Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

VIỆT NAM LUÔN TIÊN PHONG TRONG BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI

         Sau hơn một năm đảm nhiệm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong lĩnh vực quyền con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Được thành lập vào năm 2006, Hội đồng Nhân quyền với tư cách là cơ quan liên chính phủ quan trọng nhất của Liên hợp quốc chịu trách nhiệm về nhân quyền đã khẳng định được vai trò của mình. Với mong muốn “tất cả quyền con người cho tất cả mọi người”, Việt Nam luôn tham gia tích cực, có trách nhiệm vào các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền từ khi cơ quan này chính thức hoạt động.

Đến nay, Việt Nam đã tích cực thực hiện nhiệm vụ của thành viên Hội đồng Nhân quyền trong công tác tham vấn, bỏ phiếu thông qua 32 dự thảo nghị quyết và 2 quyết định của Hội đồng Nhân quyền. Bên cạnh những kết quả này, Việt Nam đã nộp Báo cáo quốc gia theo cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV, trong đó đã thực hiện hoàn toàn gần 90% số khuyến nghị nhận được năm 2019. Đồng thời Việt Nam cũng thúc đẩy đối thoại và hợp tác tại Hội đồng Nhân quyền, tiếp cận với những vấn đề còn nhiều khác biệt như quan hệ giữa phát triển và nhân quyền, sức khỏe sinh sản và giáo dục giới tính,...

Những đóng góp của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền trong thời gian qua đã góp phần giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về nỗ lực của nước ta trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế với Việt Nam còn được thể hiện qua việc ngày 9/4, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) đã nhất trí bầu Việt Nam vào Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027. Đây là cơ hội để Việt Nam sát cánh với các thành viên trong UN Women tham gia xây dựng các chiến lược nhằm xóa bỏ nạn phân biệt, kỳ thị phụ nữ và trẻ em gái, bảo đảm sự công bằng giữa phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực phát triển.

Những thành tựu nêu trên đã cho thấy một Việt Nam tự tin, sẵn sàng gánh vác nhiều trọng trách quốc tế vì quyền con người. Thế nhưng vẫn có một số cá nhân, tổ chức không thiện chí cố tình phủ nhận những đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền.

Thời gian gần đây, các hoạt động chống phá có xu hướng gia tăng với mục đích là ngăn cản Việt Nam ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền 2026-2028. Nhân danh “đấu tranh” cho các quyền tự do, dân chủ, các đối tượng, tổ chức nêu trên thường xuyên lợi dụng các diễn đàn báo chí quốc tế để xuyên tạc, bôi đen tình hình nhân quyền ở Việt Nam bằng nhiều cáo buộc vô căn cứ. Điển hình là phát ngôn mới đây của đại diện của Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (CIVISUS) cho rằng Việt Nam “đã không thực thi nhiều khuyến nghị do Hội đồng Nhân quyền đưa ra trong kỳ Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) gần nhất vào năm 2019”.

Hay tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) vốn lâu nay thường xuyên thể hiện bản chất cực đoan, thiếu thiện chí với Việt Nam còn đưa ra những luận điệu vu cáo, định kiến với ý đồ xấu như: “Việt Nam là một thảm họa không thể giải quyết được với tư cách là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, tiến hành cuộc đàn áp quy mô lớn đối với các nhóm xã hội dân sự và các nhà hoạt động ở trong nước, đồng thời tích cực dung túng những hành vi vi phạm nhân quyền của các quốc gia khác được đưa ra trước Hội đồng. Khó có thể tìm ra thành viên nào tồi tệ hơn trong Hội đồng, vì vậy chiến dịch tái tranh cử của Hà Nội phải bị bác bỏ tuyệt đối”.

Từ đây cho thấy các thế lực chống phá thù địch đang cố tình phớt lờ việc Việt Nam đã nộp báo cáo UPR chu kỳ IV và thực thi đến gần 90% số khuyến nghị do các bên đưa ra. Theo đánh giá của bà Ramla Khalidi, Quyền Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam tại Hội thảo quốc tế tham vấn dự thảo Báo cáo quốc gia UPR chu kỳ IV của Việt Nam diễn ra vào ngày 24/11/2023: “Việt Nam đã thể hiện vai trò tiên phong trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người”.

Đáng lên án hơn, một số tổ chức nhân quyền tự xưng như “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam”, “Người Bảo vệ Nhân quyền” và “Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam” còn xây dựng nhiều báo cáo không khách quan, sai sự thật về việc thực thi các công ước về quyền con người của Việt Nam nhằm gây sức ép lên Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc tại phiên họp kiểm điểm việc thực thi Công ước ICCPR của Nhà nước Việt Nam, hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Hầu hết cáo buộc của các cá nhân, tổ chức này không hề mới, đã bị người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và các cơ quan báo chí trong nước bác bỏ thông qua những dẫn chứng, số liệu cụ thể. Đáng tiếc là một vài cơ quan, cơ chế thực thi nhân quyền và một số quốc gia vẫn dựa vào những thông tin sai lệch để đưa ra các nhận định có tính quy kết về công tác bảo đảm và bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam mà không hề có sự tham khảo, chọn lọc, đánh giá thông tin một cách nghiêm cẩn, khách quan. Điều này không chỉ phủ nhận công sức của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền mà còn tạo ra những rào cản trong quá trình hiểu biết lẫn nhau và thiết lập hướng đi chung cho lĩnh vực này.

Dù vẫn còn một nửa nhiệm kỳ ở phía trước, với nhiều khó khăn, thách thức nhưng có thể khẳng định Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền 2023-2025 với nhiều dấu ấn cụ thể.

       Với quyết tâm cao nhất cùng sức mạnh từ sự đoàn kết, trên dưới một lòng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục có những đóng góp quan trọng tại Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế nhân quyền khác của Liên hợp quốc, ASEAN. Bằng những hành động thiết thực, Việt Nam đang đi đúng hướng trên tiến trình thúc đẩy đoàn kết quốc tế và phát triển bao trùm, bền vững

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội

 “Phi chính trị hóa” quân đội là một trong những âm mưu thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, làm thay đổi bản chất giai cấp công nhân của quân đội, làm cho quân đội từng bước xa rời phương hướng chính trị giai cấp, xa rời mục tiêu chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, không còn là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước. Vì vậy, việc đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại những thủ đoạn, nhất là thủ đoạn mới của các thế lực thù địch là nhiệm vụ quan trọng, mang tính thời sự cấp bách, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, hiệu quả.

“Phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam là âm mưu trong tổng thể chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Đây là một âm mưu không mới, nhưng cực kỳ thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động ngoan cố chống phá cách mạng nước ta trong suốt thời gian qua. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội là tất yếu khách quan, một nhiệm vụ quan trọng, mang tính thời sự cấp bách hiện nay. Thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động sử dụng những thủ đoạn ngày càng đa dạng, tinh vi và thâm hiểm hơn. Các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận hệ tư tưởng của Đảng, của quân đội là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta; triệt để “khoét sâu” vào những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội trong nước để phủ nhận những thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới ở nước ta; lợi dụng tình trạng quan liêu, tham nhũng, thoái hóa biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên nhằm kích động, gây chia rẽ, làm mất lòng tin của nhân dân, của quân đội vào Đảng; kêu gọi “đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013”, đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”(?!)...

Thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Họ kêu gọi xóa bỏ hệ thống tổ chức đảng và cán bộ tham gia phụ trách công tác Đảng trong quân đội, kêu gọi xây dựng quân đội “trung lập”, quân đội “quốc gia”, không lệ thuộc một khuynh hướng chính trị, một đảng phái nào; tung hô ca ngợi mô hình quân đội một số nước để chứng minh quân đội không liên quan đến chính trị; kêu gọi Quân đội nhân dân Việt Nam nên liên minh với quân đội một số nước để tiến lên hiện đại, trở thành quân đội “nhà nghề”(?!). Họ cho rằng, các vấn đề liên quan đến quân sự, quốc phòng phải được nhân dân bàn bạc công khai và quyết định thông qua những "diễn đàn dân chủ"; lợi dụng chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu, sắp xếp lại quân đội đã và đang thực hiện để xuyên tạc, kích động, quy chụp cho rằng đó là biểu hiện của tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong quân đội...

Thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy mạnh chống phá trên cả lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đạo đức, truyền bá lối sống thực dụng, buông thả, thờ ơ, lãnh đạm, không quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, của quân đội, nhằm thúc đẩy nhanh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tạo ra khoảng trống về ý thức hệ, hòng “pha loãng”, làm “nhạt dần” bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, tạo “mảnh đất màu mỡ” cho tư tưởng phi vô sản thâm nhập vào đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội.

Nguy hiểm hơn, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để phát tán những bài viết, clip với cường độ, tần suất ngày càng tăng nhằm thổi phồng, xuyên tạc sự thật, khoét sâu mâu thuẫn, kích động tư tưởng công thần, địa vị, bè phái, cục bộ địa phương, đòi hưởng thụ đãi ngộ; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo, vùng miền; vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Họ lợi dụng quân đội tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, lợi dụng những sự việc xảy ra trong quân đội để suy diễn, chia rẽ quân đội với nhân dân, với Đảng, nhằm chia rẽ tinh thần đoàn kết “quân với dân như cá với nước”, xuyên tạc chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, bôi xấu hình ảnh và bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”…

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định, quân đội là công cụ bạo lực của Nhà nước, do Nhà nước tổ chức và nuôi dưỡng, do vậy bản chất giai cấp của Nhà nước như thế nào thì bản chất giai cấp của quân đội cũng như thế; không có quân đội siêu giai cấp, đứng ngoài giai cấp, trung lập về chính trị. Tuy nhiên, chúng ta không được một phút lơ là, chủ quan, bởi trên thực tế, các thế lực thù địch đã từng thực hiện thành công “phi chính trị hóa” đối với quân đội Liên Xô, quân đội các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong những năm 80 của thế kỷ XX; và gần đây là những sự kiện bất ổn chính trị - xã hội liên miên, kéo dài làm suy yếu đất nước đang diễn ra ở một số nước châu Á, châu Âu và hàng loạt nước theo thể chế đa nguyên, đa đảng ở Trung Đông, Bắc Phi.

Đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội trong những năm qua luôn được coi trọng. Trong lực lượng quân đội, ở tất cả các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, cán bộ, chiến sĩ được giáo dục tinh thần cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; đã có những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống “phi chính trị hoá” quân đội. Song, thực tế vẫn còn những hạn chế, có mặt chưa theo kịp với diễn biến của tình hình thực tiễn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, chiến sĩ hiểu chưa sâu sắc và chưa đầy đủ về âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch, phản động. Do vậy, còn có những biểu hiện thiếu cảnh giác, bị động, lúng túng khi phải đối mặt với những tình huống khó khăn, phức tạp, nhất là đấu tranh trực diện với những thủ đoạn mới của các thế lực thù địch. Trước những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt của âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội đã làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, ở những mức độ nhất định xuất hiện tư tưởng, tâm lý dao động về chính trị, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những hiện tượng này đã và đang gây tác hại không nhỏ đến bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở trong giai đoạn cách mạng mới. Bởi vậy, việc đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn, nhất là những thủ đoạn mới của các thế lực thù địch luôn là nhiệm vụ quan trọng, mang tính cấp bách, cần có hệ thống giải pháp phòng, chống đồng bộ, hiệu quả.

Để làm vô hiệu hóa và đập tan âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, phản động, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội.

Từ khi quân đội ta ra đời đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến mọi sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Trong khi đó, âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm thay đổi bản chất giai cấp công nhân của quân đội, làm cho quân đội từng bước xa rời phương hướng chính trị giai cấp. Do vậy, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là giải pháp có ý nghĩa quyết định làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay là phải xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Theo đó, phải thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, chỉ huy các cấp; hết sức tránh mọi biểu hiện hạ thấp vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ, đảng bộ đối với cơ quan, đơn vị.

Tổ chức đảng các cấp trong quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách, thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, trọng tâm là thực hiện tốt các quy định của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương về trách nhiệm nêu gương gắn với thực hiện sinh hoạt chuyên đề “tự soi, tự sửa”. Kết hợp chặt chẽ xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp có trình độ cao, phẩm chất và năng lực toàn diện đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong những năm tới. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị, giữa đảng viên với quần chúng, cán bộ với chiến sĩ. Xây dựng các tổ chức trong đơn vị thực sự đoàn kết nhất trí cao, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng được thông suốt từ trên xuống dưới, tới từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ. Kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện buông lỏng xây dựng tổ chức đảng, thiếu gắn kết việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

Hai là, tăng cường giáo dục, giác ngộ bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội; tinh thần cảnh giác với âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội cho cán bộ, chiến sĩ.

Đây là giải pháp quan trọng trong đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội. Bởi, sự giác ngộ sâu sắc về bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội sẽ trực tiếp góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, ngăn chặn sự xâm nhập của những luồng tư tưởng phi vô sản, góp phần làm thất bại âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch. Vì vậy, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhận thức sâu sắc rằng, quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện, nhất thiết phải lấy chính trị của Đảng làm gốc, làm cốt; phải mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và dân tộc sâu sắc, thực hiện mục tiêu cao cả là chiến đấu vì độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.

Theo đó, cần tăng cường giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, mục tiêu lý tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội và âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch cho cán bộ, chiến sĩ. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời với việc coi trọng giác ngộ bản chất giai cấp công nhân, cần giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, bồi dưỡng tình cảm đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Có như vậy mới bảo đảm cho quân đội ta gắn bó với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần đặc biệt chú trọng giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ về chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, nhất là âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch, phản động. Từ đó, không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, đối phó có hiệu quả trước sự chống phá của các thế lực thù địch với các thủ đoạn và tính chất khác nhau. Hình thức, phương pháp giáo dục cần được tiến hành phù hợp, linh hoạt, sáng tạo; trong đó, hết sức coi trọng các hình thức, như: Huấn luyện chính trị, giáo dục thông qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, thông qua phong trào hành động cách mạng của cán bộ, chiến sĩ và các hoạt động khác của công tác tư tưởng, văn hoá...

Ba là, quản lý chặt chẽ mọi mặt và làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; xây dựng môi trường văn hoá trong sạch, lành mạnh ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Phát huy vai trò các tổ chức, lực lượng quản lý chặt chẽ mọi mặt của các tổ chức, từng con người và làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm nắm chắc diễn biến tư tưởng chính trị hằng ngày, hằng giờ của từng cán bộ, chiến sĩ; từ đó kịp thời phát hiện, có những biện pháp ngăn chặn những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, không tạo những sơ hở để kẻ thù lợi dụng chống phá. Muốn vậy, phải thường xuyên nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, quản lý chặt chẽ mọi mặt và làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong từng cơ quan, đơn vị. Cần quản lý về lịch sử chính trị, lập trường, quan điểm, thái độ chính trị, trình độ giác ngộ chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, quan hệ của mọi quân nhân. Thực hiện tốt chế độ phân công, phân cấp quản lý; phát huy vai trò của cấp ủy, hệ thống chỉ huy các cấp; tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ; thường xuyên củng cố, kiện toàn các tổ chức trong đơn vị; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục với quản lý hành chính theo điều lệnh quân đội; chủ động phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan, đơn vị trên địa bàn đóng quân giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Môi trường văn hoá trong sạch, lành mạnh trong quân đội là bức tường thành vững chắc vô hiệu hóa sự tấn công của chiến lược “Diễn biến hòa bình” nói chung, âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch nói riêng. Trong tình hình hiện nay, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội” gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28-12-2021, của Quân ủy Trung ương, “Về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần đẩy mạnh tổ chức các hoạt động thể thao, văn hoá, văn nghệ, đọc báo, nghe đài, hội thao, hội thi, nhất là trong các ngày nghỉ, giờ nghỉ nhằm tạo ra đời sống tinh thần phong phú, vui tươi, lành mạnh, đồng thời góp phần phòng ngừa, đẩy lùi sự xâm nhập của các loại ấn phẩm độc hại. Người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên ở các cơ quan, đơn vị cần đổi mới phương pháp, tác phong công tác, triệt để khắc phục lối quản lý hành chính đơn thuần, áp đặt, thiếu tính thuyết phục, thiếu trách nhiệm trong tổ chức đời sống vật chất, tinh thần của đơn vị, không tạo ra “khoảng trống” để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện các hoạt động chống phá. Cán bộ, chiến sĩ phải gương mẫu trong thực hiện các quy định về việc cưới, việc tang, lễ hội, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội; xây dựng lối sống văn minh, ứng xử có văn hóa, giải quyết hài hòa các mối quan hệ, đề cao tình đồng chí, đồng đội, tình đoàn kết quân - dân, yêu thương, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xây dựng và phát huy lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao tinh thần cảnh giác với âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội cho cán bộ, chiến sĩ_Nguồn: dangcongsan.vn

Bốn là, tổ chức có hiệu quả đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, vạch trần bản chất phản động, phản khoa học trong âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, phản động.

Đây là giải pháp mang tính thời sự cấp bách hiện nay, bởi đấu tranh trực diện trên mặt trận tư tưởng, lý luận chống âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội luôn có tầm quan trọng đặc biệt và là mặt trận cam go, quyết liệt hiện nay. Trong cuộc đấu tranh này, phải tổ chức thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng quân đội cách mạng; vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của những luận điệu “quân đội trung lập về chính trị”, “quân đội phi giai cấp”,... của các thế lực thù địch. Đồng thời, tiếp tục khẳng định, quân đội ta ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, dân tộc sâu sắc đã làm nên truyền thống tốt đẹp “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(1). Thời gian tới, mặc dù tình hình chính trị thế giới, khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo; các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt chống phá, nhưng quân đội ta vẫn luôn là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước, kiên định và tuyệt đối trung thành với mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Để tổ chức đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, phải chú trọng hơn nữa nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện truyền thông xã hội cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong định hướng nhận diện và đấu tranh kịp thời, có trọng tâm với các quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, phát huy vai trò cơ quan thường trực ban chỉ đạo 35 của đảng ủy các cấp thực hiện tốt việc tham mưu, xây dựng, ban hành đồng bộ hệ thống quy chế, quy định, chương trình hành động cụ thể; thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc tình hình, cung cấp thông tin và định hướng đấu tranh kịp thời, có trọng tâm. Phát huy sâu, rộng vai trò của lực lượng 47 ở các cơ quan, đơn vị toàn quân tham gia đấu tranh vạch trần bản chất phản động trong âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, phản động. Chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận có đủ phẩm chất và năng lực, nhạy bén trong đấu tranh và tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tấn, báo chí và các đơn vị văn hóa, nghệ thuật quân đội, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với hệ thống truyền thông, văn hóa, nghệ thuật của cả nước để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Thực hiện tốt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, sớm kết luận những vấn đề mới, còn có ý kiến khác nhau từ thực tiễn tạo cơ sở vững chắc để đấu tranh với âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

Không thể phủ nhận sự thật và đảo ngược chân lý

 

Để xem xét lịch sử thì cần phải có cái nhìn toàn diện, khách quan, tôn trọng sự thật. Cho dù cuộc kháng chiến đã lùi xa 48 năm hay lâu dài hơn nữa thì lịch sử dân tộc và thế giới đều ghi nhận và chúng ta phải luôn khẳng định, tự hào về thắng lợi của một cuộc kháng chiến chính nghĩa, trường kỳ, vĩ đại vì nền hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc.  Đúng như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".

Trên thực tế, chính những người trong cuộc là Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đều đã thừa nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã rút ra 11 “sai lầm một cách tồi tệ”, đáng chú ý nhất là đã lẫn lộn cuộc đấu tranh ý thức hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của cả một dân tộc. Ông viết: "Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ”. Giáo sư Trần Chung Ngọc, một người Mỹ gốc Việt, một cựu quân nhân trong quân lực Việt Nam cộng hòa từng có nhiều bài viết phân tích sâu sắc về cuộc chiến tranh. Ông viết: “Mỹ không có lý do nào chính đáng để can thiệp vào Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc tế, không dựa trên pháp lý mà dựa trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công lý” để can thiệp vào Việt Nam với ý đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu vực”. Đây là những bằng chứng hùng hồn, chúng minh cho sự chính nghĩa và ý nghĩa lịch sử của Đại thắng mùa xuân năm 1975.

Bộ mặt mới của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay

 


Thứ nhất, chủ thể và lực lượng tiến hành “diễn biến hòa bình” trong bối cảnh mới rất đa dạng, phức tạp, đan xen, không đồng nhất. Nếu như trước kia, chủ thể tiến hành “diễn biến hòa bình” là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thì nay, bên cạnh lực lượng này còn có cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi với tư tưởng bành trướng, bá quyền. Để xác lập vị thế vượt trội hoặc tranh giành lợi ích, ảnh hưởng trong trật tự thế giới mới, một số nước lớn thâu tóm hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực để lôi kéo, khống chế các nước khác vào vòng kiềm tỏa của mình. Trong một số trường hợp cụ thể, có những nước bất chấp luật pháp quốc tế, trắng trợn xâm phạm chủ quyền, can thiệp sâu vào nội bộ các nước khác bằng các biện pháp tổng hợp nhằm thay đổi bộ máy chính quyền hoặc lật đổ chế độ chính trị nước khác theo hướng có lợi cho mình. Với chủ thể được mở rộng, lực lượng tiến hành sẽ là “đại quân công chúng” ngay trong nội bộ đối phương. Trước kia, khi thực hiện “diễn biến hòa bình”, những kẻ chủ mưu, thù địch, hiếu chiến bên ngoài trực tiếp tiến hành chống phá. Nay, họ chuyển sang hành động “sau bức màn che”, “bí mật giật dây”, tập trung “nhồi nhét” tư tưởng chống đối, đào tạo, huấn luyện những kẻ “theo đóm ăn tàn”, nội gián, tay sai một cách khá bài bản, trở thành những “kỹ sư lành nghề” lật đổ chế độ chính trị ngay trong nội bộ đối phương. Từ đó, họ ngụy biện rằng, nguyên nhân sụp đổ chế độ chính trị do sự tự thân vận động bên trong chứ không phải do sự chống phá từ bên ngoài (?!). Họ móc nối với những đối tượng cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất nhen nhóm thành các tổ chức chính trị đối lập hoạt động công khai, được “ngụy trang” dưới danh nghĩa các hội, đoàn, tổ chức xã hội dân sự... và rêu rao đó là “đại diện của người dân”; tập hợp các phần tử phản động, lưu manh, bất mãn đội lốt các chức sắc, chức việc, già làng, trưởng nhóm, trưởng hội... chỉ chờ cơ hội là “ngóc đầu”, “lột xác”; mua chuộc, lừa gạt, ép buộc quần chúng nhẹ dạ tham gia làm bình phong, lá chắn. Lực lượng này khi bị lôi kéo, kích động hợp thành “đại quân công chúng” tại chỗ, luôn chịu sự chỉ đạo của các “chuyên gia chống cộng” bên ngoài và đương nhiên đó hoàn toàn không phải là quần chúng theo đúng nghĩa là lực lượng cách mạng. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, nhất là trong trường hợp số đông quần chúng nhân dân bị mê hoặc, tin theo lời hứa hão huyền bằng các khẩu hiệu lòe bịp, bị “sập bẫy” giương sẵn của các trung tâm quyền lực, các tổ chức phản động quốc tế luôn rắp tâm “đục nước béo cò”, tạo cớ can thiệp, chống phá.

Thứ hai, đối tượng chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” được mở rộng và phương thức tiến hành đã có sự chuyển đổi. “Diễn biến hòa bình” trong tình hình mới không những nhằm vào các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa, mà còn chuyển sang chống phá các nước có chế độ chính trị mà chủ thể tiến hành cho là không phù hợp với lợi ích, giá trị, “khuôn mẫu” của họ. Đó là những nước độc lập, có chủ quyền nhưng “cứng đầu”, “không cùng quỹ đạo”, không tuân theo sự chỉ huy, chỉ đạo của họ, không có lợi cho họ trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Đặc biệt, trọng tâm chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay là các nước có vị trí địa chính trị - kinh tế - quân sự chiến lược quan trọng, phức tạp, nhạy cảm hoặc ở những khu vực hội tụ sự cạnh tranh chiến lược, tranh chấp gay gắt về lợi ích, chủ quyền trên thế giới. Tính đa dạng, phức tạp, đan xen không đồng nhất giữa chủ thể và đối tượng được thể hiện trong mối quan hệ này, phạm vi này là chủ thể tiến hành, nhưng có thể trong mối quan hệ khác, phạm vi khác, chủ thể đó lại là đối tượng chống phá.

Nhận thức rõ về chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay

 


Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục điều chỉnh chiến lược “diễn biến hòa bình” trên nhiều phương diện ngày càng tinh vi hơn. Nhận diện đúng và vạch trần bộ mặt mới của chiến lược này có ý nghĩa định hướng chiến lược trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở nước ta hiện nay

  “Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. “Diễn biến hòa bình” có nhiều cách gọi khác nhau, đó là “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”, “chiến thắng không cần chiến tranh”, “chiến tranh không có tiếng súng”, v.v.

Nội dung cơ bản của chiến lược “Diễn biến hoà bình” là dùng mọi cách tác động vào các nước xã hội chủ nghĩa, làm xuất hiện các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản bên trong. Ủng hộ, giúp đỡ, nuôi dưỡng những nhân tố xa lạ và chống đối ngày càng lớn mạnh dẫn đến các nước bị tác động tự diễn biến, tự chuyển hoá thành chủ nghĩa tư bản. Đó là sự tiến công nhằm làm cho chủ nghĩa xã hội suy yếu, mất dần bản chất của mình để rồi bị hoà tan trong thế giới tư bản.

 Các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện “diễn biến hoà bình”, nhưng nhìn chung tập trung vào các hướng cơ bản sau:

      Thứ nhất,  Dùng hệ thống truyền thông, tin học toàn cầu tác động liên tục, bền bỉ vào các nước xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc hệ tư tưởng, phủ nhận những thành tựu, cường điệu những khuyến điểm, tuyên truyền những giá trị của chủ nghĩa tư bản. Từ đó, đầu độc về tư tưởng, làm đảo lộn nhiều tư duy, khái niệm làm chuyển hoá dần tư tưởng của nhân dân nhất là giới trẻ và cả tư tưởng của một bộ phận lãnh đạo.

Thứ hai,  Xây dựng, tiếp tay cho các lực lượng phản động, liên lạc với bọn phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc…những phần tử bất mãn, đầu cơ chính trị, cài cắm gián điệp, nội gián…để hình thành lực lượng chống đối từ bên trong.

Thứ ba, Dùng đầu tư, viện trợ kinh tế và sử dụng ưu thế về khoa học và công nghệ tiến hành thay đổi nền kinh tế, gây sức ép đẩy nhanh quá trình tự do hoá, tư nhân hoá kinh tế, thông qua kinh tế để chuyển hoá chính trị. Dùng hệ thống tài chính, tiền tệ mạnh xâm nhập vào trong nước, làm công cụ khống chế, cải tổ hệ thống tài chính tiền tệ theo hướng tư bản chủ nghĩa

Thứ tư, Tác động trực tiếp vào lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ những con người cụ thể, có khả năng hợp tác với phương Tây. Trên hướng này, chủ nghĩa đế quốc lợi dụng triệt để những mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo các nước, phân hoá, cô lập những người tốt, khuyến khích, ủng hộ những người có quan điểm hữu khuynh, có xu hướng cấp tiến, theo hướng dân chủ đa nguyên chính trị và kinh tế thị trường dựa trên cơ sở tư nhân hoá.

Tóm lại, chiến lược “diễn biến hoà bình”  là sử dụng tổng hợp các biện pháp tư tưởng, tổ chức, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao và hoạt động ngầm để tấn công chủ nghĩa xã hội trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Các biện pháp tư tưởng, kinh tế, ngoại giao, được đặc biệt coi trọng như là công cụ để “mở  cửa" đi vào trong nước, kích động các nhân tố bên trong nổi dậy thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Đây là những thủ đoạn vô cùng xảo quyệt và hết sức nguy hiểm của các thế lực thù địch hiện nay. Nếu các nước xã hội chủ nghĩa lơ là cảnh giác và không đánh bại âm mưu và hoạt động của chúng thì có khả năng tan rã Đảng Cộng sản, làm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.

ĐẤU TRANH CHỐNG SỰ XUYÊN TẠC VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG NHÀ NƯỚC TA

          Thực tế nhiều năm qua cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tích cực ban hành và nỗ lực tổ chức triển khai thực hiện ngày càng hiệu quả các chính sách xã hội chính sách xã hội theo đúng tinh thần chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời, đó là phải luôn quan tâm chăm lo cho dân, làm sao để người dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành, được lao động, được chăm sóc, giúp đỡ khi đau yếu hoạn nạn, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Cùng với quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới phát triển đất nước, hàng loạt nghị quyết, chỉ thị về thực hiện chính sách xã hội đã được ban hành và chỉ đạo thực hiện, mới đây, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023, về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Mục tiêu đặt ra là các cấp, ngành, địa phương phải nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm cho người dân được thụ hưởng tốt hơn những thành quả của công cuộc đổi mới phát triển đất nước, được bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân thật sự, đồng thời tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng chú trọng vấn đề thực hiện chính sách xã hội, coi việc chăm lo đời sống của các tầng lớp nhân dân là bản chất, mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực của công cuộc đổi mới, phát triển bền vững đất nước.

Tuy nhiên, với thái độ thù địch và thiếu thiện chí, thời gian qua, các đối tượng chống phá, phản động đã thường xuyên ra sức bịa đặt, vu khống, đưa ra nhiều luận điệu bôi xấu, xuyên tạc vấn đề thực hiện chính sách xã hội của nước ta. Chúng trắng trợn đổi trắng thay đen bản chất sự việc, cho rằng việc thực hiện chính sách xã hội của Việt Nam chỉ mang tính hình thức và những thành tựu được ghi trong các văn kiện, nghị quyết chủ yếu là để “làm màu”, để khoe mẽ thành tích, hoặc là ngụy tạo, tự vẽ ra để thổi phồng công lao của Đảng, ru ngủ, mị dân, lừa phỉnh người dân chứ không có thực.

Thậm chí vu khống chính sách xã hội chỉ là công cụ để quan chức lợi dụng trục lợi, tham ô, tham nhũng, thực hiện lợi ích nhóm. Các đối tượng bịa đặt rằng, chính sách xã hội của Việt Nam chỉ tập trung bảo đảm lợi ích cho một số đối tượng, vùng miền, nhất là đối tượng cán bộ, quan chức ở những tỉnh, thành phố lớn, còn đại bộ phận người dân lao động nghèo, ở miền núi, nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì không được quan tâm, kể cả những người có công với đất nước cũng không được chăm lo xứng đáng, phải sống khổ cực.

Đặc biệt từ đây có thể gieo rắc lòng thù hận, nghi kỵ giữa đồng bào các dân tộc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc để các đối tượng phản động dễ bề dụ dỗ, kích động người dân tham gia biểu tình, bạo loạn chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại những thành quả phát triển đất nước, ảnh hưởng đến lợi ích và cuộc sống bình yên của nhân dân như một số vụ việc đau lòng diễn ra thời gian qua ở một số tỉnh, thành phố.

       Thực tế này đặt ra những nhiệm vụ mới đối với công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Cần khẳng định những nỗ lực và thành tựu trong thực hiện chính sách xã hội của Việt Nam thời gian qua là minh chứng xác đáng, thuyết phục nhất giúp củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân, và cũng là căn cứ để phản bác những luận điệu xuyên tạc. Sự đồng lòng, ủng hộ, cũng như quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong thực hiện chính sách xã hội đã khẳng định bản chất dân chủ ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như sự lựa chọn con đường đúng đắn của Đảng ta vì lợi ích và hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2024

Giá trị của nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Về giá trị lý luận: Thời gian tới, yêu cầu cấp thiết tiếp tục đặt ra cho công tác lý luận là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách quan về những thành tựu đã đạt được và những bất cập, hạn chế, khuyết điểm; để có nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu làm rõ một cách tổng quát lộ trình và những chặng đường của thời kỳ quá độ; nội dung cơ bản của từng chặng đường đó…; những thành tựu đã đạt được và hạn chế trong nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở các chặng đường đã qua của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về giá trị tư tưởng: Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội, với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng - sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị tư tưởng quan trọng, là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Về giá trị thực tiễn: Năng lực, uy tín của một đảng chính trị cầm quyền bao giờ cũng được đánh giá bởi thước đo thực tiễn với nhiều yếu tố, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, yếu tố quan trọng hàng đầu là có thực hiện đúng mục tiêu, đường lối đề ra và thúc đẩy đất nước phát triển; có nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước, khắc phục khó khăn và nguy cơ đe dọa đến chủ quyền, an ninh quốc gia và nền độc lập dân tộc không; cải thiện đời sống cho nhân dân lao động đến đâu và được quốc tế đánh giá như thế nào?… Với Việt Nam, những thành tựu mà đất nước đạt được trong 35 năm đổi mới chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn nhất quán, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về giá trị tổ chức và triển khai: Việc làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị dẫn dắt trong tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong thực tiễn theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ quan, đơn vị, chức trách của mỗi cán bộ, đảng viên. Đường lối đổi mới, tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước đã xác định trong Đại hội XIII của Đảng chỉ trở thành lực lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời, đó là cơ sở để mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác tư tưởng, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đến quần chúng nhân dân. Với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo đúng đắn, kinh nghiệm lãnh đạo quý báu của Đảng, sự ủng hộ, chung sức, đồng lòng của nhân dân, khát vọng về một đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành hiện thực.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2024

Chính sách xã hội tiến bộ - Một mấu chốt thành công trong đường lối cách mạng của Đảng

 

Trong bài viết quan trọng nhân dịp kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng (3-2-1930 - 3-2-2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ nhiều quan điểm lí luận mang tầm chiến lược về phát triển đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”. Nghị quyết 42-NQ/TW ngày 24-11-2023 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới khẳng định: thực hiện tốt chính sách xã hội là “thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội”. Những quan điểm trên đây thống nhất với đường lối cách mạng của Đảng ta từ khi ra đời và là một mấu chốt tạo nên thành công của cách mạng Việt Nam thời kỳ đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền (1930-1946). 

Từ khi ra đời, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng đã chỉ rõ đường lối đấu tranh chống chế độ thực dân, phong kiến: về kinh tế, tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát triển công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ. Hai khẩu hiệu ''Độc lập dân tộc'' và ''Ruộng đất dân cày'' được thể hiện rõ nét nhất trong cao trào cách mạng 1930-1931. Như vậy, ngay từ đầu, đường lối của Đảng đã nhấn mạnh đấu tranh thực hiện một chính sách xã hội tiến bộ, vì quyền lợi của đại đa số người lao động, vì đời sống giai cấp cần lao. Đó chính là một điểm mấu chốt thuyết phục, tập hợp quần chúng theo Đảng, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. 

Trong cao trào cách mạng 1936-1939, đường lối của Đảng tiếp tục với khẩu hiệu "Chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình". Đặc biệt, cao trào cách mạng 1939-1945, chủ trương tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng vẫn tiếp tục được thực hiện. 

Ngay trước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng Tháng Tám, ngày 16, 17-8-1945 Quốc dân Đại hội đã họp tại Đình Tân Trào và thông qua Nghị quyết về Mười chính sách của Việt Minh, trong đó có bảy điều liên quan trực tiếp đến thực hiện chính sách xã hội tiến bộ, gồm: 1) Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo. 2) Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ. 3) Ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), dân quyền. 4) Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân. 5) Ban bố luật lao động; ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm. 6) Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng. 7) Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hoá mới. Những chính sách này nhanh chóng được triển khai thực hiện rộng rãi ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền trong cả nước. Trước tình hình nạn đói hoành hành dữ dội, làm chết hàng triệu người, Đảng đưa ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”, vận động cứu đói dân nghèo để giải quyết khó khăn trước mắt, đồng thời, để xóa nạn đói bền vững, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Chính phủ và nêu 6 việc cấp bách cần phải làm ngay, trong đó có ba việc thuộc chính sách xã hội: 1) Phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một cuộc lạc quyên để giúp đỡ người nghèo. 2) Phát động phong trào chống nạn mù chữ. 3) Bỏ ngay 3 thứ thuế: thuế thân, thuế chợ và thuế đò, cấm hút thuốc phiện. Đó là những nhiệm vụ trước mắt, nhưng cũng là những nhiệm vụ chiến lược, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng, nhiệt liệt hưởng ứng, thu được kết quả rất to lớn trong chống giặc đói, giặc dốt, góp phần giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ vừa thành lập.

Các mục tiêu giành ruộng đất cho dân cày, tăng lương, giảm giờ làm, xóa mù chữ, thực hiện giáo dục phổ thông bắt buộc là những mục tiêu rất tiến bộ, trở thành động lực cách mạng lớn lao của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, phát huy nhân tài trong kháng chiến kiến quốc.

Giai đoạn ngay sau Cách mạng Tháng Tám (1945-1946) mặc dù chính quyền cách mạng non trẻ vừa thành lập, gặp muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chủ trương, chính sách xã hội vì đời sống nhân dân vẫn được ban hành, thực hiện. Đường lối của Đảng, chính sách của Mặt trận Việt Minh và các chính sách của Chính phủ lâm thời đã đề ra vẫn được thống nhất thực hiện trong các vùng tự do và ngay trong hoàn cảnh kháng chiến. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Các chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ được Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra kịp thời, góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sĩ. Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL "Quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ". Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, tạo nên động lực lớn cho tinh thần cống hiến, hy sinh của nhân dân, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp sau này.

Trong mọi giai đoạn lãnh đạo giành và bảo vệ chính quyền, đề ra và thực hiện chính sách xã hội tiến bộ vì đời sống người lao động và nhân dân luôn được Đảng coi trọng. Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chính sách xã hội phải luôn vì con người là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.  

 

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

Bảo vệ tính tất yếu, chính nghĩa của ngoại giao “Cây tre Việt Nam” - Kiên định nguyên tắc, vận dụng linh hoạt

 

Thực hiện trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” không chỉ ở tầm vĩ mô mà cần được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả ở từng địa phương, đơn vị cơ sở, từng hoàn cảnh cụ thể.

Đối với các địa phương có đường biên giới với nước bạn; các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ có yếu tố nước ngoài, bản sắc “Cây tre Việt Nam” còn là văn hóa ứng xử trong quan hệ quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc...

Cụ thể hóa bằng những mô hình hiệu quả

Trả lời phỏng vấn Báo Quân đội nhân dân dịp đón Xuân Giáp Thìn 2024, Trung tướng Nguyễn Trường Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7 khẳng định: Quân khu 7 là địa bàn trọng điểm chiến lược quốc gia, có đường biên giới trên bộ giáp với nước bạn Campuchia dài hơn 627km, đi qua 3 tỉnh Bình Phước, Tây Ninh và Long An. Các địa phương trên địa bàn Quân khu 7 nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong đó TP Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu. Sự cụ thể hóa trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” trong hoạt động đối ngoại quốc phòng đã được Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 7 quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện bằng những mô hình hiệu quả trên thực tế. 

Đến nay, Quân khu 7 và các đơn vị, địa phương thuộc Quân khu đã xây dựng mối quan hệ kết nghĩa với 87 đơn vị Quân đội Hoàng gia Campuchia. Hai bên thường xuyên trao đổi thông tin, định kỳ tổ chức giao ban, giao lưu theo phân cấp, tuần tra chung; tổ chức đoàn qua lại thăm hỏi, chúc mừng nhân các ngày lễ, sự kiện. Quân khu 7 luôn quan tâm giúp bạn cả về vật chất và tinh thần, coi nhau như anh em, cùng đoàn kết, chung tay xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, phát triển. Các đơn vị bạn cũng rất nhiệt tình giúp đỡ chúng ta về nhiều mặt, nhất là công tác phối hợp duy trì sự ổn định đường biên giới; đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp đỡ các đội công tác làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập, hồi hương hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trên đất bạn vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.

Thực hiện chính sách đối ngoại quốc phòng theo định hướng của Đảng, những năm qua, Quân khu 7 luôn thể hiện vai trò nòng cốt giữ vững ổn định chính trị, ngày càng củng cố mối quan hệ thân thiết với các đơn vị, địa phương nước bạn, xây dựng nhiều mô hình điểm dân cư, cụm dân cư liền kề các chốt dân quân, đồn trạm biên phòng biên giới. Các mô hình hiệu quả ở Quân khu 7 đã được Bộ Quốc phòng chọn làm điểm, phổ biến kinh nghiệm, tổ chức cho các đơn vị, địa phương trong cả nước tham quan, áp dụng... 

Trong chuỗi chương trình “Xuân quê hương 2024” đón Tết Giáp Thìn diễn ra tại TP Hồ Chí Minh, các đại biểu kiều bào khắp nơi trên thế giới đã cùng Đảng bộ, chính quyền, dân và quân Thành phố mang tên Bác và đông đảo du khách hòa chung bầu không khí đoàn kết, vui tươi, ấm áp. Tâm tình với kiều bào cùng đón xuân quê hương, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng khẳng định: Thành công của kiều bào là niềm tự hào của đất nước, quê hương! Chủ tịch nước mong kiều bào ta ngày càng phát triển, thành công, góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhiều đại biểu kiều bào cũng chân thành chia sẻ, dù ở đâu, làm gì, bà con mình vẫn luôn giữ vững cốt cách, tâm hồn Việt Nam. Giữ cho “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” như bản sắc “Cây tre Việt Nam” chính là cách để người Việt Nam tạo dựng niềm tin, uy tín, tình cảm... đối với bạn bè quốc tế.

Những thành tựu từ thực tiễn và sự thẩm thấu, thấm nhuần đường lối đối ngoại, sách lược ngoại giao của Đảng, Nhà nước thông qua các mô hình, chương trình hoạt động cụ thể chính là bằng chứng sinh động góp phần đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc, kích động, phá hoại của các thế lực thù địch.

Đi sâu vào những góc nhìn cận cảnh trên thực tế như trên để thấy, ngoại giao “Cây tre Việt Nam” không chỉ là sứ mệnh “quốc gia đại sự”, mà nó cần được cụ thể hóa bằng những kết quả, mô hình giàu tính thuyết phục ngay từ cơ sở. Phương châm ấy cùng với cách vận dụng sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả từ những mô hình ở cơ sở cần tiếp tục phát triển, nhân rộng, đi vào chiều sâu, góp phần tạo sức mạnh mềm của quốc gia trong hội nhập quốc tế. Phải nhấn mạnh vấn đề này, bởi trong đời sống xã hội, không ít người vẫn cho rằng, nói đến đối ngoại, ngoại giao là công việc của Trung ương, của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Suy nghĩ phiến diện đó dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ, không chịu học tập, nghiên cứu, hiểu biết mơ hồ về đường lối, chủ trương của Đảng và bản chất ngoại giao “Cây tre Việt Nam”. Những khoảng trống, lỗ hổng trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và công dân chính là môi trường để các tư tưởng phản động, thù địch lợi dụng “ký sinh”, xâm nhập, làm nảy sinh các hành vi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, rất nguy hiểm.

Linh hoạt, sáng tạo “lấy xây để chống”

Cùng với kỷ niệm 80 năm truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang triển khai mạnh mẽ các phong trào, chương trình, kế hoạch... hướng đến kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng, 50 năm đất nước thống nhất vào năm 2025. Những sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn này cũng chính là đề tài xuyên tạc, mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch. Thời gian gần đây, không gian mạng liên tục xuất hiện những thông tin xuyên tạc về lịch sử vùng đất Nam Bộ, phá hoại mối quan hệ ngoại giao Việt Nam-Campuchia; cổ xúy các hành vi khủng bố, kích động mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo; kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các hoạt động của cái gọi là “phục quốc”, “quốc hận”... Thậm chí, họ coi các đối tượng khủng bố tấn công trụ sở công an xã ở Đắk Lắk (đã được đưa ra xét xử trước pháp luật và công luận) vừa qua là những “người hùng” và kêu gọi, kích động đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên “noi theo”...

Những thông tin xuyên tạc, sai trái này đều phục vụ cho ý đồ phá hoại chính sách hòa hợp dân tộc, kích động hận thù, bóp méo, bôi đen trang sử vẻ vang của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong một video clip được đăng tải trên tài khoản của một đối tượng người Việt ở hải ngoại vừa qua, bằng thủ đoạn cóp nhặt thông tin, “xào xáo” tư liệu, người này cùng với một số “học giả” lớn tiếng cho rằng, chính sách ngoại giao hiện thời của Việt Nam đang “thoái trào” và sẽ nhanh chóng “chết yểu”. Để đưa Việt Nam phát triển, họ lớn tiếng yêu cầu chúng ta phải thay đổi chính sách đối ngoại, ngoại giao, dựa hẳn vào Hoa Kỳ và phương Tây, tạo thế và lực chống lại sự can thiệp, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Sở dĩ phải nêu dẫn chứng này bởi những thứ mà các “nhà nghiên cứu” dạng này rêu rao, “dương Đông kích Tây” đều là những luận điệu phi lý, cũ rích, nhai đi nhai lại. Nhưng vì nhiều lý do, tài khoản trên mạng xã hội của họ vẫn có nhiều người tương tác; những luận điệu xuyên tạc này vẫn được không ít người tung hô, cổ xúy. Một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận người dân dễ dàng bị các đối tượng này “dắt mũi” là kiểu tư duy “hóng hớt”, hiểu biết vấn đề chưa đến nơi đến chốn, có tư tưởng dao động, ngả nghiêng...

Để góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, cần kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”, “lấy xây để chống”. Trường phái ngoại giao mang bản sắc “Cây tre Việt Nam” cần được thấm nhuần, thông suốt, thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, đơn vị cơ sở. Mỗi tổ chức, cá nhân khi tham gia vào môi trường quan hệ quốc tế phải đồng thời là những “sứ giả” hành động vì lợi ích, vị thế của quốc gia, dân tộc. Muốn vậy thì cần thể hiện rõ ý chí quyết tâm, nhất quán tinh thần: “Tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”..

 

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc bài viết về Đảng của Tổng Bí thư

 

"Có một sự thật cần phải khẳng định chắc chắn rằng, bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng” nhân dịp kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2024) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ thêm một lần khẳng định vị trí,vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn khơi dậy niềm tự hào về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, góp phần cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Vì thế, những luận điệu xuyên tạc, bôi đen sự thật và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đều là phản động; đều cần phải bác bỏ!

ĐẢNG LÀ ĐỘI TIỀN PHONG CỦA GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

Lịch sử là không thể bẻ cong! Vì sự thật là từ năm 1930 đến nay, ngoài Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc, thì ở Việt Nam không có đảng phái, tổ chức chính trị của nhân sĩ, trí thức yêu nước hay của giai cấp tư sản dân tộc nào đủ năng lực, uy tín chính trị để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng không chỉ được ghi rõ trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, chuyên đề của Đảng; trong các công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn được các tầng lớp nhân dân tin tưởng và các chính đảng khác (Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội/Việt Cách, Việt Nam Quốc dân Đảng/Việt Quốc, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội…) ghi nhận chính là sự thật. 

Thực tế, với Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); với Văn kiện 13 kỳ Đại hội đúng đắn của Đảng, đáp ứng được yêu cầu của lịch sử và đòi hỏi của dân tộc, thời đại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất (1930 -1975); đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng (1975 - nay).

Một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển ổn định về mọi mặt, khẳng định được vị thế trong khu vực và trên thế giới trước những diễn tiến khó lường của tình hình quốc tế, trước những thách thức của biến đổi khí hậu, môi trường, an ninh lương thực… chính là minh chứng chứng minh nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Nhìn lại chặng đường 1930 - 1975, chúng ta rất đỗi tự hào, tin tưởng và biết ơn sâu sắc Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã luôn luôn sáng suốt lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác, viết tiếp vào lịch sử của Dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng những trang vàng chói lọi, được thế giới ngưỡng mộ, đánh giá cao: Tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, giành chính quyền về tay Nhân dân, đưa nước ta ra khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc vào năm 1945; trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng Hiệp định Giơnevơ và thắng lợi của chiến dịch Điện Biên phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ trên không và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử” trong bài viết nêu trên là hoàn toàn chính xác. Đồng thời, cũng chứng minh niềm tự hào: “Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” của Tổng Bí thư cũng như của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam là không có gì sai.

 Bởi rằng, trên thực tế, “nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD)… Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2023. Đầu tư nước ngoài liên tục phát triển, vốn đăng ký tăng 32%, vốn thực hiện tăng 3%, đạt 23 tỉ USD trong năm 2023, cao nhất từ trước đến nay; và Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút FDI. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức quốc tế đánh giá đứng thứ 46/132 nước được xếp hạng” đúng như Tổng Bí thư đã khẳng định.

Những con số “biết nói”, những kết quả đạt được đó không chỉ được nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng mà còn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; không chỉ cho thấy việc Đảng “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", "đổi mới tư duy" đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” như Tổng Bí thư nhận định là không thể phủ nhận, mà còn cho thấy Đảng đại diện cho quyền lợi của giai cấp, dân tộc, đủ uy tín chính trị, trí tuệ, bản lĩnh, năng lực để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong 94 năm qua.

 Điều đó cũng có nghĩa là, những luận điệu xuyên tạc cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là “độc tài”, là “công cụ của một số chính trị gia” hay “Đảng chăm lo đến phát triển kinh tế, một phần vì dân, nhưng chủ yếu là cho Đảng” và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “nói là khiêm tốn”, nhưng thật ra “niềm tự hào” đó “chứa đầy sự kiêu ngạo cộng sản” chỉ là sự suy diễn của các phần tử cơ hội, phản động, các thế lực thù địch! Việc Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị; khẳng định được vị trí, vai trò lãnh đạo cách mạng là sự thật và điều đó đã được hiến định tại Điều 4, Hiến pháp 2013. 

"Sự thừa nhận, tôn vinh của các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị mới là sự thật; sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, vì nhân dân phụng sự mới là sự thật và sự tự hào của Tổng Bí thư về Đảng cũng là sự thật chứ không phải “là tự hào một cách hoang tưởng”. Vì thế, có thể khẳng định chắc chắn rằng, nhận định của Tổng Bí thư “ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”trong bài viết là hoàn toàn đúng đắn.

KIÊN ĐỊNH ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là con đường cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam lựa chọn, kiên định thực hiện dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế lịch sử thế giới hiện đại cho thấy rằng, chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế chế độ tư bản; đồng thời, “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”(1), vì “theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(2). Lý tưởng cao cả - “chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(3) và trong chủ nghĩa xã hội/giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản thì “ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”(4) vẫn luôn là niềm mơ ước của loài người tiến bộ; và đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu thế tất yếu của xã hội loài người trong thời đại ngày nay. Mà chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh được giải thích giản dị rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(5); là “nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(6)…

Cho nên, việc Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam lựa chọn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là không có gì thay đổi, bởi đó là câu nói “nằm lòng” của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi người dân Việt Nam tin tưởng, đồng lòng đi theo Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng; bởi đó là khát vọng, niềm tin, mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam. Con đường cách mạng đó không chỉ tạo nên sự thống nhất về nhận thức, ý chí cũng như hành động của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, mà còn cho thấy việc những người nhân danh dân chủ đòi “từ bỏ con đường cộng sản” vì “chủ nghĩa xã hội mịt mù không thấy đích đến” chỉ là chủ kiến cá nhân, là ý tưởng của những nhóm người “ngáo” dân chủ tư sản.

Vì đi lên chủ nghĩa xã hội là phải trải qua nhiều thời kỳ, thậm chí là những khúc quanh, khúc ngoặt, cho nên trên những chặng đường lịch sử đó, nhất là ở vào những thời điểm có tính bước ngoặt, đầy cam go, thử thách thì Đảng Cộng sản Việt Nam càng phải được chú trọng xây dựng và chỉnh đốn gắn liền với đấu tranh chống tham nhũng để tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động; để xứng đáng với vai trò tiền phong, lãnh đạo đúng như Tổng Bí thư khẳng định: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”

Thực tế cũng minh định rằng, là một Đảng Mácxít - Lêninnít chân chính, luôn đoàn kết, thống nhất; trong đó, mọi cán bộ, đảng viên đều tuân thủ các nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với nhân dân… nên trong Đảng không có sự “phân chia quyền lực”, “tranh giành quyền lực” như xuyên tạc. Đồng thời, Đảng cũng không có lợi ích gì khác ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, nên chắc chắn Đảng Cộng sản Việt Nam không thể/không bao giờ “là liên minh của những người tranh giành quyền lực và quyền lợi”. Là một tập thể đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động, nên đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng không phải là đấu đá phe cánh và đương nhiên cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật, sa vào tham ô, tham nhũng là do suy thoái về đạo đức, lối sống chứ không phải do “sự độc quyền của Đảng” đã tạo ra những con sâu mọt, những nhóm lợi ích… như các thế lực thù địch bịa đặt, bôi đen. Hơn nữa, Đảng, Nhà nước Việt Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là để làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị, chứ tuyệt nhiên không phải là “thanh trừng nội bộ” và đương nhiên cuộc đấu tranh đó sẽ không bao giờ làm cho Đảng “yếu đi” hay “tan rã” như sự kích động của các phần tử cơ hội, phản động.

Đồng thời, cũng cần phải khẳng định rằng: 

1) Việc tiếp tục xây dựng, “hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân”(7) đều là vì sự phát triển bền vững của đất nước, vì sự tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. 

2) Việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và “mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa… Đảng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ” như Tổng Bí thư nhận định là đúng đắn chứ không phải là “tạo ra sự chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, kém hiệu quả, lãng phí” như xuyên tạc, bôi đen của các thế lực thù địch. 

3) Việc “coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” và “xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng” là để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, chứ không phải “bỏ quên người dân” như các thế lực thù địch bôi đen. 

4) Việc “tập trung ưu tiên thực hiện thắng lợi đồng bộ các nhiệm vụ chính trị: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”; “kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và thực hiện thành công “trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam"… vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” đã góp phần làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, chứ không phải là Việt Nam đang “tụt hậu” như xuyên tạc. 

5) Việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là ý chí chủ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, càng không phải là sự gán ghép khiên cưỡng giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà chính là nắm bắt, vận dụng kinh tế thị trường phù hợp xu thế vận động khách quan trong thời đại ngày nay. Đó chính là nhằm “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”(8) dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội trên tinh thần lấy con người làm trung tâm, vì con người và cho con người, nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, chứ tuyệt nhiên không vì mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như chủ nghĩa tư bản và các nhà nước tư sản đã và đang làm… 

Vì thế, có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đường lối của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc; là để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân. Vì thế, nhân dân Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục kiên định với sự lựa chọn này dưới sự lãnh đạo của Đảng, bất chấp sự chống phá của các thế lực thù địch cũng như sự xuyên tạc, bôi đen của các phần tử cơ hội, phản động. Và đương nhiên, lựa chọn chủ nghĩa xã hội là lựa chọn một chế độ chính trị - xã hội với “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” như Tổng Bí thư khẳng định chính là lựa chọn thực hiện những ưu việt để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho tất cả những người lao động, chứ không phải là một số ít người của giai cấp tư sản như các nước tư bản chủ nghĩa.

Cuối cùng thì câu trả lời đã rõ. Những luận điệu xuyên tạc, bôi đen, bịa đặt về Đảng đều vô nghĩa. Vì rằng, những vấn đề mấu chốt nêu trong bài viết của Tổng Bí thư; những nhận định, đánh giá, khẳng định của Tổng Bí thư về Đảng không chỉ là sự thật, mà còn được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là đúng đắn. Sự thật chính là, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thì Tổ quốc, giai cấp công nhân và Nhân dân đã lựa chọn Đảng làm đại biểu trung thành cho lợi ích của mình. Sự tin tưởng, đồng lòng ủng hộ, đi theo Đảng và chịu sự lãnh đạo của Đảng là không thể cãi bàn, càng không thể phủ nhận!