Hiển thị các bài đăng có nhãn BIẾN HÒA BÌNH BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BIẾN HÒA BÌNH BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Giá trị cốt lõi và tính ưu việt của chế độ sẽ phủ nhận những luận điệu xuyên tạc

 

 Một trong những nội dung quan trọng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là khẳng định những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Việt Nam đã, đang từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống.

Những giá trị cốt lõi đó là: Xã hội thực sự quan tâm, coi trọng con người, tất cả vì con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người, làm cho con người có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Con người được sống trong xã hội đề cao tình đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” như lời Bác Hồ mong muốn. Con người ứng xử đúng mực, thân thiện với môi trường để giữ gìn tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau và phát triển bền vững đất nước.

Con đường Việt Nam đang đi không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, phù hợp với ý Đảng-lòng dân, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Kể từ khi lập quốc theo chế độ mới đến nay, Việt Nam đã trải qua chặng đường gần 80 năm. Trên con đường đi lên CNXH ở Việt Nam không hề bằng phẳng, trơn tru, thậm chí có lúc vấp váp, sai lầm, song với tinh thần cầu thị, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc Việt Nam thêm một lần minh chứng với thế giới là không chỉ chiến thắng những kẻ thù cường bạo nhất thời đại mà còn nỗ lực chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, từng bước tiệm cận gần hơn với những mục tiêu cao cả của CNXH-cũng là những mục tiêu tốt đẹp nhất mà nhân loại tiến bộ hướng tới.

Danh nhân văn hóa người Đức J.Goethe từng nói, đại ý: Lý luận chỉ là màu xám, còn cây đời mãi xanh tươi. “Cây đời” được ươm mầm, chăm sóc và đang lớn lên, tươi cành xanh lá trên mảnh đất Việt Nam chính là cuộc sống của gần 100 triệu người dân được hưởng thụ hương thơm trái ngọt nhờ thành quả cách mạng XHCN đã mang lại. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam vươn lên trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, người dân đã chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình, trong đó một tầng lớp trung lưu, thịnh vượng đang hình thành, chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong xã hội.

Giữa bộn bề, phức tạp của thời cuộc, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang hoành hành, làm chao đảo nhiều quốc gia, dân tộc khiến hàng triệu người dân nghèo trên thế giới có nguy cơ lâm vào cuộc khủng hoảng nhân đạo thì hầu hết người dân Việt Nam vẫn sống trong an toàn, bình yên. Càng trong hoàn cảnh thiên tai, địch họa, dịch bệnh, tinh thần yêu nước thương nòi, ý chí cố kết cộng đồng, tình yêu thương chia sẻ của người Việt Nam càng tỏa sáng và trở thành một trong những giá trị văn hóa nổi bật làm nên sức mạnh Việt Nam, giá trị Việt Nam, uy tín Việt Nam trên thế giới.   

Những năm gần đây, Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước thực hiện hiệu quả những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Nhiều mô hình, sáng kiến của Việt Nam như giải quyết đói nghèo, bất bình đẳng giới; phòng, chống thiên tai; bảo đảm an ninh lương thực... đã được nhiều nước có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam tham khảo, học hỏi kinh nghiệm. Ðặc biệt, những thành công của Việt Nam trong việc ngăn chặn, kiểm soát, phòng, chống đại dịch Covid-19 đã được Tổ chức Y tế thế giới và nhiều hãng truyền thông quốc tế đánh giá cao. Theo công bố từ một khảo sát toàn cầu có uy tín, Việt Nam là quốc gia có độ hài lòng của người dân cao nhất thế giới về phản ứng của Chính phủ đối với dịch Covid-19. Những nhận định khách quan đó như một bằng chứng sinh động về sự quan tâm chăm lo chu đáo của Ðảng và Nhà nước ta đối với cuộc sống, sức khỏe của nhân dân trong mọi hoàn cảnh; đồng thời, đó cũng là “chỉ số lòng dân” góp phần đo lường tính chính danh, tính ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta.

Có được thành quả đó là sự kết tinh của trí tuệ, mồ hôi, lao động sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân ta; và sâu xa hơn là bắt nguồn từ sự hy sinh xương máu của gần 1,2 triệu liệt sĩ, trong đó có gần 160.000 đảng viên liệt sĩ. Vì vậy, Việt Nam đi theo con đường CNXH không chỉ từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng “độc lập-tự do-hạnh phúc” mà Đảng và Bác Hồ đã đề ra mà còn là sự tiếp nối hành trình tri ân các thế hệ người Việt Nam đã anh dũng ngã xuống, dâng hiến trọn đời mình vì những khát vọng cao cả đó.

Sống trong chế độ XHCN, ai cũng có cơ hội, điều kiện được tiếp cận, hưởng thụ các giá trị của hạnh phúc. Và trên thực tế, hạnh phúc đã, đang đến với mỗi người, mỗi nhà trên dải đất hình chữ S. Tuy quan niệm về hạnh phúc của mỗi người dân không giống nhau, song đều có chung cảm giác là hài lòng về đời sống vật chất, tinh thần tốt đẹp mà thể chế chính trị ưu việt đã kiến tạo và mang lại cho họ. Khi đất nước bình yên, xã hội an toàn, cộng đồng hưởng niềm vui, chắc chắn không ai bị bỏ lại phía sau. Đó là cội nguồn sâu xa, là xuất phát điểm để chúng ta vững tin vào chế độ XHCN mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang chung tay xây dựng; đồng thời cũng là cơ sở thực tiễn, căn cứ khoa học để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch nhằm xuyên tạc những giá trị tốt đẹp của chế độ XHCN và phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta.

 

BẢO VỆ CÔNG LÝ, CỦNG CỐ NIỀM TIN

     Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta đang được tiến hành trên tinh thần không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm và không có ngoại lệ.

Một trong những nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên là yêu cầu cấp thiết để bảo vệ công lý và củng cố niềm tin của nhân dân vào hệ thống pháp luật là thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

1. Thực tế thời gian qua cho thấy, các đại án về kinh tế và tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được cơ quan có thẩm quyền phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử luôn có tính chất phức tạp và tác động sâu rộng đến đời sống xã hội. Vấn đề đáng quan tâm là ngoài việc xử lý nghiêm minh các đối tượng phạm tội theo quy định, công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ việc, vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đối mặt không ít khó khăn, thách thức.

Dù là việc khó, phức tạp và nhạy cảm, nhưng Đảng, Nhà nước ta xác định nhất quán quan điểm phải làm triệt để việc thu hồi tài sản tham nhũng, từ đó mới đủ sức phòng ngừa, răn đe trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Trong quá trình này, các cơ quan chức năng đã chủ động phối hợp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác giám định, định giá tài sản và thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Đáng chú ý, từ ngày 1-1-2025, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cơ chế xử lý vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan có thẩm quyền đã đề xuất được giải pháp xử lý tài sản, vật chứng của nhiều vụ án ngay trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Việc này đã giúp cơ quan chức năng sớm giải tỏa tài sản, đưa vào lưu thông, tránh thất thoát, lãng phí, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân liên quan, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Những biện pháp quyết liệt, triệt để đã giúp việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào kết quả chung của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Theo Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đối với các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, từ sau phiên họp 27 (ngày 31-12-2024) đến ngày 25-3-2025, các cơ quan chức năng đã hoàn thành 12 kết luận về giám định, định giá tài sản tham nhũng. Các cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được hơn 6.000 tỷ đồng tài sản tham nhũng, nâng tổng số tiền thu hồi được từ khi thành lập Ban Chỉ đạo đến ngày 25-3-2025 là 102.040 tỷ đồng.

Rõ ràng, việc thu hồi tài sản tham nhũng có vai trò quan trọng, ngoài thu hồi lại tài sản của Nhà nước, cá nhân, doanh nghiệp..., còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Đây cũng là giải pháp góp phần khắc phục triệt để thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền.

2. Hiện nay, cơ quan chức năng đang tập trung xử lý nhiều đại án tham nhũng và kinh tế. Một trong những vấn đề liên quan được dư luận đặc biệt quan tâm là việc thu hồi một lượng lớn tài sản tham nhũng cho Nhà nước và nhân dân tại các vụ án, như: Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Cục Đăng kiểm Việt Nam và các đơn vị liên quan, Tập đoàn Phúc Sơn, Tập đoàn Thuận An, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Dự án Sài Gòn - Đại Ninh (tỉnh Lâm Đồng), Công ty Xuyên Việt Oil, Công ty AIC...

Thu hồi triệt để tài sản tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là một trong những công việc quan trọng trong quá trình xử lý các vụ án tham nhũng, kinh tế. Tuy nhiên, trong cuộc chiến với “giặc nội xâm” này, có một vấn đề cần quan tâm là các đối tượng khi phạm tội thường chuẩn bị kỹ lưỡng, kể cả trước, trong và sau giai đoạn phạm tội nhằm che giấu, chuyển đổi, tẩu tán tài sản một cách tinh vi và có hệ thống. Do đó, trong mọi trường hợp, dù có khó khăn đến mấy, việc thu hồi tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, thất thoát luôn là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của các cơ quan chức năng và toàn xã hội.

Cũng bởi những khó khăn và phức tạp đang đặt ra nên nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ngày càng nặng nề hơn, nhất là công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Kiên định tinh thần không ngừng, không nghỉ và ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu trong tình hình mới, cùng với các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đang thực hiện đồng bộ và hiệu quả, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 287-QĐ/TƯ (ngày 30-4-2025) về thu hồi tài sản do tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được phát hiện qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Quy định nêu rõ nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, xác minh và thu hồi tài sản do tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Để bảo đảm tính nghiêm minh, quy định cũng nêu rõ, việc thu hồi tài sản phải đúng trình tự, thủ tục, cùng với quá trình xử lý kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm. Tài sản sau khi thu hồi phải được quản lý, bảo quản, sử dụng đúng quy định.

Đặc biệt, để ngăn chặn hành vi phạm pháp, ủy ban kiểm tra các cấp có thể yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, kê biên, phong tỏa tiền, tài khoản, tài sản nếu có căn cứ xác định đối tượng kiểm tra, giám sát có dấu hiệu hủy hoại, tẩu tán tài sản...

Một điểm đáng chú ý là quy định khuyến khích phát huy tinh thần gương mẫu, tự giác, trung thực của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, quy định nêu rõ một trong những căn cứ để thu hồi là tổ chức Đảng, đảng viên và các tổ chức, cá nhân có liên quan chủ động báo cáo và tự giác nộp lại tài sản đã nhận do tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trước khi bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện, kết luận; chủ động nộp tài sản khắc phục hậu quả do vi phạm dẫn đến thiệt hại tài sản của Nhà nước...

Như vậy, người cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức, có quyền trong mọi trường hợp, kể cả khi tay đã “nhúng chàm”, vẫn phải thể hiện phẩm chất tiên phong, gương mẫu. Ở đây có thể hiểu, tinh thần gương mẫu, tự giác, trung thực trong giao nộp tài sản phi pháp họ sẽ được cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét khoan hồng, đồng thời góp phần bảo đảm uy tín, giữ vững thanh danh và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng.

Tinh thần nhất quán và kiên định trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta là tiến hành trên cơ sở bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Đặc biệt, các giải pháp triển khai đều hướng đến mục tiêu phòng ngừa là chính; đồng thời phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí, tiêu cực không có vùng cấm, không có ngoại lệ và gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc.

Vấn đề được ưu tiên là thu hồi tài sản tối đa cho Nhà nước và nhân dân, trên cơ sở xem xét xử lý bằng kinh tế, dân sự, hành chính, cuối cùng mới là xử lý hình sự. Nhưng trên hết đó là thượng tôn pháp luật để góp phần xây dựng văn hóa liêm chính, chí công vô tư và không tham nhũng, không lãng phí, không tiêu cực trở thành việc làm tự giác, tự nguyện, “như cơm ăn, nước uống hằng ngày” trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

 


Hiện nay, có một số người băn khoăn về nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa…Song chúng ra cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, nghi hoặc.

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch hiện nay.

Tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa

     Một là, các thế lực thù địch đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá rã niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN. 

Hai là, với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” thông qua tác động trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho đối phương mất cảnh giác, dễ bị cám dỗ, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng truyền bá các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị. 

Ba là, với nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên Việt Nam bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, cổ xúy lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan chính trị, xa rời lý tưởng; tạo ra một tầng lớp đông đảo “phi chính trị hóa”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền. 

Bốn là, thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các nước đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước ta. 

Năm là, với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận rõ tính chất nguy hiểm của âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch hiện nay./.

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG BA CẤP (MULTI-TIER LOCAL GOVERNMENT)

 

        Mô hình chính quyền địa phương ba cấp (multi-tier local government) là mô hình được áp dụng tại các quốc gia có diện tích rộng lớn, phân bố dân cư không đồng đều, và sự đa dạng rõ nét về điều kiện kinh tế – xã hội giữa các vùng miền. Trong mô hình này, chính quyền địa phương được tổ chức thành ba cấp – ví dụ như tỉnh – huyện – xã tại Việt Nam và Trung Quốc hoặc bang – quận – địa phương trong một số hệ thống liên bang.

        Ưu điểm của mô hình ba cấp là phù hợp với quản trị đa tầng, có khả năng bao quát nhiều vùng địa lý khác biệt và cung ứng dịch vụ công ở các cấp độ phù hợp. Tuy nhiên, mô hình này cũng ẩn chứa rủi ro về “phân mảnh thể chế”, gia tăng chi phí hành chính, và trùng lặp trong chức năng giữa các cấp nếu không có thiết kế pháp lý rõ ràng. OECD cảnh báo rằng, quản trị đa cấp nếu thiếu cơ chế điều phối và phân quyền rõ ràng sẽ làm gia tăng chi phí hành chính và cản trở hiệu quả chính sách công. Do đó, mô hình ba cấp chỉ phát huy hiệu quả khi đi kèm với cơ chế phốihợp liên cấp hiệu quả (multi-level governance), đồng thời có khung pháp lý minh bạch về chức năng, ngân sách, và trách nhiệm giải trình giữa các cấp chính quyền.

MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HAI CẤP (TWO-TIER LOCAL GOVERNMENT).

 

        Chính quyền địa phương được tổ chức ở hai cấp – thông thường là cấp vùng hoặc tỉnh, và cấp địa phương hoặc cơ sở (như quận, huyện, thành phố trực thuộc). Mỗi cấp đều có hội đồng dân cử và cơ quan hành chính riêng, với chức năng, nhiệm vụ được phân định rõ trong luật pháp hoặc các văn bản dưới luật. 

        Mô hình này khá phổ biến ở các quốc gia theo thể chế nhà nước đơn nhất nhưng có truyền thống quản trị phân quyền nhất định, như Pháp (vùng – commune), Nhật Bản (tỉnh – thành phố/quận), Thái Lan (tỉnh – địa phương). 

        Theo Sharpe, mô hình hai cấp cho phép kết hợp giữa tính đại diện ở cấp cơ sở với năng lực hoạch định chiến lược ở cấp vùng, từ đó tạo ra sự hài hòa giữa phản ánh bản sắc địa phương và bảo đảm tính thống nhất quốc gia. Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi sự phân định rạch ròi giữa hai cấp. Nếu không, rất dễ dẫn đến trùng lặp trách nhiệm, xung đột hành chính, hoặc hiệu quả phối hợp thấp giữa các cấp quyền lực.

MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG MỘT CẤP (SINGLE-TIER LOCAL GOVERNMENT).

 

        Trong mô hình mô hình một cấp (single-tier local government), chính quyền địa phương chỉ được tổ chức tại một cấp duy nhất dưới trung ương, thường là cấp đô thị hoặc vùng hành chính tổng hợp. Các đơn vị này thường được trao quyền tự chủ tương đối cao nhằm bảo đảm tính linh hoạt và hiệu quả trong quản lý. 

        Mô hình này phổ biến ở các quốc gia có diện tích nhỏ, mật độ dân cư cao và mức độ đô thị hóa lớn, như Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc) hoặc các thành phố đặc biệt như Reykjavik (Iceland).

        Ưu điểm của mô hình này là tổ chức gọn nhẹ, ít tầng nấc, giúp tăng tốc độ ra quyết định và giảm trùng lặp chức năng. Tuy nhiên, hạn chế nổi bật là khó đáp ứng các nhu cầu đa dạng của những vùng nông thôn, vùng biên giới hoặc khu vực dân cư phân tán, nếu không có cơ chế điều phối vùng hiệu quả.

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HÌNH THÀNH CÙNG VỚI QUÁ TRÌNH DÂN CHỦ HÓA

 

Sự hình thành và phát triển của chính quyền địa phương hiện đại gắn liền với tiến trình dân chủ hóa và sự ra đời của nhà nước pháp quyền, đặc biệt từ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX – thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở phương Tây và tư tưởng chính trị tự do phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, chính quyền địa phương bắt đầu chuyển hóa từ một thiết chế hành chính phụ thuộc, đơn thuần thực thi mệnh lệnh từ trung ương, thành một thiết chế có tư cách pháp lý nhất định, đại diện cho lợi ích và ý chí của cộng đồng cư dân trong cấu trúc quyền lực nhà nước.

Theo Frank J. Goodnow – một trong những học giả tiên phong trong lĩnh vực hành chính công – chính quyền địa phương hiện đại không chỉ là công cụ thực thi của trung ương, mà là một cấu trúc chính trị được thiết kế để đáp ứng những nhu cầu đặc thù của cộng đồng địa phương. Quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dân chủ, với trọng tâm là việc người dân không chỉ là đối tượng bị quản lý, mà còn là chủ thể tham gia vào việc hoạch định và giám sát các quyết định công ở cấp cơ sở. Những đặc trưng định hình nên chính quyền địa phương hiện đại, bao gồm:

(1) Cơ quan đại diện dân cử tại địa phương: sự xuất hiện của các hội đồng địa phương – do chính người dân bầu chọn – là biểu hiện rõ rệt nhất của tính đại diện và dân chủ.

(2) Quyền tự quyết đối với một số vấn đề địa phương: chính quyền địa phương được trao quyền quản lý và ra quyết định về các lĩnh vực như ngân sách, dịch vụ công, quy hoạch, giáo dục, phúc lợi… trong phạm vi do pháp luật quy định.

(3) Ngân sách, nhân sự và cơ chế giải trình riêng: như Geert Bouckaert và Christopher Pollitt đã nhấn mạnh trong tác phẩm Public Management Reform: A Comparative Analysis (2004), năng lực tài chính độc lập, hệ thống nhân sự riêng biệt và cơ chế giải trình công khai là những yếu tố cốt lõi để bảo đảm tính tự chủ và hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương, đồng thời ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực.

Từ các đặc trưng trên, có thể khẳng định, chính quyền địa phương hiện đại không còn đơn thuần là một thiết chế hành chính – nơi thực thi các chỉ thị từ trung ương – mà còn là một thiết chế dân chủ, nơi nhân dân có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến đời sống của chính họ. Hai phương diện này – hành chính và dân chủ – vừa bổ sung cho nhau, vừa tiềm ẩn sự căng thẳng nội tại, tạo nên tính hai mặt đặc thù của chính quyền địa phương hiện đại.

Ở phương diện hành chính, chính quyền địa phương đảm nhận vai trò “cánh tay nối dài” của trung ương nhằm bảo đảm tính thống nhất và hiệu lực thi hành pháp luật trên toàn lãnh thổ. Nhưng ở phương diện dân chủ, nó được kỳ vọng là biểu hiện sinh động nhất của quyền lực nhân dân tại chỗ, được vận hành bởi các thiết chế đại diện dân cử, và chịu trách nhiệm trực tiếp trước cộng đồng cư dân. Chính sự kết hợp giữa hai chiều chức năng đó đã biến chính quyền địa phương trở thành một không gian thể chế độc đáo – nơi nhà nước và xã hội gặp gỡ, tương tác và đôi khi xung đột “vừa phản ánh chính sách quốc gia, vừa đáp ứng bản sắc và nhu cầu địa phương” – một sự kết hợp tinh tế giữa tính đồng nhất thể chế và tính đa dạng thực tiễn.

Từ góc độ thực tiễn, điều này đặt ra không ít thách thức cho các quốc gia theo mô hình nhà nước đơn nhất như Việt Nam, nơi truyền thống hành chính tập quyền còn rất sâu đậm. Cải cách chính quyền địa phương vì thế không chỉ là một vấn đề kỹ thuật về tổ chức bộ máy mà còn là một quá trình thể chế hóa các giá trị mới – bao gồm dân chủ, minh bạch, phân quyền và trách nhiệm giải trình. Càng trong bối cảnh quản trị hiện đại, với yêu cầu cao về sự tham gia của người dân, năng lực phản ứng chính sách và thích ứng thể chế, thì việc thừa nhận và phát huy tính hai mặt của chính quyền địa phương càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn bao giờ hết.

Chính quyền địa phương vì vậy là nền tảng đầu tiên và thiết yếu cho thực hành dân chủ, thông qua sự tham gia và đại diện của công dân trong đời sống công. Đây là cấp chính quyền gần dân nhất, nơi công dân có thể tiếp cận, tham gia và chứng kiến trực tiếp những kết quả của các quyết định chính trị – hành chính, qua đó định hình niềm tin và sự gắn kết giữa người dân và Nhà nước.

THỜI KỲ TIỀN HIỆN ĐẠI, TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG CHƯA MANG TÍNH CHẤT CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG THỰC THỤ

 

        Trong thời kỳ tiền hiện đại, đặc biệt dưới các vương triều phong kiến châu Á, bao gồm cả Việt Nam, các đơn vị hành chính địa phương chủ yếu được thiết lập như một cơ chế kiểm soát hành chính tập trung nhằm duy trì trật tự và thực thi mệnh lệnh từ trung ương. Chính quyền trung ương duy trì quyền lực tuyệt đối thông qua tầng lớp quan lại được bổ nhiệm, không có thiết chế đại diện dân cử hay cơ chế tự trị cho cộng đồng cư dân tại chỗ.

        Tại Việt Nam, dưới các triều đại phong kiến, như: Lý, Trần, Lê, Nguyễn tổ chức bộ máy quản lý ở cấp địa phương về cơ bản mang tính hành chính – kiểm soát, không có đặc điểm của một chính quyền địa phương theo nghĩa hiện đại. Bộ máy này vận hành theo nguyên tắc tập quyền tuyệt đối, với toàn bộ quyền lực tập trung vào triều đình trung ương; các cấp hành chính địa phương – từ trấn, phủ, huyện đến xã – chỉ làm nhiệm vụ thừa hành, không có quyền tự chủ hay quyết định độc lập. Đội ngũ quan lại địa phương hoạt động như những “cánh tay nối dài” của triều đình, đảm trách các nhiệm vụ như thu thuế, trưng binh, duy trì an ninh trật tự và thực thi các mệnh lệnh mang tính mệnh lệnh – hành chính từ cấp trên. “Chính quyền làng xã ở Việt Nam thời phong kiến vận hành như một đơn vị hành chính phục tùng, nơi mà vai trò chính của người đứng đầu làng là thực hiện các chỉ thị của quan phủ và triều đình, không phải bảo vệ quyền lợi cư dân”. Trích dẫn này cho thấy rõ tính chất phi đại diện và thiếu tính dân chủ trong cơ cấu tổ chức ở cấp cơ sở.

        Mặc dù ở một số nơi, các chức danh như xã trưởng, lý trưởng có thể được chọn lựa theo phong tục địa phương, nhưng vẫn phải được chuẩn y và giám sát chặt chẽ bởi hệ thống quan lại cấp trên và không có thực quyền trong việc hoạch định chính sách hay bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng quan điểm này, TS. Nguyễn Thị Thu Hòa nhận định: “Với tính tập quyền quân chủ, các triều đại phong kiến Việt Nam không ngừng xây dựng bộ máy nhà nước tập quyền, thống nhất, thông suốt, đòi hỏi triều đình trung ương nắm được các địa phương; các địa phương phải tuân thủ chỉ đạo quản lý chung của nhà nước trung ương”.

        Như vậy, bộ máy hành chính địa phương thời kỳ phong kiến Việt Nam không thể được xem là chính quyền địa phương đúng nghĩa, vì thiếu vắng cả ba yếu tố cốt lõi của một chính quyền địa phương hiện đại: tính đại diện, tính tự chủ và tính phân quyền thực chất.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2025

Nhận thức đúng giá trị thiêng liêng của Chiến thắng 30-4-1975

 Hiện nay, bên cạnh đại đa số nhận thức đúng thì vẫn có những cán bộ, đảng viên có nhận thức lệch lạc về giá trị, ý nghĩa của Chiến thắng 30-4-1975 - Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Họ đã ăn phải "bả độc" thông tin của các thế lực thù địch, để từ đó có những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", sai lệch trong nhận thức và hành động.

Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2025

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM – ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, VÌ HÒA BÌNH VÀ HỢP TÁC

 


Một trong những chủ đề mà các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc là chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chúng đưa ra các luận điệu như: "Việt Nam nghiêng hẳn về một phía", "phụ thuộc vào nước lớn", hoặc ngược lại, khi Việt Nam có động thái tăng cường hợp tác quốc tế thì lại bị vu là "mất lập trường". Tất cả đều là những luận điệu có chủ đích, nhằm phá hoại hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.


Thực tế, Việt Nam kiên định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước, vì hòa bình và phát triển. Điều này thể hiện rõ trong việc chúng ta tham gia ngày càng sâu rộng vào các tổ chức quốc tế, giữ vai trò chủ động trong ASEAN, APEC, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, và là thành viên tích cực trong các hiệp định thương mại tự do lớn như CPTPP, EVFTA...

Việt Nam không chọn phe – Việt Nam chọn lợi ích quốc gia, chọn hòa bình, hợp tác và phát triển. Trong bối cảnh thế giới phức tạp, lựa chọn này thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và sự khôn ngoan của đối ngoại Việt Nam.


Những luận điệu cố tình quy chụp chính sách đối ngoại là nhằm mục đích chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác chiến lược, làm tổn hại vị thế đất nước và gieo rắc tâm lý hoài nghi trong dân chúng.

Chúng ta cần thấy rõ bản chất: Việt Nam không chạy theo ai, càng không đối đầu ai – mà đang khẳng định vai trò tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đó là một chính sách đối ngoại bản lĩnh, mềm dẻo nhưng kiên định, phù hợp với lợi ích dân tộc và xu thế thời đại.




Thứ Tư, 2 tháng 4, 2025

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tính đúng đắn trong thực tiễn

 


Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là lý thuyết lỗi thời mà là hệ tư tưởng cách mạng, khoa học, phản ánh quy luật phát triển của xã hội. Trên thế giới, dù có nhiều biến động nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, mâu thuẫn giai cấp vẫn tồn tại gay gắt. Những điều này chứng minh những luận điểm của Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị.

Đối với Việt Nam, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đã giúp đất nước thoát khỏi ách đô hộ, giành độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính nhờ nền tảng này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, đối ngoại, khẳng định vai trò quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CON ĐƯỜNG TẤT YẾU CỦA VIỆT NAM

 


Việt Nam kiên định con đường chủ nghĩa xã hội không phải do "bảo thủ", mà vì đó là con đường duy nhất đã giúp ta thoát khỏi đô hộ, thoát nghèo, và hướng tới thịnh vượng.

Từ một nước nghèo đói, Việt Nam nay đã trở thành một nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất châu Á. Các chính sách an sinh, giáo dục, y tế đều vượt trội so với nhiều nước trong khu vực.

Vậy liệu chú nghĩa xã hội có phải "lỗi thời"? Hay nó chính là xu hướng tất yếu của tương lai? Câu trả lời nằm ở sự thật!

CHIẾN TRANH THÔNG TIN VÀ THẮNG LỢI TRONG THI TRONG THỜI ĐẠI 4.0

 


Không cần súng đạn, chiến tranh thời đại này diễn ra ngay trên mạng xã hội. Những thông tin sai lệch, những tin giả lan tràn, làm lung lay niềm tin của nhân dân.

Những vụ bê bối nhắm vào quan chức, những tin đồn về chính sách đều nhằm mục đích duy nhất: Gieo rắc sự hoài nghi, làm suy giảm niềm tin vào Đảng và Nhà nước.

Thắng lợi trong chiến tranh thông tin không chỉ là vấn đề của nhà nước, mà là trách nhiệm của mọi công dân. Hãy tỉnh táo, hãy kiểm chứng thông tin, và hãy trở thành người truyền tải sự thật!

"TỰ DO" KIỂU PHƯƠNG TÂY - CÓ THỰC SỰ LÀ TỰ DO?


Nhiều người vẫn hay mơ về "tự do" theo kiểu phương Tây, nhưng liệu thứ tự do đó có thực sự như họ tưởng tượng?

Hãy nhìn vào những đất nước được gọi là "dân chủ", nơi mà quyền lợi bị thao túng bởi nhóm lợi ích và những tập đoàn kinh tế. Các phong trào biểu tình bị trấn áp, phát ngôn khác chủ trương nhà nước liền bị gán mác "cực đoan".

Người dân Việt Nam không cần một sự tự do nửa vời, nơi nghèo đói và bất bình đẳng tràn lan. Chúng ta đang xây dựng một xã hội tự do thực sự: nơi quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nơi mọi người đều được tạo điều kiện để phát triển, chứ không phải thứ tự do do truyền thông phương Tây nhồi nhét.

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN CÓ KHÔNG THỂ

 

Gần đây, một số người rêu rao rằng "Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời". Nhưng thử hỏi: nếu nó thật sự lỗi thời, tại sao các thế lực thù địch lại ráo riết tìm cách bóp méo, xuyên tạc nó?

Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải lý thuyết khô khan, mà là kết tinh của đấu tranh giai cấp, là kim chỉ nam giúp các dân tộc bị áp bức giành độc lập, tự do. Ngay cả những nước tư bản cũng không thể phủ nhận rằng các phong trào lao động, chính sách phúc lợi xã hội hôm nay chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Marxist.

Việt Nam, nhờ kiên trì con đường XHCN, đã vượt qua bao khó khăn, duy trì tăng trưởng bền vững, giữ vững độc lập tự chủ. Vậy thành tựu đó có phải do "lỗi thời" hay không? Hãy tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc, bạn nhé!

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2025

Nắm vững chủ nghĩa xã hội khoa học để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội

 


Chủ nghĩa xã hội khoa học là một khoa học độc lập thuộc nhóm khoa học xã hội - nhân văn, ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX trên cơ sở chín muồi của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng: Chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác - Lê nin, với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội hoàn chỉnh, cân đối, triệt để cách mạng, luận chứng một cách toàn diện dưới góc độ triết học, kinh tế chính trị và xã hội - chính trị về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời, chiến thắng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đều tất yếu như nhau. Theo nghĩa hẹp: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin, là biểu hiện lý luận của phong trào cộng sản, trực tiếp luận chứng khoa học dưới góc độ chính trị - xã hội quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Là một khoa học độc lập, chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp, nghiên cứu riêng; có hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính độc lập tương đối; có sự kế thừa và phát triển tư tưởng trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học có vị trí, vai trò quan trọng: Đối với sự phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa: Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời, phát triển dựa trên cơ sở hiện thực khách quan và khoa học vững chắc, có kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng, khắc phục và loại trừ những hạn chế, những yếu tố không hợp lý của các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng trong lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một giá trị văn hoá, văn minh nhân loại, đã tìm ra những quy luật, tính quy luật của tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thật sự là học thuyết khoa học, cách mạng, cân đối, hoàn bị. Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ quả tất yếu rút ra từ triết học và kinh tế chính trị học Mác - Lênin; là lý luận về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, là lý luận chính trị - xã hội trực tiếp chỉ đạo hoạt động thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ nhằm nhận thức thế giới một cách đúng đắn, không dừng lại ở việc chỉ ra tính tất yếu khách quan, các nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn vạch rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, các phương pháp cách mạng đúng đắn để hiện thực hoá mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ tư tưởng chính trị, cơ sở lý luận chính trị trực tiếp để giai cấp công nhân và các Đảng Cộng sản đề ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng. Đồng thời, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là cốt vật chất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học luôn có sự gắn kết chặt chẽ giữa tính khoa học và tính giai cấp, tính đảng; giữa lý luận và thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thực tiễn xã hội... Từ khi ra đời đến nay, Chủ nghĩa xã hội khoa học luôn luôn bị các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận và tìm cách loại bỏ. Do đó, luôn kiên định và phát triển, trung thành và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa xã hội khoa học là điều kiện cơ bản bảo đảm để giai cấp công nhân, các đảng cộng sản thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận sắc bén của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận chống lại chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại.

Đối với cách mạng Việt Nam: Chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[1]



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 563

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2025

Tăng cường công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng

 


Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của mạng Internet, các mạng xã hội toàn cầu,... đã tạo điều kiện để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng để tăng cường các thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng các sự kiện chính trị như: Công tác chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng; công tác phòng, chống tham nhũng; các vụ việc nhạy cảm, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm; công tác phòng, chống Covid-19; vấn đề Biển Đông, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo… để phát tán các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, công kích, hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng...

Trong hoạt động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, việc tuyên truyền xuyên tạc, đăng tải các thông tin xấu độc trên không gian mạng là hoạt động phổ biến nhất hiện nay. Với đặc tính lan tỏa nhanh, mạng Internet đang là phương tiện nguy hiểm nhất, có khả năng mở rộng phạm vi, tác động nhanh nhất, gây tác hại trên diện rộng hơn bất cứ hình thức tuyên truyền nào khác. Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã triệt để lợi dụng đặc tính này và thiết lập hàng nghìn trang web, blog và mạng xã hội cho mục đích tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, phá hoại nội bộ ta; lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, khai thác thông tin trên báo chí chính thống từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống để hư cấu, xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo sự thật, lấy hiện tượng quy kết thành bản chất, đăng tải thông tin thật giả lẫn lộn. Chính vì vậy công tác định hướng trong việc đưa thông tin tích cực, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng đang là đòi hỏi cấp thiết cần phải làm hiện nay.

Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Ban Chỉ đạo 35 tỉnh Lạng Sơn đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Thường xuyên quán triệt học tập, nghiên cứu và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng một cách nghiêm túc, đồng bộ; thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân; chủ động nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội; định hướng tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết kịp thời những vụ việc phức tạp, khiếu kiện đông người, các vấn đề nảy sinh từ cơ sở nhằm ổn định tình hình, không để phát sinh thành ''điểm nóng'' để các thế lực thù địch có cơ hội lợi dụng xuyên tạc, chống phá; chủ động nắm tình hình địa bàn, kịp thời tuyên truyền thông tin chính thống để định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tăng cường huy động cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên thường xuyên chia sẻ, bình luận những thông tin tích cực, đồng thời phản bác các quan điểm sai trái, không đúng sự thật đăng trên các trang mạng xã hội, góp phần định hướng dư luận, làm ổn định tình hình trước những sự kiện, sự việc được nhiều người quan tâm trên mạng xã hội... góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đấu tranh vẫn còn những hạn chế, chưa ngăn chặn được triệt để các thông tin xấu, độc trên không gian mạng. Để tăng cường công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng, trong thời gian tới, Ban Chỉ đạo 35 của tỉnh cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là: Tập trung xây dựng, phát triển lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch từ tỉnh đến cơ sở. Tổ chức kiện toàn thành viên Ban Chỉ đạo 35, nhóm chuyên gia, lực lượng tham mưu giúp việc và đội ngũ cộng tác viên toàn tỉnh... bảo đảm mọi công việc được thực hiện xuyên suốt.

Hai là: Các đồng chí thành viên Nhóm Chuyên gia 35 cần chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao; thường xuyên theo dõi, nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trên internet; tích cực viết tin, bài, kịp thời đấu tranh, phản bác, vô hiệu hóa hoặc làm giảm thiểu tác hại của các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, bịa đặt trên internet, mạng xã hội.

Ba là: Lực lượng 35 toàn tỉnh tăng cường phối hợp, tham mưu triển khai thực hiện tốt việc tổ chức kết nối lực lượng; thường xuyên đăng tải, chia sẻ các thông tin chính thống, tích cực trên các phương tiện thông tin truyền thông, internet, mạng xã hội, nhất là đăng tải, chia sẻ những thông tin tích cực, đồng thời huy động lực lượng tham gia fanpage và group “Lạng Sơn 35” của Ban Chỉ đạo 35 cấp tỉnh và các trang, nhóm của cấp mình; tham gia các hoạt động đấu tranh, phản bác có hiệu quả thông tin xấu, độc, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên toàn địa bàn, trước mắt tập trung đấu tranh bảo vệ thành công kết quả Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và công tác chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng…

                                                                                                    T1

Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng để giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong giai đoạn hiện nay

 


Trong giai đoạn hiện nay, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hiện nay, không ít đảng viên có khuynh hướng xa rời chính trị, chạy theo những giá trị vật chất, lợi dụng chức quyền và cương vị công tác để tham nhũng, nhận hối lộ, làm giàu bất chính. Một bộ phận không nhỏ cán bộ sống buông thả, thực dụng, xa hoa, hưởng lạc, coi đồng tiền là trên hết; tình trạng tham nhũng trong cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, trở thành vấn đề nhức nhối của Đảng, của toàn xã hội, làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng; xem đây là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách có hiệu quả.

Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện chặt chẽ hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, không tạo ra kẽ hở để cho những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thoái hóa, biến chất lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng, lãng phí.

Thứ hai, thực hiện tốt công tác cán bộ. Một mặt, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là gốc của mọi công việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Mặt khác, tham nhũng lại chủ yếu do người có chức vụ đã lợi dụng quyền hạn để trục lợi, tham nhũng, diễn ra ở “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp”.

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Đây là nhân tố quan trọng bảo đảm thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ gìn sự trong sạch về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, góp phần quan trọng để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

Thứ tư, Đảng phải nêu gương. Các tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tiên phong, gương mẫu trong đạo đức và lối sống, kết hợp hài hòa giữa lợi ích riêng và lợi ích chung; khi lợi ích riêng mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Đây là nhân tố góp phần tạo nên uy tín của cán bộ, uy tín của Đảng với nhân dân và góp phần bảo đảm vị thế cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nếu Đảng không vững vàng về chính trị, không chặt chẽ về tổ chức, không trong sạch về đạo đức, lối sống thì không thể đủ năng lực, uy tín để lãnh đạo cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, và “muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

          T1

Tăng cường đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa hiện nay

 


Chiến lược “diễn biến hoà bình” là âm mưu cực kỳ thâm độc của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá – xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, trong đó lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận, văn hoá được các thế xác định là khâu đột phá.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng  làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”. Đấu tranh chống “DBHB” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở Việt Nam diễn ra ngày càng quyết liệt, là mặt trận nóng bỏng hàng đầu. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này phải có các giải pháp đồng bộ nhằm tạo ra sức đề kháng trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch, cơ hội; trên cơ sở đó tạo ra sự thống nhất cao về chính trị - tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trước hết, cần kiên định và đẩy mạnh việc nghiên cứu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở khoa học cho cuộc đấu tranh chống “DBHB” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

Hai là, thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, giáo dục cho nhân dân nắm chắc âm mưu thủ đoạn tiến hành “DBHB” của các thế lực thù địch.

          Ba là, xây dựng và phát huy lực lượng nòng cốt trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. 

          Bốn là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, phát huy vai trò cơ quan chức năng, tăng cường phối kết hợp trong đấu tranh chống “DBHB” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

                                                                                                              T1