật, “biên tập” có chủ đích một số nội dung của dự thảo luật nhằm gây bức xúc trong cộng đồng. Nhờ nắm chắc thông tin dư luận xã hội, Đảng bộ TP Hà Nội đã chủ động, tập trung lãnh đạo ngăn chặn ngay từ đầu những mầm mống nảy sinh điểm nóng, khống chế, kiểm soát được tình hình; trong khi vào cùng thời điểm, không ít địa phương khác lại rơi vào thế bị động, để xảy ra tụ tập đám đông, gây rối, đập phá công sở và tấn công người thi hành công vụ.

LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN – GIÁ Trị LỊCH SỬ VÀ TẦM VÓC THỜI ĐẠI


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, thời gian hòa bình xây dựng của nhân dân ta chưa được bao lâu, thực dân Pháp được sự đồng lõa, tiếp tay của các nước đế quốc đồng minh, trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng đơn phương xóa bỏ mọi cam kết, không thi hành Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946, tăng cường các hoạt động quân sự, phá hoại nền hòa bình trên đất nước ta.

 Với truyền thống nhân nghĩa, nhân văn và khát vọng hòa bình cháy bỏng, dân tộc ta, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức thiện chí và nhân nhượng hết mức có thể, nhằm tránh một cuộc đổ máu cho dân tộc, dành thời gian, tâm sức cho kiến thiết đất nước, “nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Trong thời khắc Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh dân tộc đứng trước sự mất còn, đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là lời hịch non sông, tiếng vọng của lịch sử và là biểu tượng ngời sáng của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật khởi “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của nhân dân ta, dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.

Nhân dân ta vốn có truyền thống nồng nàn yêu nước, yêu hòa bình, hiểu rõ giá trị không gì sánh được của độc lập, tự do và cái giá phải trả để giành lấy tự do, độc lập. Vì thế, dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù hung bạo, nguyện “mang hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải”, “hy sinh đến giọt máu cuối cùng” để bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình như Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 đã khẳng định.

Hưởng ứng Lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Thủ đô cùng các địa phương trên cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Một lần nữa, khí phách và sức mạnh truyền thống toàn dân đánh giặc lại bùng lên mạnh mẽ ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Đó cũng là cơ sở để quân và dân ta thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tạo tiền đề thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Toàn quốc kháng chiến - cuộc tổng giao chiến đầu tiên thắng lợi thể hiện đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh tài tình, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiêu biểu là nghệ thuật huy động lực lượng, phát huy sức mạnh toàn dân đánh giặc của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Bảy lăm năm đã trôi qua, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và sự kiện toàn quốc kháng chiến luôn vẫn in đậm trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam - một mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Sự kiện đáng tự hào đó không chỉ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, mà còn mang tầm vóc thời đại, để lại nhiều bài học quý cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Thời gian tới, tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến chuyển nhanh, phức tạp và tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định rất khó dự báo. Đại dịch Covid-19 tiếp tục kéo dài, với nhiều biến thể mới, tác động tiêu cực tới nền kinh tế và đời sống xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với nước ta, cùng với khó khăn, thách thức do tác động của Đại dịch, các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các nhân tố gây mất ổn định ở Biển Đông tiếp tục gia tăng, diễn biến phức tạp và không loại trừ có biến động mới. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta có sự phát triển mới, yêu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nhận thức rõ tình hình nhiệm vụ, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy cao độ quyết tâm chính trị, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trước mắt, tập trung thực hiện “mục tiêu kép”, đẩy lùi đại dịch Covid-19 và phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ; trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do vậy, chúng ta phải tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, ngang tầm nhiệm vụ. Cùng với đó, cần tiếp tục phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; tích cực, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Trước sự phát triển mới, yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả quan điểm: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Kỷ niệm 75 năm Ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2021) là dịp để chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của sự kiện lịch sử trọng đại này. Đặc biệt, những bài học được rút ra từ sự kiện đó, trong thời điểm lịch sử có tính bước ngoặt đối với vận mệnh của dân tộc còn nguyên giá trị. Nó đã, đang và sẽ tiếp tục được vận dụng cũng như thôi thúc, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thời kỳ mới.

 TK ST.

Ca nhiễm Covid tối 30-12: Cả nước thêm 17.000 F0; Hà Nội tiếp tục dẫn đầu cả nước về ca mắc mới

 

Ngày 30-12, cả nước ghi nhận 17.000 ca nhiễm mới tại 61 tỉnh, thành phố; 34.102 bệnh nhân được công bố khỏi bệnh; 240 ca tử vong do Covid-19. Đáng chú ý, hôm nay Hà Nội vẫn ghi nhận số ca mắc cao nhất cả nước với 1.866 ca.

Nhận diện một số chiêu bài lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá chính quyền

 Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam. Để thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng chiêu bài dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc, vu khống, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hòng làm mất ổn định chính trị – xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Dân tộc, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà là vấn đề cần quan tâm giải quyết của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, đối với một quốc gia đa dân tộc, tôn giáo theo mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa như Việt Nam thì các thế lực thù địch xác định là địa bàn trọng điểm để chống phá. Chúng tập trung vào một số phương thức hoạt động chủ yếu sau đây:

Một là, kết hợp chặt chẽ vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc để kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng ly khai, tư tưởng chống đối trong đồng bào có đạo và đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt chúng xác định tôn giáo như một “lực lượng chính trị” có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam, tích cực hậu thuẫn cả về vật chất lẫn tinh thần cho những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong một số cộng đồng tôn giáo ở Việt Nam nhằm phục vụ ý đồ sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hóa”, thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

Hai là, tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để tăng cường hoạt động can thiệp, chống phá.

Ba là, dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong cộng đồng tôn giáo người Việt ở hải ngoại tổ chức hoạt động chống phá Việt Nam.

Bốn là, hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá. Bọn phản động núp dưới danh nghĩa những nhà truyền đạo, như “mục sư”, “tình nguyện viên”,… để đi sâu vào nội bộ quần chúng các dân tộc thiểu số ở một số địa bàn như Tây Nguyên, Tây Bắc, nhằm dụ dỗ, xúi giục, kích động bà con bỏ lao động sản xuất để tham gia hoạt động biểu tình chống đối chính quyền.

Năm là, tích cực thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các tôn giáo (liên tôn); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phản động, cơ hội chính trị trong nước để tạo dựng ngọn cờ, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam 

Những phương thức hoạt động chống phá trên đây của các thế lực thù địch đều nhằm mục đích làm cho nhân dân ta “tự diễn biến”, hình thành các nhân tố, các lực lượng, khuynh hướng chống chủ nghĩa xã hội trong lòng xã hội ta, kích động gây mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dùng quần chúng để làm suy yếu hiệu lực của chính quyền.

Trong thời gian tới, các thế lực thù địch, phản động lưu vong, số cơ hội chính trị, phần tử xấu sẽ vẫn tiếp tục lợi dụng tôn giáo với nhiều hình thức, thủ đoạn mới để lôi kéo, tập hợp lực lượng, tiếp tục hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tiếp tục chỉ đạo từ bên ngoài, móc nối với những phần tử chống đối ở trong nước xây dựng cơ sở, tìm cách tái phục hồi và đẩy mạnh các hoạt động chống đối. Do vậy, nhìn chung tình hình mọi mặt về cơ bản là tiếp tục ổn định, song vẫn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, khó lường trước, cần hết sức quan tâm, cảnh giác, không thể xem thường.

Một số thủ đoạn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam hiện nay

 Nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” thông qua mọi âm mưu, thủ đoạn, các hoạt động khác nhau để lợi dụng vấn đề quyền con người và dân chủ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Về phương thức, mục tiêu, nền tảng tư tưởng của các thế lực thù địch trên lĩnh vực quyền con người.

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, trong suốt gần 30 năm qua, lợi dụng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường sử dụng vấn đề quyền con người (QCN) và dân chủ làm công cụ để đẩy mạnh chống phá chế độ chính trị - xã hội ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát như sau (1):

Về phương thức hoạt động: Lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao để hỗ trợ, hậu thuẫn.

Về mục tiêu hoạt động: Tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận các giá trị lý luận - thực tiễn về QCN để chống phá nền tảng tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của QCN ở Việt Nam. Tiến hành các hoạt động chống phá thực tiễn bảo đảm QCN trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, dân tộc, thông tin, truyền thông, giáo dục - đào tạo, văn hóa nghệ thuật, tư pháp,... kể cả hợp tác quốc tế, nhằm thúc đẩy sự chệch hướng XHCN của công cuộc đổi mới ở nước ta. Tuyên truyền, ca ngợi các giá trị của nhân quyền tư sản nhằm kích động, cổ vũ việc phân hóa, chuyển hóa tư tưởng chính trị XHCN, đồng thời thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản, trước tiên trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta.

Về nền tảng tư tưởng: Về mặt tư tưởng, là hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa (TBCN) thường được nhân danh “tư tưởng văn hóa phương Tây” hoặc “quan niệm của các quốc gia phát triển” với nội dung cơ bản là: quan niệm một cách phiến diện, có khi tuyệt đối hóa quyền cá nhân và các quyền dân sự, chính trị đến mức đồng nhất chúng với QCN nói chung; coi nhẹ quyền của tập thể, của dân tộc và chủ quyền quốc gia; coi nhẹ tính bình đẳng của các chủ thể quyền và các nội dung quyền, nhất là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, vốn chiếm vị trí cơ bản và là yêu cầu có tính bức thiết đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.

Về mặt chính trị, là biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc về văn hóa, coi tư tưởng nhân quyền phương Tây mang tính phổ quát toàn nhân loại, thậm chí cao hơn chủ quyền quốc gia.

Về những biểu hiện mới trong chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực quyền con người.

Thứ nhất, các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận các giá trị lý luận và thực tiễn về QCN ở nước ta.

Trong những năm qua, các lực lượng chuyên môn, chuyên trách và hệ thống chính trị nói chung đã chủ động, tích cực phát hiện, phê phán, phản bác, ngăn chặn, nhiều hành động, hành vi truyền bá tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, như ca ngợi chủ nghĩa đa nguyên, dân quyền tư sản; đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; đòi xây dựng nhà nước “tam quyền phân lập” theo mô hình phương Tây. Các lực lượng thù địch còn nhân danh “đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực”, “bảo vệ chủ quyền biển đảo”, “phản biện xã hội”, “hiến kế cho Đảng”,... mà thực chất là nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước, chia rẽ nội bộ, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; gây hoài nghi, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, không chỉ trong lĩnh vực QCN, ở Việt Nam.

Trong vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, bằng những thành tựu bảo vệ, bảo đảm QCN, quyền con người trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn ra sức đề cao dân chủ tư sản, xuyên tạc bản chất nền dân chủ XHCN và QCN ở nước ta. Chẳng hạn, chúng đưa ra những chiêu bài “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”, vấn đề “nhân quyền về bản chất không còn được coi là công việc thuộc nội bộ của một quốc gia”, để chống phá Việt Nam. Chúng tìm mọi cách chính thức hóa việc Việt Nam có “tù chính trị”, các “đảng chính trị”, “lực lượng đối lập”, để ngụy biện về cái gọi là sự tồn tại thể chế “đa nguyên, đa đảng”. Từ đó chứng minh việc xóa bỏ con đường phát triển theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, “đang diễn ra trong thực tế” ở Việt Nam.

Thứ hai, phòng chống các hoạt động kích động vấn đề dân tộc thiểu số và xuyên tạc Việt Nam có “hai chính sách tôn giáo”.

Về vấn đề dân tộc, chúng ta đã phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại hoạt động của các thế lực thù địch trong việc sử dụng các phương tiện điện thoại, fax để liên lạc, chỉ đạo hoạt động chống đối, gây rối, nhằm tăng cường kích động tư tưởng ly khai, tự trị, như “mỗi dân tộc là một nhà nước”, vấn đề dân tộc bản địa,...; thậm chí tổ chức bạo loạn tại một số vùng dân tộc thiểu số, như ở Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004, ở Mường Nhé (Lai Châu) năm 2011.

Về vấn đề tôn giáo, chúng ta đã phê phán, phản bác, ngăn chặn và xử lý công khai trước pháp luật nhiều hành động, hành vi của các thế lực thù địch rêu rao về cái gọi là “hai chính sách tôn giáo” (chính sách bảo vệ, bảo đảm trên hình thức và “chính sách” không bảo vệ, không bảo đảm trong thực tế) thông qua “cơ chế xin - cho” nhằm tạo lập các “tôn giáo quốc doanh”; phân biệt đối xử, sách nhiễu đối với đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Khơme Nam tông; về cách ly, đàn áp những “nhà hoạt động tôn giáo” bằng cách giam giữ, xử phạt, bỏ tù mà không qua xét xử; về kiểm soát chặt chẽ việc in ấn kinh sách, hạn chế đào tạo chức sắc, dòng tu, hội đoàn; về kiểm soát việc đi lại, phong bổ hàng ngũ chức sắc tôn giáo; về chiếm đất của nhiều cơ sở tôn giáo,...

Thứ ba, phê phán, xuyên tạc rằng Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp.

Chúng ta đã phát hiện, vạch trần, phê phán, phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, như: Việt Nam kiểm soát chặt chẽ việc xuất bản và cung cấp thông tin cho báo chí; bắt giữ, giam cầm, tước đoạt quyền hành nghề của những nhà báo và các blogger “dám nói lên sự thật”, “dám đưa thông tin lề trái”; hoặc quy kết, chụp mũ tội danh cho các nhà báo, blogger viết không theo đúng tư tưởng của Đảng hoặc theo “Tổng Biên tập độc nhất”;... Chúng kích động khuynh hướng cực đoan trên lĩnh vực báo chí, xuất bản, mạng truyền thông xã hội và cả hoạt động văn hóa, văn nghệ.

Thứ tư, xuyên tạc, kích động trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, văn hóa - nghệ thuật và tung tin dưới nhiều hình thức nhằm thúc đẩy sự suy thoái, suy đồi, rối loạn về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong các tầng lớp nhân dân.

Các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, xã hội, ưu tiên cấp học bổng để thu hút học sinh, sinh viên tham gia tìm hiểu “lối sống Mỹ”, “nghiên cứu nhân quyền”, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức hội nhóm tôn giáo trong học sinh, sinh viên,... nhằm “thay máu” giới trẻ.

Đặc biệt, các thế lực thù địch tăng cường‎ tung tin dưới mọi hình thức, đưa tin bịa đặt, thất thiệt một cách có chủ ý nhằm bôi xấu, bôi đen các vị lãnh tụ, lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước ta. Chúng cũng xoáy sâu vào những biểu hiện tiêu cực, suy thoái, suy đồi trong tư tưởng, đạo đức, lối sống, kể cả những hoạt động, sinh hoạt trong đời sống thường nhật, với sự phụ họa một cách vô ý thức của truyền thông đại chúng theo cơ chế thị trường, nhằm phá hoại kỷ cương, trật tự an toàn xã hội, làm rối loạn tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội nói chung.

Thứ năm, hoạt động xâm nhập, kích động nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản, trước tiên trong nội bộ Đảng, Nhà nước.

Một mặt, với những âm mưu, thủ đoạn chống phá nhằm tác động “từ bên trong” như nêu trên, các thế lực thù địch thông qua sự suy thoái, suy đồi về tư tưởng, đạo đức, lối sống để chuyển hóa tư tưởng chính trị trong nội bộ Đảng, Nhà nước. Mặt khác, chúng tăng cường tác động “từ bên ngoài” để cổ vũ, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng chính trị nhân quyền tư sản. Sự tác động “từ bên ngoài” thể hiện ở chỗ: Chúng yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải đáp ứng tiêu chuẩn về các quyền dân sự, chính trị tương tự các quốc gia phát triển phương Tây, như: tự do lập hội, tự do xuất bản báo chí tư nhân, hoạt động tôn giáo “không cần sự quản lý của Nhà nước”,... trong khi đó chúng cố tình phớt lờ các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và phát triển vốn không kém phần quan trọng, thậm chí bức xúc, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Đồng thời, chúng gắn QCN với các vấn đề hợp tác phát triển, dân chủ, dân tộc, tôn giáo, tiếp cận thông tin, và các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặc biệt chúng đòi hỏi dân sự hóa hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh nhằm thúc đẩy sự phát triển tối đa của xã hội dân sự.

Trước tình hình trên, cả hệ thống chính trị đã đẩy mạnh xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, đồng thời cảnh giác, phát hiện, ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch tìm cách tác động bằng tâm lý thông qua mạng truyền thông xã hội, để kích động mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, Nhà nước nhằm phân hóa cán bộ, đảng viên, lôi kéo những người có biểu hiện bất mãn. Cơ quan chức năng cũng đã phát hiện, ngăn chặn những hoạt động móc nối với những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, thoái hóa, những người có ý kiến bất đồng trong cán bộ, đảng viên, một số văn nghệ sĩ..., tham gia viết bài, biên soạn tài liệu để phát tán trong nước và gửi ra nước ngoài, nhằm kích động chuyển hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong các tầng lớp nhân dân và chống phá chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam. Thậm chí chúng tìm cách mua chuộc bằng tiền, hiện vật có giá trị để làm thay đổi tư tưởng, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên, nhất là ở cấp chiến lược và cơ quan trọng yếu. Từ đó, chúng tác động để những người này tham mưu, đề xuất nhằm thay đổi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước theo hướng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chệch hướng XHCN trong quá trình đổi mới đất nước. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần cảnh giác khi tham gia không gian mạng và xã đinh tốt trách nhieemjj đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ, thủ đoạn thâm độc đó.