Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2025

Nhận diện và đấu tranh với những thủ đoạn chống phá chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước

 Chính sách công là một trong số những công cụ hữu hiệu, là thước đo sự thành công của hoạt động quản lý Nhà nước. Thời gian qua, Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều chính sách mới với mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 

Một số thủ đoạn xuyên tạc chính sách mới của Nhà nước

Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện một số quy định mới như Nghị định 168/2024/NĐ-CP (Nghị định 168), Nghị định số 70/2025/NĐ-CP (Nghị định 70), trong dư luận xã hội có những quan điểm, ý kiến chưa đồng nhất, việc triển khai bộc lộ những khó khăn về hạ tầng, kỹ thuật, về thói quen, phong tục tập quán của người dân.

Tại diễn đàn Quốc hội, quá trình thảo luận, thông qua các dự án luật (như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP); Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt…), do có các ý kiến chưa đồng nhất dẫn đến hiện tượng một bộ phận người dân, doanh nghiệp bày tỏ sự băn khoăn, lo lắng. Lợi dụng vấn đề này, các đối tượng phản động, cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam đã tìm cách “ngụy tạo chứng cứ”, “bới lông tìm vết”, ráo riết tuyên truyền theo dạng “đánh bùn sang ao”, kích động tư tưởng bất mãn, chống đối trong dư luận xã hội. 

Thực tế cho thấy, sau 6 tháng Nghị định 168 được thi hành đã bước đầu ăn nhập vào đời sống, tạo nên sức răn đe để người dân chấp hành pháp luật về giao thông kỷ cương hơn, văn minh hơn. Tương tự, Nghị định số 70 hay Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế giá trị gia tăng… sau khi ban hành đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận bởi tính kịp thời, đúng đắn, phù hợp nhằm triển khai chính sách thuế mới, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nạn hàng giả, hàng nhái, hàng lậu vốn là vấn đề nhức nhối.

Không chịu nhìn nhận sự thay đổi tích cực, tiến bộ của xã hội Việt Nam, các đối tượng xấu cố tình “bới lông tìm vết”, tái diễn chiêu trò “đánh bùn sang ao”, “lập lờ đánh lận con đen”, bóp méo sự thật, thêm thắt, cắt xén thông tin về các quy định pháp luật khiến người dân hiểu sai vấn đề, tạo ra sự lo lắng, hoang mang hoặc bức xúc, tiêu cực. Mới đây, trên trang tin của tổ chức Việt Tân tiếp tục đưa ra những thông tin xuyên tạc khi cho rằng: “Nghị định 168 cướp bóc người tham gia giao thông là một hành động “ngăn sông”, Nghị định 70 cướp bóc các tiểu thương là một hành động “cấm chợ””… Từ đó, chúng bôi nhọ, xuyên tạc về khái niệm kỷ nguyên mới với những luận điệu như “thực chất cái gọi là “kỷ nguyên mới” là chính sách ngăn sông, cấm chợ thời hiện đại!”.

Chúng còn phán xét một cách vô căn cứ rằng “Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là hành động núp dưới danh nghĩa vì sức khỏe cộng đồng và môi trường nhưng trên thực tế, đây là một bước leo thang trong chính sách tận thu từ đời sống dân thường, khi cả việc “uống nước giải khát” hay “tránh nóng” cũng bị liệt vào hàng xa xỉ”...

Tái diễn chiêu trò “bình cũ rượu mới”, nếu như luận điệu chống phá Nghị định 168 đã trở nên sáo mòn thì nội dung xuyên tạc Nghị định 70 và Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt lại đang có sức nóng đối với dư luận xã hội. Các đối tượng đã xảo trá tìm cách lợi dụng những thay đổi, tác động trực diện từ chính sách thuế mới đến đời sống, nhất là những vấn đề nhạy cảm liên quan đến sinh kế của người dân để xuyên tạc, gieo rắc tâm lý ngờ vực, đánh tráo khái niệm với những thuật ngữ nhạy cảm như “ngăn sông, cấm chợ”, “tận thu”… 

Sau khi các bài viết trên được phát tán trên không gian mạng, số “chân rết” nhanh chóng vào bình luận, chia sẻ theo dạng “té nước theo mưa”. Chúng còn sử dụng các phần mềm kỹ thuật, tạo vô số những bình luận gắn với các tài khoản ảo, tạo ra làn sóng dư luận cổ xúy quan điểm cực tiêu cực, tấn công các mục tiêu là hệ thống chính sách mới của Đảng, Nhà nước liên quan đến lĩnh vực thuế. Qua đó tạo sự đối kháng, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. 

Xuất phát từ tư tưởng hận thù, thiếu thiện chí, tất yếu chúng không bao giờ muốn nhìn thấy một Việt Nam phát triển hùng cường, xã hội có kỷ cương, kỷ luật nên cố tình xuyên tạc, phủ nhận những kết quả tích cực và tạo ra những luồng thông tin, dư luận xấu, bôi đen hiện thực xã hội. Thủ đoạn chống phá đó ảnh hưởng đến việc thực thi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; đồng thời tạo “chiến tranh tâm lý” gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước, kích động mâu thuẫn, xung đột xã hội, kêu gọi người dân tẩy chay chính sách, chống lại lực lượng thực thi nhiệm vụ. Đây chính là bản chất của các đối tượng chống đối chính trị và tất nhiên không hề mang tính “xây dựng”, “hiến kế” như những lời nói mĩ miều mà chúng vẫn thường xuyên rêu rao trên không gian mạng hòng lừa bịp người dân. 

Việc mở các chiến dịch “truyền thông bẩn” chống phá chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước là một dạng của hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, làm tiền đề kích động, kêu gọi người dân tụ tập đông người, biểu tình phản đối. Nếu yêu sách không được đáp ứng, chúng sẽ tìm cách “đổ thêm dầu vào lửa”, kích động những người có tâm lý tiêu cực, nhẹ dạ cả tin thực hiện hành động leo thang, quá khích như tấn công trụ sở chính quyền, lực lượng chức năng hoặc tổ chức biểu tình nhằm gây rối an ninh, trật tự; kích động bạo loạn theo cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” hòng lật đổ chính quyền nhân dân. 

Không thể phủ nhận giá trị tích cực từ các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước

Đất nước ta đang hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đây là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải có sự bứt phá mãnh liệt. Để đạt được mục tiêu đó, việc phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại là điều tất yếu khách quan. Do đó, điều kiện cần là quy định pháp luật phải nghiêm minh, điều kiện đủ là người dân ngày càng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.

Khi Nghị định 70 có hiệu lực, khó có thể tránh được quá trình thích nghi, ăn nhập với đời sống của một bộ phận người dân, nhất là việc xử lý mạnh tay với nạn hàng giả, hàng nhái, hàng lậu có thể trong thời gian ngắn sẽ ảnh hưởng đến một bộ phận tiểu thương và nhu cầu mua sắm của người dân.

Tuy nhiên về lâu dài thì người tiêu dùng sẽ được sử dụng hàng đúng chất lượng, các nhà sản xuất uy tín có điều kiện để phát triển; quá trình kinh doanh sẽ ngày càng minh bạch, lành mạch rõ ràng, không có cơ hội cho hàng giả, hàng nhái, không có nguồn gốc hoành hành. Vấn đề này được đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nêu tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, trong đó Tổng Bí thư đã chỉ rõ nhiều cửa hàng đóng cửa vì kinh doanh hàng giả chứ không phải vì chính sách thuế như một số phương tiện truyền thông thiếu thiện chí rêu rao. Và với cách quản lý mới, các tiểu thương, doanh nghiệp sẽ hoàn thành nghĩa vụ thuế cho nhà nước, góp phần làm cho đất nước ta càng giàu, mạnh hơn. Cho nên việc ban hành, triển khai chính sách thuế mới là cần thiết, bảo đảm công bằng, minh bạch giữa các cá nhân, hộ kinh doanh, đây cũng là xu thế tất yếu của nền kinh tế hội nhập, buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết hợp tác quốc tế.

Việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với một số mặt hàng như nước ngọt, thuốc lá… cũng được dư luận đồng tình ủng hộ cao, góp phần phòng ngừa những tác hại, tác động tiêu cực đến sức khỏe của người dân, đặc biệt là với nước ngọt khi lượng đường trong thực phẩm đã được chứng minh là nguyên nhân gây ra các loại bệnh tật mạn tính nguy hiểm, phá hủy sức khỏe của cộng đồng. Trong khi đó, đối tượng sử dụng nhiều nhất chính là trẻ em, học sinh, thanh niên… Đây chính là thế hệ sau này trở thành tương lai của đất nước, do đó phải bảo đảm để các em thật sự khỏe mạnh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. 

Thực tế khách quan trên là minh chứng sống động phản bác các luận điệu lệch lạc mà những kẻ chống phá thường rêu rao. Việc phán xét vô căn cứ, thiếu thiện chí như vậy đã cho thấy rõ hơn bộ mặt xảo trá, thù địch của các tổ chức thù địch, phản động. Chính vì vậy, sau khi các bài viết chống phá đăng tải trên trang web của Việt Tân đã nhận vô số những lời phê phán, lên án từ cộng đồng mạng cho dù số tay chân đã nỗ lực hướng lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực. Điều đó đã chứng tỏ sự thật không thể phủ nhận, đó là những quan điểm lệch lạc, sai trái của Việt Tân từ lâu đã không còn giá trị dẫn dắt dư luận, ngược lại bị người dân phản ứng mạnh mẽ. Xu hướng này là sự tất yếu của tiến bộ xã hội khi nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao, sự am hiểu về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật được hoàn thiện, tạo ra sức đề kháng tốt hơn để người dân phân biệt được mặt tốt, mặt xấu, tin thật, tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng.

Tuy nhiên, với mục tiêu phá hoại các chính sách của Đảng, Nhà nước không hề thay đổi, chúng vẫn triệt để sử dụng các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ Việt Nam. Do đó, bên cạnh việc chủ động hoàn thiện thể chế, chính sách, các cơ quan, ban ngành chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giúp cho quần chúng nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài cảnh giác, nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; nhận diện các thông tin xấu, độc, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, tham gia đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc. Khuyến cáo người dân không tin, không nghe những thông tin trái chiều, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội, chủ động theo dõi các trang tin chính thống của Đảng, Nhà nước, tránh bị kích động, xúi giục tham gia các hoạt động chống phá; không chia sẻ các thông tin sai sự thật, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội. Tiếp tục hiến kế để góp phần điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế của chính sách pháp luật, góp phần xây dựng một xã hội văn hiến – văn minh – hiện đại, tạo đà xây dựng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển thịnh vượng.

Nhận diện những luận điệu xuyên tạc truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc

 Tri ân các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng thể hiện truyền thống quý báu, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Thế nhưng lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc hòng phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước và những kết quả trong chăm lo người có công với cách mạng.

Mỗi khi tháng Bảy về, cả nước thành kính tưởng nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ và đồng bào đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc cũng là lúc những luận điệu chống phá, xuyên tạc lại nổi lên. Các thế lực thù địch và phần tử bất mãn rêu rao những luận điệu xuyên tạc rằng, sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ là vô nghĩa vì “bị thế hệ ngày nay lãng quên”! Chúng lợi dụng một số vướng mắc trong việc thực hiện chế độ, chính sách, nhất là những vụ việc làm trái, ảnh hưởng đến quyền lợi đối với người có công để kích động, nói xấu Đảng, Nhà nước “để tham nhũng hoành hành, không quan tâm đến thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng”; “những người trước kia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nay đất nước hòa bình họ bị bỏ rơi”; “chính quyền bỏ mặc các gia đình liệt sĩ, thương, bệnh binh “sống chết mặc bay””. Từ đó, chúng hạ thấp, phủ nhận vai trò và những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước trong công tác chăm lo đời sống các gia đình chính sách.

Không dừng lại ở đó, các đối tượng phản động còn kêu gọi, tập hợp những người bất mãn để lập ra các câu lạc bộ, hội, nhóm cựu chiến binh, từ đó kích động biểu tình, viết thư ngỏ đòi yêu sách, gây rối an ninh trật tự. Một số cá nhân tự nhận là “nhà dân chủ”, “nhà nhân quyền”, mượn danh cái gọi là “nhân sĩ, trí thức” lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ để đẩy mạnh hoạt động chống phá, đi ngược lại đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vi phạm pháp luật và kỷ cương xã hội, trái với truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam.

Các phần tử cơ hội còn bẻ lái rằng, nếu không có cuộc “nồi da nấu thịt” thì các giá trị “tự do”, “dân chủ” đã hình thành ở Việt Nam, miền Nam Việt Nam thật sự phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản hiện nay. Thông qua đó, chúng đòi xét lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đồng nhất sự hy sinh của lực lượng cách mạng với những kẻ phản cách mạng. Chúng cố tình đánh đồng công lao của các anh hùng liệt sĩ, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân với những người chống lại cách mạng, thậm chí đòi vinh danh chế độ tay sai trước đây. Các đối tượng xấu cố tình bẻ lái, xuyên tạc những hy sinh, mất mát của các anh hùng, liệt sĩ, thương bệnh binh là do cảnh  “huynh đệ tương tàn”, đòi quy trách nhiệm với Đảng, Nhà nước, những đồng chí lãnh đạo trước đây. Những kẻ này tiếp tục xuyên tạc, kích động thông qua các bài viết, video clip lập lờ đánh tráo giá trị, đổi trắng thay đen, đưa ra kiến nghị phải công nhận thương binh, liệt sĩ cho cả những tử sĩ của chính quyền phản cách mạng.

Trên một số hội nhóm, các thế lực thù địch kêu gọi hủy bỏ Ngày Thương binh – Liệt sĩ 27/7, phủ nhận những cống hiến quên mình của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bác bỏ các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công. Những đối tượng này triệt để sử dụng không gian mạng để đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền xuyên tạc. Những luận điệu trên không phải là chiêu trò mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, việc lặp đi lặp lại luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sự hy sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ, thương binh, người có công với đất nước là đi ngược truyền thống dân tộc, gây những phân tâm trong dư luận. Chúng rêu rao luận điệu sai trái hòng tạo ra nhận thức lệch lạc, làm suy giảm lòng tin của một bộ phận quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ; gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phủ nhận sự hy sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ, khoét sâu vào mất mát, nỗi đau chiến tranh, gây tổn thương đến thân nhân gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng. Đồng thời, chúng cố tình làm suy yếu truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, làm giảm sự chung tay của toàn xã hội trong việc chăm lo người có công và gia đình chính sách.

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tác của các thê lực phản động về tinh gọn bộ máy

Chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy là một bước đi chiến lược quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các thế lực phản động và cơ hội chính trị đã lợi dụng để xuyên tạc, tung ra luận điệu sai trái như “tinh gọn bộ máy là bước lùi,” nhằm gây hoài nghi và chia rẽ trong dư luận. Bài viết này sẽ làm rõ bản chất của những luận điệu xuyên tạc đó.

 Cải cách bộ máy hành chính nhà nước là yêu cầu cấp bách trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó tinh gọn bộ máy được xác định là trọng tâm then chốt. Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Trung ương khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.” Đây là chủ trương lớn, bước tiến chiến lược thể hiện tư duy đổi mới sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, xuất hiện không ít luận điệu sai lệch, xuyên tạc rằng “tinh gọn bộ máy là bước lùi của sự phát triển, bước lùi về lịch sử – văn hóa.” Đây là luận điệu sai trái, lệch lạc về nhận thức, mang tính kích động, bóp méo bản chất cải cách, làm suy yếu niềm tin chính trị và cản trở bước tiến của đất nước trước ngưỡng cửa phát triển mới.

Chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà nước là bước đi chiến lược, thể hiện tư duy cải cách quyết liệt, nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển thời đại mới. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, đã xuất hiện những luận điệu xuyên tạc tinh vi, núp bóng “lo lắng cho dân, giữ gìn truyền thống” để gieo rắc hoài nghi, chống phá bằng cách đánh vào nhận thức và cảm xúc của một bộ phận quần chúng. Hai ngụy biện nổi bật nhất là: “Tinh gọn là bước lùi của sự phát triển” và “Tinh gọn là bước lùi về lịch sử – văn hóa.”

Thứ nhất, luận điệu “tinh gọn là bước lùi của sự phát triển” thực chất là đánh tráo khái niệm. Những người này lấy hiện tượng cục bộ, tạm thời trong quá trình sắp xếp tổ chức để suy diễn, quy chụp sai bản chất cải cách. Ví dụ, họ chỉ ra rằng sau tinh gọn bộ máy, số lượng cán bộ không giảm mà thậm chí còn tăng, lương cao hơn, từ đó kết luận rằng tinh gọn chỉ là đổi tên, đánh bóng hình thức. Lập luận này đánh đồng bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức, chất với lượng, cố tình phóng đại vài trường hợp cục bộ để phủ nhận toàn bộ chiến lược đổi mới. Thực tế, tinh gọn tổ chức bộ máy nhằm tăng cường hiệu năng, hiệu quả và sự đồng bộ trong vận hành hệ thống chính trị.

Thứ hai, luận điệu cho rằng tinh gọn là “bước lùi lịch sử – văn hóa” khai thác tâm lý hoài cổ và cảm xúc văn hóa của một số bộ phận người dân. Họ cho rằng việc sáp nhập đơn vị hành chính đồng nghĩa với việc xóa bỏ địa danh lịch sử, xóa truyền thống. Tuy nhiên, đây là sự nhầm lẫn tai hại giữa tổ chức hành chính và di sản văn hóa. Văn hóa không nằm ở tên gọi hay địa giới hành chính, mà được định hình bởi lối sống, giá trị, truyền thống và ý thức cộng đồng, vốn được bảo tồn bằng nhiều hình thức khác nhau. Cái cớ “bảo vệ bản sắc” đã bị lợi dụng như vỏ bọc cảm xúc để cản trở tiến trình đổi mới.

Cả hai luận điệu trên đều là thủ đoạn ngụy biện có chủ đích, nhằm chống phá Đảng và Nhà nước trong việc triển khai chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy. Chúng đánh tráo bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức, số lượng với chất lượng, một cái bẫy tư duy cổ điển nhưng hiểm độc. Thực tiễn đã chứng minh, số lượng đông không đồng nghĩa với sức mạnh hay hiệu quả. Trong một cỗ máy, không phải càng nhiều bánh răng thì vận hành nhanh hơn, mà quan trọng là sự đồng bộ, ăn khớp và hiệu suất tối ưu. Bộ máy hành chính cũng vậy: nếu đông nhưng chồng chéo, trùng lặp, phân quyền lỏng lẻo sẽ gây ra trì trệ, quan liêu, lãng phí, vô trách nhiệm – trở thành gánh nặng cho nhân dân, lực cản cho phát triển.

Tương tự, sáp nhập đơn vị hành chính không đồng nghĩa với việc xóa bỏ truyền thống hay làm mai một bản sắc văn hóa. Luận điệu đó đánh đồng sai lệch địa giới hành chính với không gian văn hóa, tên gọi với căn cốt nền nếp cộng đồng. Văn hóa không nằm trong ranh giới hành chính mà tồn tại trong con người, di sản tinh thần được bồi đắp, gìn giữ và truyền nối qua các thế hệ. Vì vậy, luận điệu cho rằng tinh gọn bộ máy là “xóa sổ văn hóa” chỉ là mưu đồ chính trị ngụy trang dưới vỏ bọc cảm xúc hoài cổ, nhằm phá hoại niềm tin nhân dân vào công cuộc cải cách, tạo mâu thuẫn giả tạo giữa hiện đại và truyền thống, giữa đổi mới và gìn giữ.

Trên thực tế, chỉ khi tổ chức bộ máy hiệu quả, quản trị tinh gọn và nguồn lực phân bổ hợp lý thì mới có điều kiện bảo tồn di sản văn hóa một cách bền vững và sâu sắc. Gọi “tinh gọn là bước lùi” chính là lấy sự cồng kềnh làm chuẩn mực, trì trệ làm thước đo phát triển – một ngụy biện phi khoa học, phi thực tiễn, thể hiện tư duy lạc hậu cần được đấu tranh, vạch trần và bác bỏ quyết liệt.

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2025

Một số luận điệu xuyên tạc về hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp

Từ ngày 1/7/2025 hoạt động của chính quyền địa phương hai cấp trong cả nước đã đã đồng loạt bước vào vận hành. Đây là sự kiện lịch sử vô cùng đặc biệt trong tiến trình dân tộc bước vào kỷ nguyên mới phát triển phồn vinh, thịnh vượng.Tuy nhiên, trên các nền tảng mạng xã hội, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị không ngừng tìm cách xuyên tạc, bóp méo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Mục đích của chúng là phủ nhận chính sách đúng đắn này, gây hoang mang dư luận và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, chúng ta phải không ngừng cảnh giác, nâng cao nhận thức, đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái này.

Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy là chủ trương lớn, đúng đắn và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước, tạo tiền đề để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Chủ trương này nhận được sự đồng thuận và ủng hộ rộng rãi từ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Sự ủng hộ này chính là nền tảng tinh thần vững chắc để Đảng và Nhà nước kiên quyết thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Song, với mục đích chống phá, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã và đang lợi dụng để phát tán nhiều luận điệu xuyên tạc, sai trái hòng gây hoang mang dư luận, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Đáng chú ý là các trang mạng phản động như Việt Tân, Chân Trời Mới Media, VOA Tiếng Việt, RFA… thường xuyên đăng tải thông tin sai lệch, công kích chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chúng cố tình gán ghép những luận điệu như việc sáp nhập nhằm "thanh trừng phe cánh", "tập trung quyền lực", hay "che giấu tiêu cực". Thậm chí, chúng còn vu cáo rằng Đảng và Nhà nước "không lấy ý kiến nhân dân", "không trưng cầu dân ý", nhằm bôi nhọ chính quyền và kích động tâm lý bất mãn trong nhân dân. Ngoài ra, chúng còn phát tán thông tin giả, thông tin sai sự thật, cắt ghép, bóp méo các phát ngôn của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhằm gây hiểu lầm trong nhân dân. Nhiều tài khoản ảo, kênh truyền thông trá hình chia sẻ, đăng tải thông tin sai sự thật với tần suất cao, liên tục, tạo hiệu ứng, lôi kéo sự tham gia của cộng đồng mạng khiến dư luận hoang mang.

Về thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, các thế lực thù địch xuyên tạc rằng chính quyền hai cấp là sự tập trung quyền lực, làm mất dân chủ ở cơ sở. Chúng cho rằng mô hình này là “bỏ cấp chính quyền”, làm suy yếu vai trò quản lý nhà nước tại cơ sở; công kích vào vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, cho rằng, việc tinh gọn bộ máy là biểu hiện của “sự yếu kém trong quản lý, điều hành của Đảng và Nhà nước”…

Chúng cho rằng người dân không được tham gia vào quá trình ra quyết định của chính quyền hai cấp. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề sáp nhập các đơn vị hành chính để kích động tư tưởng cục bộ, tạo ra tâm lý đối kháng với chính quyền, âm mưu phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra sự chia rẽ trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng dân cư. Chúng kích động tâm lý bất mãn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là lợi dụng các trường hợp cán bộ, công chức bị tinh giản biên chế hoặc kỷ luật; xuyên tạc về hiệu quả của việc tinh giản bộ máy. Các thế lực thù địch tập trung khai thác, thổi phồng các khó khăn trong quá trình thực hiện tinh gọn bộ máy, như: Thiếu hụt nhân sự trong bộ máy hành chính; khó khăn trong việc tái bố trí, sắp xếp công việc cho những người bị tinh giản; đời sống của một số cán bộ, công chức sau khi bị tinh giản gặp nhiều khó khăn, tinh gọn bộ máy là “làm suy yếu hệ thống chính trị”…

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

Nhận diện một số âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch phản động trên lĩnh vực văn hóa

 Trong thời gian qua, các thế lực thù địch ra sức mở rộng, đẩy mạnh việc công kích, xuyên tạc gây ra sự mâu thuẫn về nhận thức của nhân dân đối với đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng văn hoá, xây dựng con người Việt Nam. Đồng thời, tăng cường truyền bá các sản phẩm văn hoá ngoại lai, phản nhân văn tiến bộ, không phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc nhằm làm băng hoại đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những thủ đoạn trên nhằm mục tiêu làm xói mòn văn hoá truyền thống của dân tộc, thâm độc hơn là chúng dùng “đòn văn hoá” để từng bước chuyển sang tiến công về lĩnh vực chính trị nhằm từng bước hình thành tư tưởng chống đối về mặt chính trị, chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa. Có thể khái quát một số phương thức, thủ đoạn hiện nay như sau:

Một là, chúng xuyên tạc, bôi đen những giá trị văn hoá truyền thống, các chuẩn mực đạo đức, lối sống tốt đẹp trong đời sống xã hội đồng thời lợi dụng những chính sách hội nhập, giao lưu văn hoá và sự quản lý thiếu chặt chẽ của các cơ quan chức năng để truyền bá, du nhập văn hoá, lối sống phương Tây vào Việt Nam. Đó là lối sống thực dụng, vô cảm, chạy theo đồng tiền, vì lợi ích cá nhân mà sẵn sàng đạp lên những giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp; đó là bị tiêm nhiễm bởi những văn hoá phẩm đồi truỵ, trái thuần phong mỹ tục làm xói mòn bản sắc dân tộc, tác động vào tâm lý, đạo đức lối sống của người dân, nhất là thế hệ trẻ. Chúng cổ xuý cho lối sống vị kỷ, bản năng, suy đồi làm cho con người Việt Nam bị mất gốc, chạy theo lối sống tiêu cực, tệ nạn, có thể biến thành đồng loã, tay sai cho bọn phản động. Mặt khác, chúng còn chỉ đạo bọn cơ hội trong nước sản xuất những sản phẩm có nội dung tư tưởng độc hại, bôi nhọ nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Về lâu dài, những thủ đoạn trên gây ra tâm lý bất mãn, coi thường giá trị văn hoá dân tộc, phủ nhận những thành quả cách mạng của dân tộc. Thậm chí, những thủ đoạn trên còn tác động lớn đến một bộ phận cán bộ đảng viên, làm suy thoái về tư tưởng, đạo đức, ham quyền lực, danh lợi, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, hách dịch. Đây là thực trạng khá phổ biến hiện nay làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, là thứ “giặc nội xâm”, là một trong bốn nguy cơ cao đe doạ sự tồn vong của Đảng, của chế độ mà Đảng ta đã xác định.
Hai là, chúng đưa ra những luận điệu nhằm chống phá cơ sở nền tảng tư tưởng văn hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng trắng trợn xuyên tạc lịch sử, tung ra luận điệu Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam du nhập Chủ nghĩa Mác – Lênin vào là sai lầm, là gieo tai hoạ, nỗi bất hạnh cho nhân dân Việt Nam. Những thủ đoạn trên là nhằm mục đích thực hiện ý đồ chính trị nham hiểm là hạ bệ uy tín Hồ Chí Minh và những giá trị văn hoá Hồ Chí Minh, nhằm làm thay đổi chủ trương, đường lối về xây dựng nền văn hoá mà Đảng ta đã xác định. Từ đó, tiến tới xoá bỏ vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực văn hoá, coi văn hóa là tự do sáng tạo, không cần tính định hướng và xa rời chính trị; từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, chúng tìm cách mua chuộc, lôi kéo những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất trong bộ máy của hệ thống chính trị, sử dụng các phần tử này như là những công cụ đắc lực xuyên tạc và chống đối đường lối xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Chúng thổi phồng những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng đời sống văn hóa, con người, đồng thời phủ nhận những thành quả đạt được nhằm làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và chuẩn mực con người mới.
Bốn là, trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật cũng là một mũi dùi để các thế lực thù địch lợi dụng để phá hoại nền văn hoá của dân tộc ta. Chúng lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc một số văn nghệ sỹ, trí thức, biên tập viên làm “tay sai” để viết các tác phẩm không có lợi cho cách mạng, nói xấu, bôi nhọ các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc. Hầu hết các tác phẩm này được in ấn, xuất bản ở nước ngoài với sự tài trợ của các nhóm, thế lực công khai chống đối Đảng, Nhà nước ta. Bằng những chiêu thức quảng bá mang tính giật gân, câu khách, những tác phẩm này đã kích thích sự tò mò, chú ý của nhiều bạn đọc, tạo những nhận thức sai lệch về cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Không chỉ trong phạm vi văn chương mà trong các loại hình nghệ thuật khác, như âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, một số ca sĩ, nghệ sĩ cũng bị chi phối bởi cái nhìn lệch lạc, bị giật dây bởi các thế lực thù địch trong và ngoài nước, từ đó viết những ca khúc đi ngược lại giá trị chân - thiện - mỹ, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm chí mang tư tưởng phản động. Trong bối cảnh công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển như hiện nay, trên không gian mạng xuất hiện không ít sản phẩm mang tính đồi trụy, phản động.
Phương thức, thủ đoạn dùng văn học, nghệ thuật để cổ súy cho những tư tưởng phản động, sai trái không chỉ diễn ra ở trong nước mà bằng sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông hiện đại, truyền thông đa phương tiện ở nước ngoài, các thế lực thù địch đã mở nhiều chuyên trang về văn học, nghệ thuật gieo rắc những tư tưởng, quan điểm lầm lạc, gây những hệ lụy xấu trong nhận thức của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về lịch sử, truyền thống dân tộc, về lãnh tụ của đất nước. Theo thống kê của Bộ Công an, hiện ở nước ngoài có 52 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, mạng internet, 429 báo, tạp chí, trên 40 nhà xuất bản tập trung tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước ta. Hằng năm, có hơn 3.000 tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng, 28.000 thư ân xá quốc tế xâm nhập, tán phát qua con đường bưu điện quốc tế dưới dạng quà cáp, khoảng 11.000 ấn phẩm được đưa vào bằng nhiều con đường khác nhau.
Tình trạng các ấn phẩm, thông tin độc hại xâm nhập vào xã hội, gia đình ngày càng nhiều, gây hậu quả xấu đến đạo đức, lối sống, gây ảnh hưởng phức tạp đến đời sống tinh thần của nhân dân. Mục đích của chúng là làm thay đổi quan niệm, nhận thức của mọi người Việt Nam về các giá trị chân - thiện - mỹ, về quan niệm và quan điểm sáng tác, phục vụ của văn học nghệ thuật. Từ nội dung đến hình thức thể hiện, chúng lái theo quan điểm tư sản phương Tây, làm phai mờ dòng văn học nghệ thuật cách mạng, kháng chiến, xoá hình tượng người chiến sĩ cách mạng, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; tạo dựng lớp người cực đoan theo quan điểm “phi giai cấp”, đứng ngoài chính trị, xa lạ với chính trị của Đảng, của dân tộc.

Tỉnh táo nhận diện và kiên quyết vạch trần những quan điểm sai trái thù địch trên linh vực tư tưởng chống phá Đại hội XIV của Đảng

 

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, nhân loại cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức cần phải hợp tác giải quyết.

Trong nước, kinh tế có nhiều khởi sắc song còn khó khăn về nhiều mặt, chưa thể kịp thời tháo gỡ. Hạn chế, yếu kém cũ chưa được khắc phục triệt để. Khó khăn mới nảy sinh; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhóm lợi ích, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” vẫn còn diễn biến rất phức tạp, ngày càng tinh vi, khó nhận diện hơn; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đứng trước nhiều thách thức mới… Các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã lợi dụng những khó khăn, yếu kém còn tồn tại để đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta trên tất cả các lĩnh vực, nhất là thời điểm từ nay cho đến đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. 

Trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chúng tập trung vào xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên những nguyên lý, lý luận nền tảng, như: Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời đại ngày nay và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đấu tranh giai cấp, dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...

Lật sử, bôi xấu lãnh tụ, xuyên tạc thân thế, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xuyên tạc, vu cáo lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và các lực lượng vũ trang. Tạo dựng, bịa đặt, xuyên tạc lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, nhất là lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của Việt Nam. Xuyên tạc, bóp méo chủ trương,  của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục đích phủ nhận hoàn toàn nền tảng tư tưởng và cương lĩnh, đường lối, vai trò lãnh đạo của Đảng, luật pháp và vai trò quản lý của Nhà nước Việt Nam, phủ nhận, hướng lái, làm chệch hướng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, môi trường; các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại lớn mà Đảng, Nhà nước, Quốc hội, dư luận xã hội và nhân dân đang quan tâm nghiên cứu, tháo gỡ và giải quyết để xuyên tạc tình hình, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, gây mâu thuẫn, bất hòa, xung đột, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Tuyên truyền, hướng lái, thẩm thấu các tư tưởng dân chủ tư sản, nhất là tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, pháp quyền tư sản, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; truyền bá, áp đặt các giá trị “dân sinh”, “dân chủ”, “dân quyền”, “nhân quyền” tư sản; kích  động chủ nghĩa dân túy, xã hội dân sự, phong trào “bất tuân dân sự” ở Việt Nam.

Xuyên tạc tình hình đấu tranh bảo vệ nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển đảo của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang; phủ nhận đấu tranh bằng phương pháp hòa bình... 

Xuyên tạc, phủ nhận vai trò, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an; vai trò quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh. Bôi nhọ truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội; chuyển hóa, lôi kéo cán bộ, chiến sĩ và Quân đội từ bỏ nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội, thực hiện âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội, kích động “Quân đội chỉ phục tùng Hiến pháp, pháp luật, không phục tùng sự lãnh đạo của Đảng”. 

Đặc biệt, chúng sẽ tập trung chống phá công tác chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng như xuyên tạc các quan điểm, mục tiêu, chủ trương, định hướng lớn nêu tại dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng và Đại hội Đảng các cấp; xuyên tạc quan điểm, phương hướng và tình hình thực hiện chủ trương về công tác nhân sự. Tập trung tung tin sai sự thật, bôi nhọ, xuyên tạc phẩm chất, đạo đức, năng lực của các nhân sự bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ.

Trong công tác thông tin, tuyên truyền, chúng lợi dụng các sơ hở trong phát ngôn, báo chí, truyền thông của cá nhân, tổ chức trong nước… hòng phủ nhận, xuyên tạc, phát tán, thẩm thấu các tư tưởng, quan điểm sai trái, gây bất an, phân tâm về tư tưởng, gieo rắc sự hoài nghi, giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng thêm sự bất mãn và tinh thần chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Sử dụng các hình thức, thể loại văn học, bài chính luận, nghị luận, bình luận, phóng sự kết hợp với các loại công bố, tuyên bố, tuyên ngôn, thư ngỏ, thư kiến nghị, thơ văn, cắt xén hình ảnh, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI), video clip, nhạc chế; lấy Internet làm nền tảng, sử dụng các blog, website, dịch vụ điện tử (e-mail), các trang mạng xã hội Facebook, Zalo, các dịch vụ chat, nhắn tin, hội thoại, truyền thoại (VoIP), Twitter, Youtube, MySpace... để đăng tải, phát tán thông tin xấu độc, phản động. Chúng mở các chuyên trang, chuyên mục của tổ chức, cá nhân lập diễn đàn (forum) lôi kéo, tập hợp lực lượng; lấy các báo đài phát thanh, truyền hình ở nước ngoài làm phương tiện tiến công nhằm tạo ra các các luồng tư tưởng tiêu cực trên không gian mạng và trong xã hội, kích động các hành động biểu tình, gây rối, chống đối Đảng, Nhà nước, “bất tuân dân sự” , gây mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. 


Đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa

 Thời gian qua, lợi dụng mạng xã hội, các thế lực thù địch đã cắt ghép, tung nhiều hình ảnh, đưa ra những lời bình luận xuyên tạc về chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cũng như kết quả chúng ta đạt được.

Đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực quan trọng này là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Những luận điệu chống phá

Các thế lực thù địch cho rằng, chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng ta là viển vông, hay Đảng ta không quan tâm đến phát triển văn hóa, phát triển con người, có chăng cũng chỉ là hình thức, mị dân… Cùng với đó, chúng đẩy mạnh truyền bá văn hóa, lối sống thực dụng, vụ lợi cá nhân, núp dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do sáng tác”, “quyền thông tin” để kích động các quyền “tự do”, “dân chủ” trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng; tung ra những quan điểm sai trái, mập mờ về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; thay đổi, sắp xếp để xuyên tạc câu chữ, những lời phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa; lợi dụng các hoạt động giao lưu, hợp tác về văn hóa để thâm nhập, phá hoại văn hóa Việt Nam…

Điều dễ nhận thấy rằng, mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch không hề thay đổi, vẫn nhằm phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng của văn hóa; tiêm nhiễm làm xói mòn, lệch chuẩn văn hóa truyền thống, các giá trị đạo đức, nhân ái, nhân văn tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử; kích thích tâm lý, lối sống thực dụng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tiến tới đích cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Cơ sở để đấu tranh, phản bác

Nền văn hóa Việt Nam đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Nhận thức sâu sắc giá trị cốt lõi đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đây vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Chủ trương, đường lối của Đảng trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thể hiện rõ ở Nghị quyết số 05-NQ/TƯ, ngày 28-11-1987 của Bộ Chính trị (khóa VI) về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết số 03-NQ/TƯ, ngày 16-7-1998 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23-NQ/TƯ, ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”; Nghị quyết số 33-NQ/TƯ, ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[1] . Như vậy, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là chủ trương mang tầm chiến lược của Đảng, phù hợp với thực tiễn lịch sử và văn hóa Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới.

Tiếp tục nhấn mạnh chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”[2] .

Sau bài viết này, cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục thể hiện sự quan tâm sâu sắc của đồng chí đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các yếu tố truyền thống và hiện đại, bản sắc và hội nhập, tạo nguồn lực nội sinh và huy động sức mạnh của văn hóa, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán về đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam thời kỳ mới với niềm tin chắc chắn, rằng: “Nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho dân tộc, cho giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một dân tộc anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới”[3] .

Thực hiện chủ trương của Đảng, quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được những kết quả nhất định. Nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến hết năm 2018, Việt Nam có gần 3.500 di tích được xếp hạng quốc gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt, 12 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị đang được bảo quản, trưng bày tại hệ thống 166 bảo tàng; gần 8.000 lễ hội được lưu truyền gắn với nhiều phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng nghề thủ công, văn hóa ẩm thực, trang phục... Trong đó, nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng nhằm bảo đảm tính đa dạng, phong phú về sắc thái văn hóa của các vùng, miền trên cả nước. Những con số này tiếp tục tăng lên trong các năm 2023, 2024.

Cùng với đó, văn hóa trong chính trị và trong kinh tế ngày càng được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Các loại hình, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành.

Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã được biểu dương, lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới, góp phần quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa và các giá trị tiến bộ của văn hóa nhân loại để bồi đắp và xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Thực tiễn đó là câu trả lời đanh thép, bác bỏ tất cả những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những giải pháp cấp bách

Trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù địch, việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần tiếp tục đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Đồng thời, cả hệ thống chính trị cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Đặc biệt là tích cực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, trọng tâm là những luận điệu xuyên tạc, bóp méo về chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong tình hình hiện nay là phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi lẽ, nền văn hóa ấy là những giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành cốt cách, nền tảng vững chắc của dân tộc Việt Nam và là yếu tố bảo đảm cho đất nước ta trường tồn và phát triển, phồn vinh, hạnh phúc!

Nhận diện một số thủ đoạn của các thế lực phản động xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh

 Di sản Hồ Chí Minh mang tính phổ quát, bền vững, vượt thời đại và vẹn nguyên tính thời sự. Chính vì thế, các thế lực thù địch luôn xem di dản của Người là một mục tiêu, trọng tâm chống phá. Việc nhận diện bản chất, bóc trần các âm mưu, thủ đoạn, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc về di sản Hồ Chí Minh, qua đó góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, củng cố địa vị chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng ta trong đời sống tinh thần xã hội có vai trò quan trọng.

Số tổ chức, cá nhân chống phá thường khoác áo “khách quan khoa học”, đội lốt “phản biện xã hội”, thậm chí họ mượn danh nghĩa “nhà nghiên cứu lý luận” hay núp bóng “nhà dân chủ”, “nhà nhân quyền” để ngụy biện tuyên truyền, đánh tráo học thuật, xảo biện các vấn đề cốt lõi trong di sản Hồ Chí Minh. Họ chống phá di sản Hồ Chí Minh cả về tư tưởng, đạo đức, phong cách, thân thế, sự nghiệp cách mạng của Người. Về tư tưởng, họ coi những luận điểm về chính trị, cách mạng của Người chỉ là bản sao của chủ nghĩa Mác - Lênin, vay mượn, cộng gộp các tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Về đạo đức, số đối tượng xấu coi đạo đức của Người chỉ là “chủ nghĩa khổ hạnh” không thể học tập, làm theo. Về phong cách, họ phớt lờ tác phong, lề lối, phương pháp cách mạng, khoa học của Hồ Chí Minh.                       

Về thân thế, các đối tượng xấu bịa đặt, tung tin sai lệch, thất thiệt, bôi nhọ đời tư của Người.

Họ ra sức phủ nhận sự tồn tại của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải nhà tư tưởng để hạ thấp di sản của Người. Một số đối tượng chống phá lại giả vờ “tôn vinh”, “tuyệt đối hóa” di sản văn hóa Hồ Chí Minh bằng cách so sánh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, hiện chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là có giá trị. Từ đó, đòi tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất đây chính là thủ đoạn vờ “đề cao” bên này để “hạ bệ” bên kia nhằm đả kích, chống phá bởi chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ đạo làm nên bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn cố tình cắt xén những câu nói, phát biểu, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra khỏi bối cảnh lịch sử để làm sai lệch tư tưởng của Người. Họ đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phần tử chống phá cũng phủ nhận sự cần thiết, tính hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngoài ra, họ còn đưa ra yêu sách vô lý, trắng trợn đòi từ bỏ việc bảo tồn di tích, bảo tàng có liên quan đến Người.

Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt của Internet, mạng xã hội với tốc độ chia sẻ nhanh, độ tương tác rộng hay sử dụng hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài biến thành công cụ đắc lực phục vụ cho mưu đồ chống phá. Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn chống phá ở chỗ: các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng chiêu bài “thao túng tâm lý”; tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi về lãnh tụ của cách mạng Việt Nam hòng gây hoang mang, dao động, làm lung lay niềm tin, giảm sút tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; tìm cách triệt tiêu động lực, khí thế, quyết tâm của hệ thống chính trị, toàn xã hội trong đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Từ khi Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cũng là lúc các thế lực thù địch tập trung chống phá di sản văn hóa Hồ Chí Minh quyết liệt. Thấy rõ di sản văn hóa Hồ Chí Minh là linh hồn, là tài sản vô giá của Đảng, của dân tộc và nhân dân Việt Nam nên các các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị muốn phá hủy tận gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ biểu tượng Hồ Chí Minh trong trái tim, khối óc của nhân dân Việt Nam. Nhưng dù có dùng mọi chiêu trò chống phá vẫn không thể phủ nhận giá trị to lớn, sức sống trường tồn của di sản Hồ Chí Minh.

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh

 Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng. Thấy rõ giá trị, sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị không ngừng tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng của Người.

Nhận diện luận điệu sai trái, xuyên tạc

Một trong những luận điệu nguy hiểm mà các thế lực thù địch xuyên tạc là cho rằng Hồ Chí Minh không phải nhà tư tưởng, không có tư tưởng hoặc nếu có thì đó chỉ là những quan điểm rời rạc, thiếu hệ thống, không đủ tầm vóc để gọi là một hệ tư tưởng.

Các đối tượng thù địch thường nguỵ biện rằng, Hồ Chí Minh là người hoạt động thực tiễn, không viết lý luận theo nghĩa hàn lâm, không có hệ thống học thuyết riêng như C.Mác, Ph.Ăngghen hay Lênin. Họ lý sự rằng, ở Hồ Chí Minh không có các tác phẩm lý luận tầm cỡ và vì bản thân Hồ Chí Minh cũng tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng nên quy kết “không có khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Bên cạnh đó, một số kẻ đội lốt “nhà phản biện”, “nhà nghiên cứu”, “nhà khoa học” còn cố tình ngụy biện rằng Hồ Chí Minh chỉ là người “sao chép” chủ nghĩa Mác - Lênin, không có sự sáng tạo gì mới nên không thể gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Ở đây không đơn thuần là sự hoài nghi học thuật mà là các thế lực thù địch, phản động âm mưu nhằm hạ bệ biểu tượng tư tưởng cách mạng, tạo ra khoảng trống lý luận để tung quan điểm lệch lạc, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là trong thế hệ trẻ. Họ muốn phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh để từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận chế độ XHCN, thúc đẩy mô hình “đa nguyên, đa đảng”. Đây là chiêu bài chính trị quen thuộc nhưng rất nguy hiểm. Những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học được lặp đi, lặp lại, nhất là trong dịp kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đối tượng lại tìm cách “khuấy” lên dưới nhiều chiêu trò như toạ đàm, hội luận, phỏng vấn, phân tích...

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và CNXH với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phát triển nhiều luận điểm mới, phù hợp và sáng tạo. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin tập trung vào đấu tranh giai cấp ở phương Tây thì Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc và giải phóng thuộc địa. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập nhiều về vai trò của giai cấp vô sản thì Hồ Chí Minh nhận thấy vai trò to lớn của nông dân và các tầng lớp bị áp bức trong xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.

Tư tưởng không nhất thiết phải được thể hiện bằng những bộ sách đồ sộ hay khái niệm trừu tượng, hàn lâm mà có thể hiện diện qua các tác phẩm chính luận, bài viết, bài nói, hành động và trên hết là qua sự chỉ đạo đúng đắn và hiệu quả đối với thực tiễn cách mạng. Các nhà khoa học chỉ rõ rằng, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng theo đúng nghĩa của một nhà cách mạng hành động, nơi mà lý luận luôn được kiểm chứng và phát triển qua thực tiễn sôi động của Người. Do đó, không thể nguỵ biện rằng, ở Hồ Chí Minh không có các tác phẩm lý luận tầm cỡ và vì bản thân Hồ Chí Minh cũng tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, từ đó đưa ra quan điểm sai trái, phủ nhận tư tưởng của Người.

Thế giới đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi

Các nhà khoa học trong nước và quốc tế đã khẳng định, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, bởi Người có sự chuẩn bị kỹ càng về lý luận, có khả năng dự báo, xác định đúng hướng đi cho phong trào của quần chúng khi đang còn tự phát. Có tầm nhìn chính trị bao quát, rộng mở để giải quyết những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng. Có khả năng tổ chức thành lập một chính đảng cách mạng để quy tụ, tập hợp quần chúng để đấu tranh. Có khả năng vượt qua những khó khăn, thử thách để thực hiện tư tưởng của mình trong thực tiễn cách mạng.

Người đã có rất nhiều tác phẩm lý luận thể hiện tư duy sâu sắc, nhất quán và mang tính hệ thống về cách mạng Việt Nam. Trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh có rất nhiều tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu những sự kiện quan trọng gắn liền với những bước ngoặt trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Năm 2021, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản bộ sách “Hồ Chí Minh toàn tập” (15 tập).

Bộ sách tập hợp khoảng 3.300 tác phẩm, bài nói, bài viết, điện, thư... của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1912 đến năm 1969 đã được xác minh và thẩm định, cung cấp nhiều tư liệu làm sáng tỏ sự nghiệp, những giá trị lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó phải kể đến năm tác phẩm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh - năm di sản đã được công nhận là bảo vật quốc gia: “Đường Kách mệnh” (1927), “Nhật ký trong tù” (1942-1943), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946), “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước” (17/7/1966) và “Di chúc” (10/5/1965-19/5/1969).

Năm tác phẩm tiêu biểu được xếp hạng bảo vật quốc gia cũng như toàn bộ di sản của Người có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn cụ thể, là kim chỉ nam, mang giá trị định hướng trường tồn. Đó không phải là những mảnh ghép rời rạc như luận điệu các thế lực xấu mà là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế. Đồng thời, minh chứng cho những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách mạng thế giới, sự cống hiến của Người vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã chứng minh tính đúng đắn và sức sống mạnh mẽ của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đã dẫn dắt nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, bảo vệ và thống nhất đất nước, xây dựng XHCN, đưa đất nước tiến lên hiện đại. Không chỉ có giá trị trong lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang tính thời đại sâu sắc, tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là minh chứng sinh động cho giá trị khoa học, giá trị cách mạng và giá trị nhân văn cao cả của một tư tưởng vĩ đại.

Đại hội XI (2011), Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Định nghĩa này không chỉ mang tính lý luận sâu sắc mà còn thể hiện sự đúc kết từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Điều này đủ sức bác bỏ quan điểm cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn không có hệ thống lý luận độc lập.

Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”.

Ghi nhận những đóng góp, cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh cho tư tưởng, văn hóa của dân tộc Việt Nam, cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới, UNESCO đã ban hành Nghị quyết khẳng định giá trị, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh và tư cách nhà tư tưởng của Người. Nghị quyết ghi nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

Chính các học giả, nhà nghiên cứu quốc tế đã thừa nhận và ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh như một hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn không chỉ ở Việt Nam mà còn trên bình diện thế giới. Tại nhiều hội thảo quốc tế, các học giả đã nhấn mạnh tính nhân văn, tính thực tiễn và tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là sự đóng góp quan trọng vào kho tàng tư tưởng cách mạng thế giới. Hiện nay, đã có 35 công trình tượng, tượng đài Hồ Chí Minh được xây dựng tại 22 quốc gia trên thế giới.

Đây chính là sự bác bỏ đầy thuyết phục của cộng đồng quốc tế đối với các luận điệu phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh hiện nay, khi sự nghiệp cách mạng bước vào giai đoạn mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen thì việc nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa quan trọng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng, những luận điệu phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh không những phi khoa học mà còn đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

Nhận diện và đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về phát triển kinh tế tư nhân của Đảng

 Những luận điệu xuyên tạc, đánh tráo bản chất

Với cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua, họ đưa ra những thông tin, số liệu sai lệch để quy kết Việt Nam vi phạm tự do báo chí. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”! Bên cạnh đó, họ xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam quản báo chí theo chế độ “đăng ký”, “bị kiểm duyệt”, “hà khắc”, “trói buộc”... Họ rêu rao Việt Nam không có nhân quyền vì không có báo chí tư nhân, không có tự do báo chí; cho rằng tự do báo chí là không bị quản lý, kiểm soát bởi bất kỳ lực lượng nào, thích viết gì thì viết, như thế mới là một xã hội có nhân quyền, mới có tự do báo chí! Từ việc xuyên tạc sự nghiệp lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí, nhiều tổ chức và trang mạng xã hội phản động kêu gọi muốn có tự do báo chí, muốn dân chủ, nhân quyền thì phải thay đổi thể chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Thậm chí, trong số những “nhà báo độc lập” theo cách gọi của RSF có cả những người chưa từng làm báo, chưa qua trường lớp báo chí, họ mới chỉ cần viết bài chống đối chính quyền trên mạng xã hội là được RFS tung hô, ca tụng. Rõ ràng, bằng việc mượn danh “tự do báo chí”, họ lấy cớ dựng chuyện, xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Không những vậy, một số cơ quan truyền thông phương Tây thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFI, RFA... và các hội nhóm, các cá nhân phản động trên Youtube, Facebook mỗi khi có sự kiện, vụ việc cụ thể liên quan đến báo chí lại la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình trong nước. Với sự giúp sức của các tổ chức thù địch, một số đối tượng phản động trong nước tự đứng ra thành lập các hội nhóm phi pháp nhằm cổ súy cho cái gọi là “tự do báo chí”, “xã hội dân sự” theo mưu đồ của chúng, ra sức tung hô, cổ súy, ca ngợi những kẻ được gán cho những mỹ từ như “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” mà thực ra đó là những người vi phạm pháp luật, đã bị pháp luật Việt Nam xử lý. Với những thông tin sai lệch, xuyên tạc về tự do báo chí tại Việt Nam còn tạo ra cái nhìn thiên lệch, thiếu thiện cảm của quốc tế về Việt Nam; có thể ảnh hưởng tiêu cực đến đánh giá của các tổ chức quốc tế, các quốc gia về vấn đề nhân quyền và trình độ phát triển xã hội Việt Nam.

Tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người nhưng quyền này luôn có giới hạn và phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quy định như vậy. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.

Như vậy, tự do báo chí theo cách mà các thế lực thù địch, phản động liên tục tuyên truyền là đề cao tư tưởng của các cá nhân, không đi kèm trách nhiệm và các khuôn khổ luật pháp, đạo đức xã hội, không quan tâm hoặc xem nhẹ những hệ quả gây ra cho xã hội, cộng đồng. Điều đó đi ngược lại với cả chính những nước mà các thế lực thù địch, phản động dẫn chứng và khác rất xa với tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính là phải có trách nhiệm với sự phát triển tiến bộ của xã hội và nhân loại. 

Tự do báo chí, tự do ngôn luận không phải bất chấp giới hạn

Tự do báo chí được coi như một trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành “báo chí vô chính phủ”. Trên thế giới, ở hầu hết các quốc gia luôn có những hệ thống tư tưởng chính trị chi phối báo chí ở các cách thức khác nhau. Thực tế cho thấy, báo chí của một quốc gia đều thể hiện hình thức và đặc thù của cấu trúc xã hội cũng như thể chế chính trị của quốc gia đó.

Nói cách khác, tự do báo chí, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ chính trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm, gây hấn... Tại Anh, Chính phủ ban hành một đạo luật đóng thành tập dày đến 960 trang, gồm 67 điều và dẫn ra 3.980 trường hợp áp dụng cụ thể hạn chế quyền tự do báo chí trong phạm vi nhất định. Theo đó, những bài báo làm tổn hại thanh danh về nghề nghiệp cá nhân thuộc loại thứ nhất bị hạn chế. Khi làm tổn hại đến các chính sách và các cơ quan nhà nước, đến luật pháp, tôn giáo, đạo đức bị coi thuộc loại thứ hai bị hạn chế. Đối với Singapore, Bộ Truyền thông và Thông tin là đơn vị quản lý nội dung đối với cơ quan báo chí và các nhà cung cấp thông tin trên internet. Theo đó, Singapore quản lý chặt chẽ báo chí, trong đó quy định các thông tin gây ảnh hưởng tiêu cực tới an ninh quốc gia, sự ổn định và thông tin gây ảnh hưởng không tốt tới chỉnh phủ và xã hội sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật…

Cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và trên thực tế, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân. Khi giành được chính quyền, Hiến pháp năm 1946 đã hiến định quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản và các quyền tự do khác của công dân tại Điều 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và nay là Hiến pháp năm 2013 luôn nhất quán khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân.

Luật Báo chí năm 2016 đã quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Điều 13 nêu: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Đồng thời, khoản 2, Điều 13 luật này quy định rõ: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”.

Trên cơ sở hành lang pháp lý được quy định rõ ràng, cụ thể, thực tiễn hoạt động của báo chí Việt Nam rất sôi động với nhiều thành tựu nổi bật. Báo chí đã thể hiện vai trò xung kích trên nhiều lĩnh vực, góp phần định hướng dư luận, giữ ổn định chính trị, biểu dương kịp thời những tấm gương người tốt, việc tốt trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, đẩy lùi nạn tham nhũng, tiêu cực... Báo chí thật sự là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội. Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí của nhân dân được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Các cơ quan báo chí ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò, chức năng phản biện xã hội của mình.

Bên cạnh đó Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí, hãng thông tấn nước ngoài đến tác nghiệp tại Việt Nam với gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt Nam, trong đó có nhiều hãng lớn như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)... Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều dễ dàng đến được với công chúng Việt Nam thông qua nhiều nền tảng chính thức, chính quy. Dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025) vừa qua đã có 169 phóng viên quốc tế của 58 hãng thông tấn báo chí từ 17 quốc gia; hơn 700 phóng viên của 106 cơ quan báo chí trong nước đăng ký tác nghiệp. Qua đó, đã chuyển tải những hình ảnh, thước phim chân thật, sống động nhất ra thế giới về các hoạt động của Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc của hàng triệu người dân Việt Nam từ mọi miền Tổ quốc.

Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube, Zalo, Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.

Từ sự ra đời của tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập (21/6/1925) tới nay, với 100 năm tuổi, báo chí cách mạng Việt Nam là một chứng nhân hàng đầu của lịch sử cách mạng Việt Nam với bao biến cố, thăng trầm. Ngày nay, những người làm báo đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, buộc phải thay đổi nhanh để thích ứng với những yêu cầu mới đang đặt ra, nhất là yêu cầu về công nghệ và nhu cầu của độc giả. Thế nhưng những sự thay đổi ấy không thể làm thay đổi bản chất của báo chí cách mạng Việt Nam. Thời gian tới, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ hệ thống quy định pháp luật trong lĩnh vực báo chí ngày càng chặt chẽ, tiến bộ, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và xu thế phát triển của thời đại, tạo cơ sở pháp lý, chỗ dựa vững chắc cho hoạt động và phát triển của báo chí. Nâng cao vai trò của các cơ quan báo chí của Đảng và Nhà nước trong định hướng dư luận, đẩy lùi những thông tin sai trái, đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng chính đáng của đông đảo quần chúng nhân dân…

Nhận diện và đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về phát triển kinh tế tư nhân của Đảng

 Nhận diện những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

Những ngày qua, khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định vai trò "động lực quan trọng nhất" của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trên nhiều diễn đàn mạng, các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối đã rêu rao rằng, Đảng ta đưa ra quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân lần này là bất nhất, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế có nghĩa “thừa nhận sự bóc lột, thừa nhận mối quan hệ sản xuất TBCN”, gây mâu thuẫn với quan điểm của Đảng trong các thời kỳ trước. Từ đó, các thế lực thù địch xuyên tạc kinh tế thị trường và định hướng XHCN khác nhau như nước với lửa cho nên “không có nền kinh tế thị trường nào lại có thể kết hợp cùng XHCN”. Họ suy diễn đây là một sự gán ghép khiên cưỡng, kìm hãm thể chế thị trường và kìm hãm cải cách, phát triển của kinh tế - xã hội đất nước.

Thông qua các luận điệu trên, các đối tượng hướng đến đả kích vai trò, phương thức quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước. Những người này cho rằng, các cơ quan quản lý không đủ năng lực, trình độ, đang sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp vào các hoạt động kinh tế một cách trái quy luật, làm cản trở phát triển kinh tế hoặc bóp méo thị trường nhằm trục lợi. Lợi dụng vấn đề trên, các đối tượng tiếp tục khoét sâu, thổi phồng những hạn chế, bất cập của nền kinh tế và những sai phạm, thiếu sót của các cá nhân, tổ chức trong các vụ án về kinh tế xảy ra ở một số bộ, ngành, địa phương để quy kết nguyên nhân là do lỗi hệ thống, muốn khắc phục phải thay đổi thể chế kinh tế. Thậm chí, họ còn cố tình xuyên tạc cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế, chống tham nhũng đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, đình trệ, ảnh hưởng xấu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu. Các đối tượng rêu rao rằng, tham nhũng là bản chất chế độ cộng sản, có chống cũng chỉ là hình thức…

Bên cạnh đó, các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối ở nước ngoài câu kết với một số đối tượng ở trong nước tổ chức các buổi livestream dưới dạng “hội luận” với thành phần tham gia được gắn mác “chuyên gia”, “luật sư”, “tiến sĩ”… Mục đích không gì khác là bôi đen, đả phá nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cho rằng vì yếu kém nên dẫn đến việc Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam cũng như áp đặt các mức thuế quan cao. Thậm chí, một số đối tượng chống đối còn ảo tưởng rằng việc Việt Nam thừa nhận kinh tế tư nhân là dấu hiệu chuẩn bị cho sự “đổi màu” trong chính sách phát triển theo hướng TBCN, lu loa Việt Nam sắp “tư nhân hóa nền kinh tế quốc dân”…

Đây là những quan điểm sai trái, xuyên tạc nhằm thực hiện mưu đồ xấu, gây tâm lý hoài nghi, dao động, mất niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Đồng thời, làm ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình đầu tư, phát triển kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên… Những luận điệu trên lại được núp bóng những “kiến nghị”, “góp ý”, “ý kiến tâm huyết” và được đăng tải, chia sẻ rộng rãi trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Youtube, Snapchat, TikTok... đã gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức, tâm lý của người dân.

Chủ trương lớn khẳng định vai trò của Đảng trong phát triển kinh tế tư nhân

Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người chứng minh kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của CNTB. Điều đó đồng nghĩa với việc, các nước XHCN, trong đó có Việt Nam sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh tế - xã hội theo những nguyên tắc, mục đích riêng phù hợp với điều kiện của quốc gia. Vì vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta đang xây dựng là “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường”, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta được xác định dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, song kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP ấn tượng, trung bình 6,37%/năm. So với các nước ASEAN, Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất, Philippines đạt 4,17%, Malaysia đạt 5,34%, Thái Lan đạt 4,48%, và Singapore  đạt 4,51%. Thành tựu này thể hiện sự ổn định và khả năng duy trì tăng trưởng của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á phải đối mặt với nhiều biến động kinh tế và khủng hoảng. Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, đồng thời từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế... Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướngXHCN. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lạo động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.

Thực tiễn cho thấy, những kết quả mà kinh tế tư nhân đạt được đã chứng minh vai trò, vị trí “đòn bẩy” quan trọng của nền kinh tế. Chính trên cơ sở sự thay đổi, phát triển nhận thức đúng đắn, kịp thời về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân với những cơ chế, chính sách kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo những điều kiện, tiền đề để kinh tế tư nhân phát triển, không ngừng lớn mạnh và trở thành một trong những nhân tố quan trọng cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh để trở thành lực lượng nòng cốt của nền kinh tế. Đa số doanh nghiệp tư nhân vẫn ở quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa với tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế. Năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp, dẫn đến năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao. Bên cạnh đó, tư duy kinh doanh còn thiếu tầm nhìn chiến lược, sự kết nối với doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp FDI còn lỏng lẻo. Nguyên nhân của những hạn chế này được chỉ ra là do tư duy, nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân chưa đầy đủ và chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Thể chế, pháp luật còn nhiều vướng mắc, bất cập, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức.

Hiện nay, phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ, Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế phù hợp trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Cùng với phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, Đảng, Nhà nước ta xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Do đó, sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế.

Vì vậy, Nghị quyết 68-NQ/TW khẳng vai trò của Đảng, Nhà nước cũng như quan điểm chỉ đạo cốt lõi, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân. Cần xác định rằng, Đảng, Nhà nước ta thừa nhận vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò nòng cốt xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế hiệu quả với phương diện là con đường hiệu quả để huy động vốn, phát triển khoa học - công nghệ, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân chứ không phải là mục tiêu của nhiệm vụ xây dựng quan hệ sản xuất mới. Để đảm bảo yếu tố định hướng XHCN, nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là hoàn toàn tự do mà đặt trong “khuôn khổ”, đó là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động, đạt tỷ lệ 20 doanh nghiệp/1.000 dân; ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10-12%/năm; đóng góp 55-58% GDP, 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước; giải quyết 84-85% tổng số việc làm… Đến năm 2045, phấn đấu có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động, đóng góp trên 60% GDP, và có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.

Với các thành tựu đạt được, Việt Nam đang khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực, thế giới. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam để phát triển kinh tế tư nhân là rất to lớn, cũng là minh chứng phản bác những quan điểm sai trái, xuyên tạc về kinh tế tư nhân, làm chệch định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, chệch quỹ đạo xây dựng CNXH ở nước ta. Do đó, cán bộ, đảng viên và người dân cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch này, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN Việt Nam nói chung và với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước nói riêng.