Hiển thị các bài đăng có nhãn BIẾN HÒA BÌNH BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BIẾN HÒA BÌNH BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Căn bệnh thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm cần phải được chữa trị!

 


Hiện nay, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm đang trở thành căn bệnh ngày càng trầm trọng, lây lan trong xã hội. Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết, “tương thân, tương ái”, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”… Truyền thống ấy luôn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, vun đắp nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; kinh tế ngày càng khởi sắc, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Song, những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống nước ngoài, nhất là lối sống thực dụng không phù hợp với truyền thống văn hóa và đạo lý dân tộc đã khiến một bộ phận trong xã hội ngày càng trở nên vô cảm, thờ ơ, thiếu trách nhiệm và trở thành căn bệnh làm mờ nhạt những truyền thống tốt đẹp đó.

Hiện nay, trên nhiều diễn đàn, các phương tiện thông tin truyền thông đã cảnh báo và đưa nhiều minh chứng về sự thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm gây bức xúc trong xã hội. Thờ ơ, vô cảm đã cho thấy sự thể hiện trơ lì về cảm xúc, dửng dưng trước các sự việc xung quanh; thờ ơ với nỗi đau khổ, mất mát của người khác, chỉ biết quan tâm đến lợi ích của mình. Chính sự thờ ơ, vô cảm ấy mà thấy tốt không ủng hộ, thấy xấu không lên án, ngại va chạm tạo điều kiện, tiếp tay cho cái xấu, cái ác nảy nở.

Không thể đổ lỗi cho nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, trong xã hội vẫn không thiếu những người tốt, những câu chuyện về “người tử tế”, những câu chuyện ấm áp lòng người như những hiệp sĩ đường phố, về người đi xây cầu từ thiện, những tấm gương quên mình cứu người giữa dòng nước lũ; tấm lòng của các nhà hảo tâm chung tay ủng hộ những mảnh đời khó khăn, bất hạnh trong cơn hoạn nạn… đã góp phần xây dựng lối sống hướng thiện, một xã hội, cộng đồng tốt đẹp, nhân văn…

Để chữa trị căn bệnh này cần phát huy vai trò, sức mạnh của toàn dân. Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, tuyên truyền làm thức dậy tình thương yêu con người, đồng loại, sự hy sinh và trách nhiệm đối với xã hội. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan chức năng, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội và cá nhân trong đấu tranh, ngăn ngừa căn bệnh thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm; khuyến khích các hoạt động nhân ái, bao dung, nghĩa hiệp, chống lại cái xấu, vun đắp và xây dựng những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

                                                                                                 T1.

 

Cảnh giác với bệnh công thần và kiêu ngạo cộng sản

 


Bệnh công thần, kiêu ngạo cộng sản là những thói hư tật xấu trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã từng được V.I Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ lâu. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu, tránh những căn bệnh ấy, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt cuộc đời, khi đương chức cũng như khi nghỉ hưu. Thế nhưng, vẫn có những người xao nhãng, để những căn bệnh ấy không chỉ làm méo mó hình ảnh, nhân cách, vinh quang của chính họ mà còn tạo ra dư luận xấu, ảnh hưởng đến niềm tin, tình cảm của nhân dân, đồng đội…

Họ đã và đang tự đánh mất chính mình

Chúng ta hẳn có nhớ một sự việc gần đây, từng có cựu Ủy viên Trung ương Đảng tuổi đời còn trẻ, tương lai đang rộng mở thì “dính chàm”, bị cách hết mọi chức vụ. Nguyên nhân do nhiều sai phạm, trong đó một phần do thói độc đoán, chuyên quyền, kiêu ngạo, không biết lắng nghe, không tôn trọng cả cấp trên và cấp dưới.

Lại có cán bộ cấp cao lúc nghỉ hưu vẫn không giữ được mình, có nhiều sai phạm ảnh hưởng đến thanh danh họ, như cựu quan chức mạt sát cảnh sát giao thông; cựu bộ trưởng đòi đặc quyền đặc lợi… Đáng buồn hơn, có cả cán bộ kinh qua rèn luyện, cống hiến, lập nhiều chiến công nhưng lúc nghỉ hưu lại thiếu tỉnh táo, nói và viết không đúng đường lối quan điểm của Đảng; tiếp xúc với nhiều đối tượng cơ hội chính trị, thậm chí cả đối tượng phản động, bị chúng lợi dụng, kích động, dẫn đến tán phát nhiều thông tin xấu, gây hoang mang, bức xúc trong dư luận. Trước góp ý chân thành của đồng chí đồng đội, những người này lại không tiếp thu, sửa chữa, cho rằng cách nghĩ, cách làm của họ mới là cấp tiến, là “trở về với nhân dân”.

Họ còn tham gia các cuộc tọa đàm, trao đổi, tham gia xuất bản những ấn phẩm do một vài hội, nhóm tổ chức gây ra những tranh cãi, bất đồng chính kiến làm bức xúc dư luận. Rồi còn tham gia ký các đơn, tâm thư, thỉnh nguyện tập thể có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, không có lợi cho đất nước, quân đội nhưng họ lại được kẻ xấu tung hô, ngợi ca nên ngày càng mù quáng… Ngay trong lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn hóa văn nghệ, nhiều năm qua, chúng ta không khỏi đau xót khi thấy có những nhà văn, nhà báo, nhà quản lý từng dạn dày kinh nghiệm, có tên tuổi nhưng khi nghỉ hưu đã đánh mất chính mình, đăng đàn nói, viết những điều sai trái, đi ngược với lý tưởng cả một đời theo đuổi. Có người còn tham gia thường xuyên viết bài, cộng tác cả cho những trang mạng phản động, có người bị kích động và bị lợi dụng để rồi xuất hiện trong những clip với nhiều nội dung sai sự thật, có cả thông tin xấu độc gây hoang mang dư luận. Có người để lại lời nói, việc làm thiếu trách nhiệm, tùy tiện đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm danh dự, uy tín lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội…

Những căn bệnh cần tránh của người cộng sản

Cuộc sống luôn cần sự phản biện đa chiều nhưng nếu sự chỉ trích đi kèm bệnh kiêu ngạo cộng sản và công thần thì hậu quả vô cùng nguy hiểm.

Năm 1919, nhà văn Maxim Gorki đã viết thư đề nghị V.I Lênin ngừng “khủng bố” những trí thức bị bắt vì phản loạn. V.I Lênin đã viết bức thư trả lời, phân tích rằng không nên trộn lẫn “các lực lượng trí tuệ” của nhân dân với “lực lượng” trí thức tư sản. Ông còn lấy trường hợp tác giả cuốn sách với những mỹ từ “Chiến tranh, Tổ quốc và Nhân loại” nhưng thực ra là kẻ dùng lời đường mật đánh tráo khái niệm yêu nước đích thực; ông cho rằng những trí thức phản loạn, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia “bọn chúng không phải là bộ não …”. Sau này, trong bài viết vào năm 1921, V.I Lênin đã vạch ra một trong 3 thứ kẻ thù chính-kẻ thù “nội xâm” mà những người cộng sản Nga phải kiên quyết đấu tranh tiêu diệt, kẻ thù đầu tiên, chính là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa”.

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến bệnh công thần: “Cậy mình có một ít thành tích, thì tự kiêu tự đại, cho mình là “cứu tinh” của dân, “công thần” của Đảng. Theo Người: “… Có những người cậy mình là “công thần cách mạng”, rồi đâm ra ngang tàng, không giữ gìn kỷ luật, không thi hành nghị quyết của Đảng…”. Người cũng chỉ ra nhiều thứ “bệnh” của cán bộ, trong đó có bệnh kiêu ngạo với những biểu hiện: “Tự cao, tự đại, hay lên mặt. Ưa người ta khen ngợi, tâng bốc mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo… Việc gì cũng muốn làm thày người khác”. Cùng với đó là bệnh hiếu danh, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Rồi bệnh óc lãnh tụ: “Đánh được vài trận, hoặc làm được vài việc gì ở địa phương đã cho mình là tài giỏi lắm rồi, anh hùng lắm rồi, đáng làm lãnh tụ rồi. Nào có biết so với công cuộc giải phóng cả dân tộc thì những thành công đó chỉ là một chút cỏn con, đã thấm vào đâu!”.

Vi phạm cả pháp lý, đạo lý, xa rời nhân tâm, tự vùi danh dự

Soi rọi những lời căn dặn trên vào các biểu hiện mắc bệnh của một số cán bộ mà chúng tôi nêu ở phần đầu bài viết, có thể thấy rất rõ những điều các bậc tiền bối cách mạng căn dặn dường như đã nói đúng, nói trúng tim đen của ai đó xa rời đạo đức, danh dự người cộng sản chân chính. Người cộng sản cần có dũng khí để đấu tranh với những điều sai trái, những thói hư tật xấu trong xã hội nhưng phê bình phải trên tinh thần xây dựng, phải có cái tâm. Cuộc sống xấu đi bởi sự im lặng nhưng cuộc sống cũng xấu đi và tồi tệ hơn bởi những tiếng nói sai sự thật, phán xét hồ đồ, tùy tiện, vô trách nhiệm, giật gân, đao to búa lớn để nâng mình lên bằng cách bôi nhọ người khác, gắp lửa bỏ tay người. Đó là thói phê bình nói lấy được của kẻ không biết mình là ai, thậm chí “Chân mình thì lấm mê mê/Lại đi cầm đuốc mà rê chân người” như cha ông ta đã dạy. Đó là thói phê bình vơi tình cạn nghĩa, không thể chấp nhận đối với những người từng chung đội ngũ, từng thuộc lời thề thứ 7 về tình đồng đội.

Đã là người cộng sản, là đồng chí, đồng đội, thì khi góp ý, phê bình phải với tinh thần người cộng sản, đồng chí, đồng đội chứ không thể bịa đặt thông tin, đổi trắng thay đen, gây hoang mang, suy giảm niềm tin của nhân dân. Càng không thể phê phán khi chính mình chưa đủ tâm, đủ tầm, đủ thông tin và nhận thức về những lĩnh vực mình còn nông cạn, chưa trải nghiệm. Không thể chấp nhận những kiểu phê bình tùy tiện như biến người từng trải nghiệm, kinh qua chiến đấu, được đào tạo bài bản, có trình độ, năng lực chỉ huy quân sự cao thành người “không hiểu quân sự, không qua chiến tranh”. Không thể phê bình kiểu thầy bói xem voi phủ nhận cả thành tích, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bằng ý kiến chủ quan, lệch lạc.

Đây cũng là vấn đề mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đề cập, chỉ rõ để mỗi cán bộ, đảng viên không sai phạm. Nghị quyết chỉ rõ, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống có việc nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu… Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước, quân đội; Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội.

Nghị quyết cũng không cho phép “kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước…”.

Vậy thì rõ ràng, một vài hiện tượng cán bộ nghỉ hưu gần đây giao lưu, cấu kết với các thế lực phản động hoặc bị chúng lợi dụng để xuyên tạc, chống phá, tán phát thông tin sai sự thật trên mạng xã hội là điều không thể chấp nhận, chính là việc vi phạm Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng.

Nhìn ở góc độ pháp lý, những hành vi xuyên tạc, vu khống người khác thông qua cái gọi là phê bình, đấu tranh, bày tỏ chính kiến với nhiều trường hợp đã vi phạm Điều 155, Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015, người vu khống, nói xấu, bôi nhọ danh dự, tuy tín của người khác còn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về một trong các tội: Tội làm nhục người khác hoặc tội vu khống…

Đấu tranh và xử lý, không để tạo những tiền lệ xấu

Những hành vi vi phạm cả về pháp lý và đạo lý như vậy cần phải được đấu tranh, phê phán, lên án, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh. Tổ chức đảng, đoàn thể nơi quản lý những cán bộ đó phải tăng cường giáo dục, rèn luyện họ chấp hành đúng kỷ luật và các quy định của Đảng, đề cao lương tâm, trách nhiệm, danh dự của người đảng viên chân chính.

Đối với các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan quản lý Nhà nước, phải có thái độ và biện pháp xử lý nghiêm minh, công bằng, không để nương nhẹ, hóa mù ra mưa với những trường hợp công thần, kiêu ngạo cộng sản dẫn đến những lời nói, việc làm sai phạm. Chúng ta từng có bài học kinh nghiệm sâu sắc về một số trường hợp tướng lĩnh quân đội, công an từng được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân nhưng vi phạm kỷ luật, pháp luật vẫn bị xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm.

Với cán bộ cao cấp, càng đòi hỏi khi đương chức cũng như nghỉ hưu phải có sự tỉnh táo, cẩn trọng khi nói và làm, nhất là phát ngôn trên truyền thông và mạng xã hội, đặt lợi ích của đất nước, của cộng đồng lên trên; giữ gìn bản lĩnh, danh dự và uy tín người quân nhân cách mạng. Sinh thời, Bác Hồ từng gửi cho Thiếu tướng Nguyễn Sơn 12 chữ: “Đảm dục đại” (Gan phải to); “Tâm dục lễ” (tấm lòng, tâm hồn phải trong sáng); “Trí dục viên” (Suy nghĩ trọn vẹn, toàn diện, chu đáo); “Hạnh dục phương” (Hành động đúng đắn, ngay thẳng, phân minh, đàng hoàng). Sau này, nói chuyện với các tướng lĩnh, Bác nói đến 6 đức tính cần phải có, gồm: Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung nhưng phẩm chất đầu tiên phải có là Trí. Người chỉ rõ Trí là phải có đầu óc sáng suốt, nhìn mọi việc để suy xét, rồi quyết định cho đúng. Suy nghĩ thấu suốt, nhìn xa trông rộng, phát ngôn rạch ròi, có thể định hướng dư luận, thế mới xứng tầm của những người từng ở vị trí lãnh đạo, chỉ huy.

Để tán phát những thông tin xấu, tiếp tay cho những căn bệnh kiêu ngạo, công thần, những điều sai trái có “cánh tay vô hình” của kênh truyền thông mạng xã hội và thủ đoạn lôi kéo của các đối tượng xấu, cơ hội chính trị thường lợi dụng những cán bộ nghỉ hưu, có tinh thần đấu tranh cao nhưng trong nhiều trường hợp lại thiếu thông tin; không sử dụng hoặc ít cập nhật mạng xã hội, internet… Vì thế, cũng cần có biện pháp thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin, ngăn ngừa các đối tượng xấu lôi kéo, lợi dụng.

Các cơ quan chức năng cần có biện pháp tăng cường quản lý hiệu quả mạng xã hội, để các nhà cung cấp của Google, Facebook, YouTube… chấp hành nghiêm quy định của pháp luật Việt Nam; buộc họ chủ động và có biện pháp ngăn chặn, xử lý những thông tin chưa được kiểm chứng, tránh lăng mạ, xúc phạm uy tín, danh dự của tổ chức, cá nhân, chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội…

T1

Một số giải pháp chống bệnh giáo điều trong cán bộ, đảng viên hiện nay

 


Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận nhằm nâng cao trình độ tư duy lý luận, chống giáo điều về lý luận, tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận. 

Tăng tính thực tiễn là gắn các tri thức lý luận với thực tiễn công tác, thực tiễn đất nước, làm cho thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả hoạt động thực tiễn công tác của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán việc học tập lý luận mà không gắn với thực tiễn của cán bộ, đảng viên, là coi việc học tập lý luận chỉ để gắn cái “mác”, để có cái “bằng”, học tập để nói cho “có vẻ” lý luận; học lý luận để biết “dăm câu ba chữ” dùng làm “trang sức” hoặc để lòe người khác, chứ không để nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trình độ tư duy lên tầm lý luận; giải thích và chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn bằng lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu chống và phê phán kiểu học thuộc lòng chủ nghĩa Mác - Lênin, đó chính là cách “học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh thần Mác - Lênin”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận, nghĩa là học lý luận để phục vụ thực tiễn làm việc, từ đó khắc phục được bệnh giáo điều lý luận. Người chỉ ra: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”. Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết để biết, để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Người cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập lý luận. Như vậy, thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận là quán triệt quan điểm thực tiễn để chống bệnh giáo điều trong học tập lý luận.

Thứ hai, cần vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả vào thực tiễn để nâng cao hiệu quả công tác.

Học tập lý luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, phục vụ cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ trở nên giáo điều về lý luận. Vận dụng ở đây không đơn giản là dùng những kiến thức lý luận đã học để áp dụng vào thực tế mà để phân tích, mổ xẻ thực tiễn. Phải đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác của bản thân mình và của Đảng, như vậy thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng lý luận mới có hiệu quả. Khi đem những kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn phải phân tích những điều kiện cụ thể của thực tiễn để lựa chọn lý luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào cải tạo thực tiễn.

Người căn dặn cán bộ, đảng viên: khi nghiên cứu, học tập và vận dụng kinh nghiệm của các nước vào thực tiễn cách mạng nước ta phải căn cứ vào thực tiễn đất nước để tìm ra hướng đi riêng cho mình; biết lựa chọn kinh nghiệm nào cho phù hợp, nếu không sẽ phạm phải giáo điều khi vận dụng kinh nghiệm: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu ngoài việc nâng cao nhận thức trong học tập lý luận, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế và tính lịch sử cụ thể khi vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước mình.

Thứ ba, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận, làm giàu tri thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác “… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khoá phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”. Người nhấn mạnh: “… cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm”. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy có nghĩa là làm cho lý luận được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn”.

Phong cách thực tiễn là một trong những nét nổi bật trong hệ thống phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phong cách thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dựa trên thực tiễn và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn Việt Nam để tiếp thu chọn lọc những gì hợp lý, đúng đắn và định hướng cho quá trình tìm ra hệ thống lý luận cũng như phương pháp cách mạng để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó là một phong cách hành động khoa học, lấy thực tiễn là cơ sở, điểm xuất phát của quá trình nhận thức chân lý. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó nghiên cứu và học tập phong cách thực tiễn của Người là rất cần thiết đối với mỗi người, bởi đó là phương thức góp phần loại bỏ căn bệnh giáo điều trong cán bộ, đảng viên hiện nay./. 

T1.

Một số biện pháp phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

 


Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một làtăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong công tác quan trọng này. Trước hết, cần xác định: đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là một nội dung quan trọng nhằm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, diễn biến phức tạp, quyết liệt, thường xuyên và lâu dài. Vì vậy, để thống nhất nhận thức và hành động, cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh không khoan nhượng này. Thực hiện tốt Đề án “Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”; đưa nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ hoặc chuyên đề của cấp ủy đảng và nội dung sinh hoạt của tổ chức đảng, sát với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Cấp ủy các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá phù hợp với nhận thức từng đối tượng cụ thể cần tuyên truyền, đấu tranh. Đồng thời, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình trong từng thời kỳ; không giáo điều, rập khuôn máy móc. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đề cao ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định phát ngôn,... nắm chắc tình hình trên mạng xã hội qua blog, facebook,… của những quân nhân có biểu hiện dao động, suy thoái về tư tưởng, chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để có biện pháp giáo dục; trường hợp cố tình vi phạm những quy định phải cương quyết xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Hai làđẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Muốn đấu tranh có hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ trì các cấp phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để làm được điều này, các cơ quan, đơn vị tiếp tục thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Các học viện, nhà trường nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, nghiên cứu lý luận chính trị, cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn trong quan điểm của Đảng về quân sự quốc phòng; luận giải thuyết phục, thấu đáo những vấn đề mới nảy sinh. Đồng thời, kết hợp đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới. Nắm chắc, hiểu rõ về tính hai mặt của không gian mạng cũng như âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch; tạo khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trước các thông tin xấu độc, cũng như tăng cường sức “đề kháng” để chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Ba làchủ động cung cấp thông tin, định hướng nhận thức tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Hiện nay, Việt Nam có hơn 58 triệu người đã sử dụng tài khoản facebook và tiếp nhận rất nhiều thông tin qua mạng xã hội này. Thế nhưng, những nguồn thông tin chính thống và có thẩm quyền từ các cơ quan chức năng trên các trang mạng xã hội lại rất ít. Khi có sự việc nhạy cảm xảy ra thường phản ứng chậm, hình thức thông tin chưa phù hợp,... khiến cho tin giả, tin bịa đặt, tin suy diễn xuất hiện tràn lan, không có nguồn để xác thực, kiểm chứng tính đúng sai, thật giả lẫn lộn, gây xáo trộn, hoang mang dư luận công chúng. Vì vậy, các cơ quan chức năng phải nhạy bén, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin theo Luật An ninh mạng và Quy chế phát ngôn, nhất là các vấn đề có liên quan đến Quân đội. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần chỉ đạo cơ quan chức năng bám sát định hướng của trên, chủ động xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn đơn vị đóng quân. Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo 35 các cấp tập trung biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo,… làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng cho lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Ở từng cấp, cần duy trì tốt nền nếp chế độ hội ý cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp đấu tranh. Trong đó, cần chỉ rõ mục tiêu, luận điểm chống phá của các thế lực thù địch trong các tin, bài; cung cấp luận cứ đấu tranh phản bác từ hệ thống ngân hàng đã được biên soạn sẵn, làm cơ sở cho lực lượng viết bài tham gia đấu tranh.

Bốn làtích cực ứng dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, khai thác có hiệu quả công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Các cơ quan, đơn vị kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng, đặc biệt là Bộ Tư lệnh 86, theo chức năng, nhiệm vụ đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Hoàn thiện, đưa vào khai thác, sử dụng các phần mềm quản lý kết quả đấu tranh và hỗ trợ các hoạt động đấu tranh trên không gian mạng, thực hiện các chiến dịch truyền thông chủ động. Nghiên cứu, đề xuất việc sử dụng phần mềm Mocha Viettel, sản xuất điện thoại di động nội bộ, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí bảo đảm an toàn, vừa góp phần quản lý tình hình tư tưởng, dư luận và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ Quân đội trên không gian mạng.

Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu, các đơn vị Quân đội cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

          T1.

Âm mưu, thủ đoạn chống phá quân đội ta về chính trị của các thế lực thù địch

 


Đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới đất nước của Đảng, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong tình hình mới, nhiệm vụ xây dựng quân đội ta về chính trị có điều kiện thuận lợi hơn so với các thời kỳ

Đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới đất nước của Đảng, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong tình hình mới, nhiệm vụ xây dựng quân đội ta về chính trị có điều kiện thuận lợi hơn so với các thời kỳ trước đây, song cũng gặp không ít khó khăn, thách thức; đặc biệt đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với quân đội ta.

Để chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá quân đội ta về chính trị, tư tưởng, trước hết cần phải nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn hết sức xảo quyệt, tinh vi của các thế lực thù địch. Những âm mưu và thủ đoạn thể hiện trên một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, các thế lực thù địch tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta, nhằm làm biến chất chính trị quân đội ta.

Trong nhiều thập kỷ qua, các thế lực thù địch luôn tập trung công kích, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Chúng tung ra và cổ xúy cho luận điệu “quân đội phi giai cấp”; “quân đội nhà nghề”; ra sức rao giảng rằng, quân đội chỉ là công cụ của Nhà nước, chỉ có sứ mệnh bảo vệ quốc gia chống xâm lược, chứ không có quân đội nhân dân và không thuộc một thể chế chính trị nào (!)… Mưu đồ hiểm độc của chúng hòng làm cho quân đội ta từng bước biến chất về chính trị, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu.

Những kẻ thù của cách mạng rất lo sợ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành vũ khí tinh thần, ngọn cờ giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam; đó cũng là vũ khí tư tưởng vô địch của quân đội ta. Vì vậy, chúng không ngừng tấn công quyết liệt vào những vấn đề nguyên tắc, các luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo sự rung chuyển, phá vỡ quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng ta về CNXH. Chúng tung ra các luận thuyết tư sản có vẻ “khách quan”, “khoa học”; võ đoán cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã “lỗi thời”, “cáo chung”; xuyên tạc trắng trợn đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; khuếch trương, cổ xúy xã hội tư sản hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ lung lạc niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” ở Việt Nam, nhằm làm cho quân đội ta mất phương hướng chính trị và suy giảm bản lĩnh chiến đấu.

Chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” là sở đoản của các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam từ trước đến nay. Đó cũng là những ngón đòn thâm hiểm mà chúng sử dụng hòng gây kích động trong quân đội. Thông qua phát tán tài liệu, sách báo phản động, kẻ địch tung ra các luận điệu cho rằng “chế độ đảng trị” là nguyên nhân gây trở ngại phát triển nền dân chủ ở Việt Nam. Chúng đòi Đảng ta thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phải “chuyên nghiệp hóa quân đội” thì xã hội mới có dân chủ.

Trước những thành tựu về thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong hơn 35 năm Đổi mới, các thế lực thù địch càng hằn học và tìm mọi cách để bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, công an; chúng thực thi mọi thủ đoạn xảo trá để hòng xóa nhòa truyền thống, phẩm chất và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Chúng cũng luôn xoi tìm mọi kẽ hở, thiếu sót trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, lôi kéo quân đội can dự vào các vấn đề nhạy cảm đó.

Thứ ba, các thế lực thù địch đẩy mạnh xuyên tạc quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng ta về nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sai lệch về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

Trải qua gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi mới, những quan điểm, lý luận của Đảng về phát triển nền kinh tế đã đưa đất nước từng bước vượt qua mọi khó khăn, thách thức và ngày càng phát triển vững chắc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không ngớt tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, lừa mị, nhằm cản trở, chống đối quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm của CNTB, phải gắn với CNTB; không thể dung hợp kinh tế thị trường với CNXH. Thậm chí, chúng còn cố bịa đặt, suy diễn, coi định hướng XHCN “chỉ mang ý nghĩa thuần túy quyền lực”… Những quan điểm, luận điệu phản động đó được chúng tìm mọi cách để thâm nhập vào tư tưởng, niềm tin và hành động của cán bộ, chiến sĩ, hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ quân đội ta theo mô hình quân đội tư sản, mà chúng cho đó là phù hợp với nền kinh tế thị trường TBCN.

Một số hình thức mà các thế lực thù địch sử dụng để chống phá quân đội ta về chính trị, tư tưởng là: Chúng tìm mọi cách đan xen nội dung tuyên truyền quan điểm, luận điệu xuyên tạc, phản động vào hoạt động của quân đội ta, thông qua diễn đàn khoa học, phát tán tài liệu, rải tờ rơi, “phiếu cung cấp thông tin” (Alert), thư điện tử và internet; cổ xúy việc viết “thư góp ý”, “hồi ký” của cán bộ quân đội lão thành… các thế lực thù địch đã lập ra hàng trăm tổ chức phản động ở nước ngoài; tổ chức các nhóm chính trị đối lập và mưu đồ công khai hóa hoạt động ở trong nước. Lực lượng an ninh của ta đã phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cả ở nước ngoài và trong nước; kiểm tỏa chặt chẽ hoạt động của các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị.

Về phương tiện chống phá, các thế lực thù địch tổ chức một số trung tâm ở hải ngoại do bọn phản động cầm đầu và huy động tối đa các phương tiện thông tin với nhiều cấp độ, đặt tại nhiều vùng lãnh thổ của một số nước để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; phá hoại quân đội ta về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chúng thiết lập một hệ thống các nhà xuất bản, đài phát thanh và truyền hình… ở nước ngoài để chĩa mũi nhọn tuyên truyền chống phá Việt Nam; tận dụng tối đa mạng internet, báo điện tử, các website… nhằm tăng cường phát tán các tài liệu phản động vào nội địa nước ta.

Các thế lực thù địch chống phá quân đội ta về chính trị với nhiều thủ đoạn vừa ngấm ngầm, tinh vi, xảo quyệt, vừa công khai trắng trợn; kết hợp cả lực lượng bên ngoài và bên trong; triển khai trên tất cả các lĩnh vực hoạt động; lợi dụng tất cả các phương tiện, các tình huống; sử dụng tất cả các hình thức, biện pháp để chống phá. Việc đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận và văn hóa của quân đội ta hiện nay thực sự là một cuộc đấu tranh nóng bỏng, rất quyết liệt, phức tạp và còn nhiều khó khăn. Kết quả cuộc đấu tranh này tác động sâu sắc đến xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Vì vậy, đòi hỏi các cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị, chính ủy, chính trị viên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng luôn nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; quản lý chặt chẽ những “kênh” thông tin mà kẻ địch thường sử dụng để truyền bá quan điểm, luận điểm xuyên tạc, phản động như: Internet, đĩa hình, sách báo, các diễn đàn chính trị, văn hóa…; dự báo những tình huống phức tạp nảy sinh về tư tưởng chính trị trong cán bộ, chiến sĩ và xác định biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng triển khai hoạt động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” một cách hình thức, thụ động, mang tính “thời vụ”.

Trong tình hình mới, các thế lực thù địch vẫn luôn câu kết chặt chẽ với nhau để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, chống phá quân đội ta về chính trị với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Song mọi mưu mô xảo quyệt và thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch có đạt được hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, của đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

          T1.

Hoạt động phá hoại về đạo đức, lối sống của “chiến lược diễn biến hòa bình”

 


Đó là tệ sùng ngoại, coi thường những giá trị văn hóa của dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, ham muốn làm giàu, ham muốn quyền lực cực đoan... đã và đang làm băng hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Khuynh hướng này hết sức nguy hiểm, có sức phá hoại mạnh, tác động trực tiếp đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của các tầng lớp xã hội. Đáng lưu ý là lối sống thực dụng đang có chiều hướng gia tăng. 

Điều đó được biểu hiện ở chỗ: Từ chạy theo lợi ích vật chất dẫn đến sự lạm dụng địa vị, quyền lực đang đảm nhiệm để mưu cầu lợi ích cá nhân; đặt giá trị vật chất ở vị trí cao trong thang giá trị cuộc sống. Đó là một nguyên nhân dẫn đến suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ có chức, có quyền. Đó là tệ tham nhũng, lãng phí; nạn quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa, địa phương chủ nghĩa, bè phái, mất đoàn kết. 

Đây là những vấn đề bức xúc làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người ngày một tăng. Đó là “giặc nội xâm”, có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ mà chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn và quét sạch.

          T1.

 

Tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa

 


Một là, các thế lực thù địch đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá rã niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN. 

Hai là, với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” thông qua tác động trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho đối phương mất cảnh giác, dễ bị cám dỗ, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng truyền bá các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị. 

Ba là, với nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên Việt Nam bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, cổ xúy lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan chính trị, xa rời lý tưởng; tạo ra một tầng lớp đông đảo “phi chính trị hóa”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền. 

Bốn là, thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các nước đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước ta. 

Năm là, với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền.

          T1.

 

Nhận diện "diễn biến hòa bình” chống phá về văn hóa

 


Trong tác động phá hoại về văn hóa, các thế lực thù địch tập trung phá hoại truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa cách mạng, các chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN. Các thế lực thù địch rất coi trọng tác dụng “diễn biến hòa bình” của các loại “chất độc tinh thần” tư sản. 

Do vậy, chúng tìm mọi phương thức để các sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập vào nước ta. Chúng sử dụng các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động để đầu độc quần chúng nói chung, đặc biệt là thế hệ thanh niên ở nước ta nói riêng, làm chuyển đổi giá trị thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, chuyển đổi các thang bậc giá trị của xã hội theo chiều hướng xấu; âm mưu biến thế hệ trẻ thành công cụ và lực lượng xã hội chủ yếu của “diễn biến hòa bình”.

          T1.

 

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


 

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết là trong xây dựng đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động của toàn hệ thống chính trị,…

Trong đó, Nghị quyết nêu bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Ðảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.

Ðổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Khẩn trương thực hiện nghiêm quy hoạch báo chí đã được phê duyệt. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu độc trên in-tơ-nét, mạng xã hội.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng in-tơ-nét, mạng xã hội. Trong đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của in-tơ-nét, mạng xã hội. Phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,…

          T1.

Nhận diện "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực văn hóa phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với chế độ XHCN ở Việt Nam

 


Lợi dụng sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch đã tấn công quyết liệt vào nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đả kích đường lối cách mạng của Đảng, bài xích định hướng XHCN. 

Chúng phát hiện những người bất mãn trong nội bộ Đảng, bộ máy Nhà nước để tìm cách lôi kéo, lái những người này đi theo quan điểm của chúng làm nòng cốt để chuyển hóa từ bên trong; kích động tâm lý hoài nghi dẫn tới phủ định CNXH.

Thực tế đã có một bộ phận nhân dân, trong đó có một số cán bộ, đảng viên đã dao động, giảm lòng tin đối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như con đường mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Một số kẻ cơ hội, xét lại, phản bội đã tung ra những bài viết xuyên tạc, vu khống, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Những việc làm ấy đã gieo hoang mang, hoài nghi cho không ít người. 

Bằng cách đó, họ muốn tạo nên một sự “tự diễn biến” từ bên trong xã hội ta, trước hết là “tự diễn biến” về nhận thức, tư tưởng, từ đó dẫn đến những “tự diễn biến” về các mặt khác. 

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, sinh viên, học sinh phai nhạt lý tưởng cách mạng, thờ ơ chính trị, giảm sút và mất lòng tin vào thắng lợi của CNXH, vào khả năng lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, dẫn tới những nhận thức lệch lạc, ngả nghiêng về bản lĩnh chính trị, lập trường quan điểm, đã phụ họa với những quan điểm sai trái, phát ngôn theo luận điệu của các thế lực thù địch, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng “vấn đề nhân quyền” để phá hoại về tư tưởng đối với Việt Nam, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của chúng ta, đặt điều kiện hòng ép ta thoả hiệp, nhượng bộ về chính trị, thay đổi đường lối của ta, đi theo quỹ đạo của chúng, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để tuyên truyền, kích động dư luận thế giới cô lập Việt Nam, gieo rắc sự nghi ngờ trong các công dân Việt Nam đối với Nhà nước, kích động và khơi dậy sự phản kháng của những kẻ bất mãn, những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, những người trước đây cộng tác với chế độ cũ, hiện đang còn ở lại Việt Nam. 

Các thế lực thù địch còn vu khống, xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo, dân tộc, chính sách đối với văn nghệ sĩ. Đó là những đòn tấn công của các thế lực thù địch để tạo ra những lực lượng chống đối ngầm trong nội bộ nhân dân ta. Nếu không được vạch trần, ngăn chặn, nó có khả năng làm rối loạn xã hội, tạo cơ hội cho “diễn biến hoà bình” phát triển.

          T1.

 

Lật tẩy thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng đất nước

 


Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước là một thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch. Đấu tranh, vạch trần thủ đoạn đó là góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nhận thấy sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định chiều hướng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch thường xuyên thực hiện thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với nhiều luận điệu tinh vi, thâm hiểm. Một mặt, họ thẳng thừng đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; mặt khác, họ khéo léo che đậy mục tiêu thực sự của mình khi lập luận rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc; nhưng không có khả năng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa”(!). Để củng cố lập luận trên, họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam giỏi lãnh đạo trong chiến tranh, nhưng không có kỹ năng lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội trong thời bình”(!). Từ đây, họ kết luận: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, do đó cần trao vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cho các lực lượng chính trị khác”(!), thực chất là đòi trao cho các thế lực chống đối con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những luận điệu này được họ lặp đi, lặp lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức, trong nhiều thời điểm khác nhau, nhất là vào thời gian Đảng ta tiến hành đại hội nhiệm kỳ, hay những lúc tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp khó khăn, hoặc trong những ngày kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước. Họ hy vọng tác động của những luận điệu đó sẽ góp phần thúc đẩy sự “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến Đảng ta tự tan rã.

Mục tiêu thực sự của các luận điệu trên đều hướng vào xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; cổ súy cho “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Sâu xa hơn, là nhằm xóa bỏ mọi thành quả cách mạng và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta; hướng lái sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi theo họ, nếu Đảng Cộng sản không còn giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì tất yếu đất nước sẽ không phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là điều mà các thế lực thù địch, chống đối từng thành công ở Liên Xô trong thập niên cuối của thế kỷ trước và họ hy vọng sẽ thành công ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những thành tựu của sự nghiệp xây dựng, phát triển nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới là thực tiễn sinh động bác bỏ mọi xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn trong hơn 35 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước thời kỳ đổi mới. Thế bị bao vây, cấm vận được phá bỏ. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng trung bình khoảng 07% mỗi năm trong suốt 35 năm qua. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989 đã không ngừng tăng lên, đạt 342,7 tỉ USD vào năm 2020, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư trong ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 mới chỉ đạt 2,4 tỉ USD, thì năm 2020 đã đạt hơn 280 tỉ USD, tăng gần 120 lần trong vòng 30 năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước phát triển khá nhanh với nhiều công trình lớn, hiện đại, làm cho diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, tiến bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP hiện nay. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển, đã có 79 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Năm 2021, mặc dù chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, song do những nỗ lực của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự gắng sức của các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, sau hơn một tháng thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ về “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2021, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng 11 so với tháng trước tăng 44,6% về số doanh nghiệp, 38% về vốn đăng ký, 30,2% về số lao động. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phục hồi. Tính đến ngày 20/11/2021, vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 26,46 tỉ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2021 vẫn duy trì tốc độ tăng cao, đạt 599,12 tỉ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt  299,67 tỉ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Quan hệ đối ngoại của nước ta ngày càng rộng mở và đi vào chiều sâu; từng bước chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an; có quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều định chế kinh tế quốc tế lớn, như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), v.v. Nước ta đã hai lần đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009, 2020 - 2021) và còn đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong các tổ chức quốc tế khác. Hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta đến Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, một số nước Tây Âu, Vatican,… và nguyên thủ các nước này đến thăm nước ta trong thời gian qua, đã khẳng định vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Từ năm 2014, nước ta bắt đầu tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Trên cơ sở kinh tế phát triển, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ đạt khoảng 250 USD/năm, đến năm 2020 đạt 3.521 USD, đứng thứ sáu trong ASEAN. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Tiến bộ và công bằng xã hội đạt nhiều kết quả ấn tượng, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Các vấn đề an sinh xã hội luôn được quan tâm chăm lo, ngay cả lúc nền kinh tế gặp khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, hay của đại dịch Covid-19. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng gần 46% từ năm 1990 đến năm 2019, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới. Năm 2019 HDI của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước phát triển con người cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, đi vào chiều sâu, tạo nhiều chuyển biến tích cực, rõ rệt. Nhờ đó, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tăng cường. Con số 99,6% cử tri tham gia Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 trong điều kiện khó khăn, phức tạp do đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh, là minh chứng sinh động về lòng tin của nhân dân vào thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nói trên đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là minh chứng thuyết phục về năng lực lãnh đạo của Đảng trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập; là thực tiễn khách quan bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”2. Trong một công trình nghiên cứu cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), các nhà nghiên cứu của Viện Phát triển quốc tế thuộc trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) cũng có nhận xét: “Ở Việt Nam, trong tương lai, khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bởi lẽ, ở Việt Nam hơn 90 năm qua, đại đa số nhân dân thừa nhận sự lãnh đạo độc tôn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; trìu mến gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng ta” và coi Đảng là người đại biểu trung thành cho lợi ích của mình, do Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Để tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, Đại hội XIII của Đảng đã xác định “phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”3, xem đó là nhiệm vụ then chốt. Tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn liền với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là cách làm hiệu quả nhất để bác bỏ những mưu toan và hành động xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.

          T1.