Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

Bản chất của nhận xét, đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ



Trong thời gian Việt Nam báo cáo kết quả thực thi Công ước các quyền dân sự và chính trị tại phiên họp lần thứ 3 Ủy ban Công ước về các quyền dân sự và chính trị Liên Hợp quốc vào ngày 11 và 12/3/2019, Bộ Ngoại giao Mỹ đã có những nhận xét, đánh giá “vô lý” về tình hình nhân quyền năm 2018 của Việt Nam, đi ngược lại xu thế phát triển tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước. Điều này được thể hiện trên  những điểm cơ bản sau:
1. Sự quy chụp, thiếu khách quan trong nhận xét, đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Muốn nhận xét, đánh giá về một lĩnh vực nào đó của bất cứ quốc gia nào cần dựa trên cơ sở khoa học, phải đảm bảo tính: Khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Căn cứ thực tiễn, đánh giá trung thực, xuyên tạc, bóp méo; nhìn nhận toàn diện vấn đề được đánh giá trong mối liên hệ với những vấn đề khác, nhất là trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật của nước đó; sự đánh giá phải trên cơ sở so sánh theo chiều dài lịch sử  vấn đề của quốc gia đó và đi vào cụ thể những biểu hiện của vấn đề, thấy được ưu điểm, hạn chế, nhìn nhận theo chiều hướng tích cực của sự phát triển đi lên. Song Bộ Ngoại giao Mỹ lại không như vậy! Những nhận xét, đánh giá về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam lại chủ yếu dựa vào những bản án tù của những đối tượng đã bị tuyên án vì hành vi “tuyên truyền chống phá nhà nước Việt Nam; lật đổ chính quyền nhân dân…”. Những đối tượng đó đã vi phạm pháp luật, đã và đang phải chấp hành án treo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Những đối tượng đó đều có được chế độ “tù nhân” như nhau theo từng bản án nhất định, được xét xử công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và sẽ được ân xã nếu tiến bộ rõ rệt, có xu hướng phấn đấu hoàn lương trong thời gian chấp hành án. Đay là sự ưu việt của chế độ ta. Vậy mà Bộ Ngoại giao Mỹ lại cố tình đưa ra “nhận xét, đánh giá” thiếu khách quan, quy chụp Việt Nam tăng cường đàn áp, thực hiện những bản án nặng nề và phân biệt, đối xử, tra tấn về thể xác, tinh thần đối với những “tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị”. Điều này thật vô lý, không có cơ sở khoa học, hoàn toàn là quy chụp, xuyên tạc nhân quyền ở Việt Nam. Thử hỏi, bất kỳ cá nhân nào có hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn của nước Mỹ sẽ bị trừng trị hay được tha để sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật?
Thực tiễn chứng minh, Việt Nam luôn đảm bảo các quyền cơ bản của con người, của công dân; những quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được thừa nhận, bảo đảm. Quyền đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm; sự tự do nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật thì mới đảm bảo công bằng, an toàn cho xã hội; tự do không theo khuôn khổ quy định của pháp luật thì xã hội sẽ loạn, môi trường sống của con người không có sự an toàn.
Việt Nam xây dựng đất nước từ xuất phát điểm rất thấp do hậu quả nặng nề của chiến tranh gây ra, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã và đang chứng minh cho thế giới thấy sự tiến bộ mọi mặt, trong đó có vấn đề nhân quyền. Ngày 25/01/2019, Nhóm làm việc về rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc đã đồng thuận thông qua báo cáo về kết quả rà soát của Việt Nam và khẳng định: Việt Nam luôn đảm bảo những quyền tự do cơ bản của công dân phù hợp với các Công ước quốc tế  về quyền con người. Sự đảm bảo đó được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm trên thực tế ở Việt Nam.
Trong thời gian tham dự phiên họp Việt Nam luôn nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tình hình thực thi các cam kết quốc tế, cung cấp cho quốc tế bức tranh tổng thể các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Ủy ban Công ước cũng đã đánh giá cao vào đối thoại của đoàn Việt Nam, ghi nhận những kết quả đáng khích lệ của Việt Nam trong việc thực thi công ước và tin tưởng Việt Nam tiếp tục bảo vệ và phát huy ngày càng tốt hơn quyền con người và quyền công dân.
2. Bản chất của nhận xét, đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Loài người đã chứng kiến sự thay đổi của những thể chế chính trị xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ ngĩa và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Trong xu thế toàn cầu hiện nay sự đối lập giữa mô hình thể chế chính trị của những nước tư bản chủ nghĩa với những nước đang xây dựng thể chế chính trị theo mô hình chủ nghĩa xã hội, tồn tại thực trong giai đoạn hiện thời được gọi là thể chế chính trị chủ nghĩa xã hội hiện thực. Ở đó, tồn tại những mâu thuẫn cơ bản không thể điều hòa, tất yếu dẫn đến đấu tranh. Sự đối lập về hệ tư tưởng tất yếu dẫn đến cuộc chiến khi mâu thuẫn đến đỉnh điểm. Thế giới đã chứng kiến những cuộc cấm vận của Mỹ với các nước theo định hướng XHCN, nhất là với Triều Tiên, Cu Ba, ngày nay là cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc. Kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ luôn tìm mọi cách để chống phá cách mạng nước ta, bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình” để thay đổi màu sắc thể chế chính trị xã hội ở Việt Nam; thông qua ngoại giao, phát triển kinh tế, đầu tư, lợi nhuận để cài cắm mầm mống chủ nghĩa tư bản, lấy lợi ích để mua chuộc, phát triển “lợi ích nhóm” – biến tướng bằng tên gọi “chủ nghĩa tư bản thân hữu” để giằng co, kéo chệch mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đặc biệt, sử dụng các tổ chức mang tên gọi “dân chủ, nhân quyền” để câu móc, đào tạo các thành phần bất hảo, chống đối, tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Những đối tượng đó thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, bị trừng trị theo theo quy định của pháp luật Việt Nam thì các tổ chức được mang danh “vì tự do, dân chủ, nhân quyền” đó lại chống phá nước ta bằng luận điệu “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, đi theo sau đó là nhận xét, đánh giá của Bộ Ngoại giao Mỹ. Không những thế, sự can thiệp vô lý của những tổ chức đó bằng vận động gây áp lực với Việt Nam thông qua các mối quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, ngoại giao theo phương châm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” buộc Việt Nam thay đổi thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa.
Giá trị lớn nhất về nhân quyền là sự tự do, môi trường sống trong hòa bình, ổn định, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực con người. Hãy tự trả lời cho những lần “xả súng kinh hoàng” tại nước Mỹ, những thảm khốc sau khói súng mà nước Mỹ mang đến cho các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa sẽ được thấy “nhân quyền của nước Mỹ ra sao”?
Bản chất của “nhận xét, đánh giá” về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ là sự xuyên tạc, bóp méo sự thật, thiếu tính khách quan, vu cáo, bịa đặt thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam. Điều “vô lý” cũng được Mỹ áp đặt với những quốc gia khác và đương nhiên cũng sẽ chẳng thể phủ nhận được sự tiến bộ toàn diện của nước ta, không thể xóa đi sự đảm bảo về những quyền cơ bản của con người, công dân ở Việt Nam. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được đảm bảo trong Hiếp pháp, pháp luật và trong thực tiễn đời sống chính trị xã hội ở Việt Nam. Bên cạnh đó nó còn đi ngược lại sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, khi mà quan hệ giữa hai nước đã ngày càng trở lên sâu sắc, đa dạng hơn với việc thường xuyên mở rộng, trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực.

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

Cả nước chung tay tri ân các Anh hùng, liệt sỹ.


       Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược giành độc lập tự do, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, biết bao người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống, hoặc hy sinh một phần xương máu.
       Một đất nước trải qua mấy chục năm chiến tranh ác liệt, chịu nhiều đau thương mất mát, có số lượng lớn liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công (NCC) với cách mạng… thì tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” đã trở thành đạo lý, truyền thống của dân tộc và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
        Tri ân, chăm lo các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, NCC được Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hết sức quan tâm. 72 năm trước, ngày 17-7-1947, trong thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức Ngày thương binh toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh” và Người gương mẫu: “Tôi xin xung phong gửi 1 chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng...”.
        72 năm đã trôi qua, những lời căn dặn, tình cảm, ý nguyện và tấm lòng của Bác đối với thương binh, bệnh binh, NCC vẫn còn nguyên giá trị, có sức truyền cảm lớn lao. Những năm tháng trong và sau chiến tranh, dù đất nước còn muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn rất quan tâm chăm lo thực hiện “đền ơn đáp nghĩa”; xây dựng, ban hành các chế độ chính sách tri ân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, NCC... Tuy nhiên, những gì chúng ta đã làm được chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công việc tình nghĩa, tri ân cao cả đó.
        Để thực hiện hiệu quả, lâu dài, bền vững phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, cùng với thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với NCC, một yêu cầu hết sức quan trọng là phải xã hội hóa rộng rãi phần việc này. Trước hết, cần tuyên truyền sâu rộng để mọi người thấy rằng, việc tri ân, chăm lo NCC là tình cảm, đạo lý, trách nhiệm của mỗi người, mỗi tổ chức. Không kể tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, ai cũng có thể tham gia và góp phần mình vào công việc nhân văn này. Đó là việc tham gia chăm lo hương khói cho các liệt sĩ; coi sóc, làm sạch đẹp nghĩa trang liệt sĩ; đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, Quỹ “Nghĩa tình đồng đội”. Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh… ưu tiên tạo công ăn việc làm cho con em liệt sĩ, thương binh, NCC; xây nhà tình nghĩa tặng NCC; chăm sóc, động viên thân nhân các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, NCC già yếu, bệnh tật... Từ thôn bản ở làng quê, tổ dân phố ở thành thị; từ chính quyền đến các tổ chức xã hội; từ cơ quan, doanh nghiệp, tập thể… đến gia đình, cá nhân; từ các cháu thiếu nhi đến các bậc cao niên... đều có thể tham gia phong trào “đền ơn đáp nghĩa”. Việc lớn, việc nhỏ đều mang ý nghĩa cao cả “uống nước nhớ nguồn”.
      Khi phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được nhân rộng, có chiều sâu, hiệu quả thiết thực, huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, thì không những đời sống vật chất, tinh thần của NCC được cải thiện, nâng cao, mà niềm tin của nhân dân, của các đối tượng chính sách, NCC với Đảng, Nhà nước thêm được củng cố, bồi đắp; tạo đồng thuận trong nhân dân và làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Cái được lớn nhất là đạo lý, truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc luôn được giữ gìn và phát huy khi trở thành công việc thường ngày của mỗi người, mỗi tổ chức, của toàn xã hội; tri ân NCC trở thành phong trào sâu rộng. Đó cũng là tâm nguyện, mong muốn của mỗi chúng ta.

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019

Đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, thương binh

Những ngày tháng Bảy, cả nước lại lặng mình tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh cho ngày hòa bình, độc lập và tri ân cho người trở về sau đạn bom khói lửa, gửi lại một phần máu xương nơi chiến trường để bảo vệ bình yên cho Tổ Quốc, cho nhân dân.

Một cái nhìn chủ quan, phiến diện và xuyên tạc sự thật
QĐND - Trong bản “Phúc trình thường niên về tệ buôn bán người trên thế giới” ra ngày 20-6-2019, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng “vấn đề buôn bán người tại Việt Nam vẫn rất nghiêm trọng do không xử lý triệt để tội phạm buôn người theo pháp luật”, từ đó họ đưa Việt Nam vào “nhóm quốc gia có vấn đề buôn bán người bậc 2 và sẽ bị theo dõi do không đạt được những tiêu chuẩn cần thiết nhằm loại bỏ và giảm thiểu nạn buôn bán người”. Cần phải thấy ngay rằng cách nhìn nhận ấy của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là chủ quan, phiến diện một chiều và xuyên tạc sự thật.

NGÀY TRI ÂN

Một năm lẻ ba trăm ngày
Dành riêng một ngày cốt để tri ân.
Vậy mà đại biểu của dân
Nâng lên, đặt xuống băn khoăn nỗi lòng.
Máu xương đổ xuống chất chồng.
Hiến thanh xuân bởi nặng lòng tự do.
Chiến tranh rồi cũng đã qua.
Độc lập, dân chủ, ấm no, hòa bình.
Tri ân người đã hy sinh.
Cũng là đạo lý nặng tình nước non.
Nhiều người thân xác chẳng còn.
Nhiều người thương tật héo mòn tuổi xuân.
Cũng là đạo lý tri ân.
Hai bảy tháng bảy nhân dân nguyện cầu.
Cũng chẳng có lễ gì đâu.
Đèn, hoa, hương khói cúi đầu thành tâm.
Cõi tiên Liệt sĩ lặng thầm.
Độ cho quốc thái muôn phần bình an.
Thương, bệnh binh, Mẹ Việt Nam.
Đồng quà, tấm bánh hỏi han thân tình.
Tất cả họ đã hy sinh.
Cho nền độc lập thái bình tự do.
Lẽ nào ta lại đắn đo.
Dành một ngày nghỉ dùng cho việc này.
Thôi thì một chút giải bày.
Lệ rưng kính cẩn trong NGÀY TRI ÂN.
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"

VỮNG VÀNG, TỰ TIN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN CƠ SỞ GIỮ VỮNG NGUYÊN TẮC


Trong thời gian tới, dự báo tiếp tục có những vấn đề phức tạp trên Biển Đông, Đảng ta tiếp tục kiên trì với chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Quan điểm chỉ đạo là phải kiên quyết giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời cũng phải giữ vững sự ổn định chính trị trong nước và môi trường hòa bình, ổn định với các nước trong khu vực, trên thế giới để xây dựng và phát triển đất nước.
Trước đây trong đấu tranh giành độc lập, ta đã “đem sức ta mà giải phóng cho ta” thì nay phải “đem sức ta mà bảo vệ cho ta”. Cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự giúp đỡ từ bên ngoài là quý báu, nhưng không thể chỉ trông chờ vào đó. Chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt phương châm, tư tưởng chỉ đạo: “4 Tránh”, “3 Không” và “9 K”.
 Đây là vấn đề tiên quyết, không bao giờ cũ, không bao giờ được lệch lạc, phải ăn sâu, bám rễ vào trong nhận thức, hành động của mỗi người dân, mỗi cán bộ, chiến sĩ, chắc chắn chúng ta sẽ luôn vững vàng, luôn tự tin để bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Theo đó, “4 Tránh” là tránh xung đột về quân sự, tránh đối đầu về kinh tế; tránh cô lập về ngoại giao; tránh lệ thuộc về chính trị.
 “3 Không” là: không liên minh quân sự với nước ngoài; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự để chống lại các nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với nước khác.
“9 K” là: kiên quyết đấu tranh, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không nổ súng trước, không để nước ngoài lấn chiếm biển đảo, không để xảy ra xung đột.


Thứ Tư, 24 tháng 7, 2019

HIỂU ĐỂ BẢO VỆ BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC

Quyền tài phán của quốc gia ven biển.

Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Luật Biển Việt Nam năm 2012, vùng biển nước ta được quy định thành 5 vùng: Nội thủy, Lãnh hải, Vùng tiếp giáp lãnh hải, Vùng đặc quyền kinh tế, Thềm lục địa. Ngoài khái niệm về 5 vùng trên, trong bài dưới đây sẽ đề cập thêm về khái niệm “Đường cơ sở” và “Quyền tài phán của quốc gia ven biển”.
1. Nội thủy
Nội thủy của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền.
2. Đường cơ sở
Theo quy định của Luật Biển Việt Nam, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
3. Lãnh hải
Lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hướng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tàu quân sự nước ngoài thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
4. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
5. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam hợp với lãnh hải thành vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Nhà nước thực hiện chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; thực hiện quyền chủ quyền về các hoạt động khai thác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; thực hiện quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
6. Thềm lục địa
Thềm lục địa của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thằm dò, khai thác tài nguyên. Quyền này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa Việt Nam nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam mà không làm phương hại đến chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
7. Quyền tài phán
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển được quy định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.

ĐIỀU ĐỊCH MÀ ĐÁNH


Chiến dịch Sa Thầy là trận đánh thể hiện tài điều địch, dụ địch tài tình của tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Từ khi tiến hành chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, quân đội Mỹ đã rất ưa thích sử dụng chiến thuật “Trực thăng vận”. Mỗi khi phát hiện nơi tập trung lực lượng quân sự của ta, lính Mỹ cùng với cả vũ khí hạng nặng liền được trực thăng chở thẳng từ căn cứ tới ngay khu vực đó. Quân Mỹ thường đổ quân xuống sau lưng đội hình quân ta để đánh bọc hậu. Chiến thuật này được Mỹ gọi là trực thăng vận còn phía ta quen gọi là kiểu “nhảy cóc”.

Bất tuân dân sự - một thủ đoạn nguy hiểm


Thời gian qua, một số tổ chức phản động nước ngoài như Việt Tân, Voice đã triệt để lợi dụng các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo và những thiếu sót, khuyết điểm, các vấn đề bức xúc xã hội ở các địa phương với chiêu bài "tự do", "dân chủ", "nhân quyền" để kích động nhân dân tụ tập, tuần hành, biểu tình chống đối chính quyền. Biểu hiện như: "Bất tuân cưỡng chế" của một số đối tượng khi giải phóng mặt bằng; "bất tuân" quy định về thành lập hội (nhóm), đòi lập các tổ chức xã hội dân sự (thực chất là phản động trá hình); “bất tuân” để phản đối Luật An ninh mạng (năm 2018) hay phản đối trả phí BOT giao thông, từ chối đóng các loại quỹ phúc lợi xã hội...

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

TRI ÂN MUÔN ĐỜI


Vào những ngày này, cả nước lại hướng về Người có công với cách mạng, để tưởng nhớ, để tri ân, để đền đáp, bù đắp lại một phần những mất mát, hy sinh của những người đã chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Tri ân bao nhiêu cho đủ? Chắc hẳn chẳng bao giờ đủ, chẳng có món quà nào ý nghĩa để sánh được công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng....Cần phải tri ân muôn đời, tri ân mãi mãi, bởi vì công lao của thế hệ cha anh đi trước đã ghi tạc vào lịch sử đất Việt, trường tồn cùng non sông gấm vóc, sử sách ghi công, đời đời ghi nhớ.
Hãy hành động trước khi quá muộn, hơn bao giờ hết, làm yên lòng những người đã khuất, làm cho những người có công còn sống được hạnh phúc chính là điều phải làm bằng cái tâm, bằng việc làm dù nhỏ bé nhưng thiết thực nhất, tùy vào điều kiện hoàn cảnh mỗi người, mỗi nhà, mỗi tổ chức, không phải chỉ hô hào rồi để đấy, hoặc phô trương “ủng hộ” rầm rộ, nhưng tiền của, “tấm lòng” không đến được biết bao, biết bao Người có công đang chịu cảnh đau đớn về thể xác, thiếu thốn trăm bề về vật chất ở khắp mọi miền Tổ quốc.
Đến đây, tôi chợt nghĩ đến mình, đang có một người cha là thương binh ¾ mà mấy năm nay chẳng có quà gì để động viên ông, ông có thể không cần vật chất, nhưng ông cần tinh thần, có thể ông vẫn cần lắm lắm chút quà yêu thương, mặc dù ông không bao giờ đòi hỏi; nhớ đến bà bác dâu, có chồng là bác ruột tôi đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bà cũng đang ở một mình, mang nặng tuổi già đau ốm, và nữa.....hàng triệu người có công mà tôi chỉ có tấm lòng thành kính. Tôi nghĩ, đợt này, ngày thương binh liệt sĩ vào đúng thứ bảy, được nghỉ làm, nhất định dịp 27/7 năm nay, mình phải thay đổi, phải có một chút quà gì đó nho nhỏ để động viên các cụ, chung tay cùng cả nước vì Người có công bằng cách làm cho chính những người có công trong gia đình mình được động viên, được hạnh phúc và cần phải đưa thằng con nhỏ đi thắp hương cho các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang để giáo dục nó về “lòng biết ơn”, về trách nhiệm phải tưởng nhớ và tri ân những người có công với cách mạng, với đất nước yên bình, xinh đẹp mà chúng ta đang sống.
                                                               

Việt Nam kiên quyết đấu tranh phòng chống di cư trái phép, mua bán người

 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng khẳng định như trên tại Hội nghị quan chức cao cấp lần thứ 14 Nhóm Công tác của Tiến trình Bali về phòng, chống đưa người di cư trái phép, mua bán người và tội phạm xuyên quốc gia vừa diễn ra trong hai ngày 22 và 23/7 tại Đà Nẵng.

Chủ tịch Quốc hội: Không để gia đình người có công có mức sống thấp hơn cộng đồng dân cư

“Qua 3 năm triển khai theo quy trình giải quyết hồ sơ tồn đọng xác nhận người có công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với nỗ lực rất cao đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai giải quyết hồ sơ tồn đọng với những cách làm sáng tạo, thận trọng, chặt chẽ, công khai, minh bạch, đến nay đã xác nhận được gần 2.000 liệt sĩ, trên 2.600 thương binh”. -

CẢ NƯỚC HƯỚNG VỀ NGÀY 27. 7



Theo thông lệ, hàng năm cứ đến dịp này, Nhân dân cả nước Việt Nam đều hướng tới ngày Tri ân công lao to lớn của các Anh hùng Liệt sĩ, các đồng chí Thương - Bệnh binh, là những người đã anh dũng hy sinh hoặc cống hiến một phần xương máu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên của Nhân dân. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, nhân dịp này đề nghị mỗi người con Đất Việt nên có một hành động thiết thực hoặc một cử chỉ đẹp tri ân họ và gia đình họ.


NHẬN DIỆN MẶT TRÁI “CẦN”



Hiện nay, nhiều biểu hiện về nhận thức và việc làm chưa đúng với Tư tưởng Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính thể hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên ở các mức độ khác nhau.

TỰ DO BÁO CHÍ Ở PHƯƠNG TÂY



Từ sau thế chiến II, hoạt động báo chí ở Mỹ và các nước phương Tây đã cởi mở hơn trước. Tuy nhiên, bằng hệ thống luật pháp, những chính sách và mức độ khác nhau, chính quyền Mỹ và các nước phương Tây vẫn quản lý chặt chẽ báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngoài ra với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường báo chí, truyền thông, hầu như tự do xuất bản báo chí và thành lập các tổ chức truyền thông hiện đại chỉ là quyền tự do của các ông chủ những tập đoàn tài phiệt giàu có, của những người có tiền, có quyền lực trong tay. Những người nghèo hay tổ chức của họ không thể tự do xuất bản báo chí hoặc duy trì hoạt động của một cơ quan truyền thông. Đặc biệt, các chính quyền phương Tây chưa bao giờ đối xử nhẹ tay đối với thông tin báo chí và những người làm báo bất đồng chính kiến, có tư tưởng không đồng thuận với họ, nhất là đụng chạm đến lợi ích của các ông chủ và nhà cầm quyền. Tiêu biểu là vụ việc của E. Xnâu-đân cựu nhân viên Tình báo CIA (Mỹ).

“đấu tranh vì tự do cho Việt Nam”. Theo kiểu của Will Nguyen là hoàn sai trái.



Đó là Will Nguyen, kẻ năm ngoái từng bị TAND TP Hồ Chí đưa ra xét xử và cho hưởng khoan hồng, nhưng khi trở về Mỹ lại tiếp tục cấu kết với nhiều tổ chức phản động chống phá Việt Nam. hô hào kêu gọi về Việt Nam biểu tình làm “cách mạng mùa hè”. với những kế sách chuyển “lửa dân chủ về quê nhà”. Bằng các chiêu trò xuyên tạc, kích động, sử dụng tin giả, tin xấu làm phương hại đến an ninh kinh tế và chính trị của đất nước. Nhìn lại những hoạt động chống phá đất nước những năm gần đây của các tổ chức phản động , chúng ta dễ dàng nhận ra, âm mưu kích động người dân tụ tập, biểu tình, tạo ra các điểm nóng rồi có thể thổi phồng thành xung đột, bạo loạn, có sử dụng vũ khí, tạo ra bạo lực.

Thói cục bộ, bè phái - một trong những vấn đề nhân dân bức xúc nhất



Trong trái tim mỗi con người, ai cũng có “một phần” thuộc về mẹ cha, con cái, anh em, bạn bè, dòng họ, quê nhà của mình. Trong tình cảm chung, ai cũng có một phần tình cảm dành riêng cho những người có quan hệ thân thiết với mình. Đã là tình cảm thì khó để phân chia chi li, tách bạch rạch ròi theo kiểu “cân đong đo đếm” chính xác như tính toán trọng lượng, nhưng một khi đã dấn thân vào con đường cách mạng và theo đuổi sự nghiệp chính trị thì mỗi cán bộ, đảng viên rất nên giữ được sự tỉnh táo, minh mẫn cần thiết để không bị tình cảm cá nhân chi phối, thiên vị trong giải quyết, xử lý các mối quan hệ với đồng chí, đồng đội và với tổ chức, cơ quan, đơn vị.

“Chủ nghĩa hậu duệ” làm biến dạng, tha hóa quyền lực Nhà nước



Tục ngữ Việt có câu “Con hơn cha là nhà có phúc”. Đó không chỉ là mong muốn, khát vọng nhân văn của thế hệ trước đối với thế hệ sau mà còn phần nào nói lên tình cảm, niềm tin của ông cha gửi gắm vào sự nỗ lực phấn đấu trưởng thành, tiến bộ của con cháu. Trên thực tế, dù ước vọng “nhà có phúc” là chính đáng, nhưng vẫn có một số cán bộ, đảng viên hoặc là thiếu phương pháp giáo dục, rèn luyện, quản lý con một cách đúng mực, hoặc là nuông chiều, nâng đỡ con một cách vội vàng, thái quá khiến con cái họ sớm ảo tưởng về mình rồi thui chột, sa ngã. Thời gian gần đây, sau khi các phương tiện thông tin đại chúng công bố việc bổ nhiệm nhân sự cán bộ lãnh đạo trung, cao cấp hay đăng tải thông báo kết quả xem xét, xử lý kỷ luật của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, dư luận thường “soi” rất kỹ nhân sự được bổ nhiệm hay cá nhân cán bộ, đảng viên bị xem xét, xử lý, thi hành kỷ luật. Với những nhân sự đủ tài đức, tiêu chuẩn và trải qua quá trình rèn luyện, công tác, trưởng thành từ cơ sở mà được bổ nhiệm, mọi người dân đều cảm thấy yên lòng và tỏ ý khẩu phục, tâm phục đối với quyết định bổ nhiệm nhân sự này. Còn với những nhân sự được bổ nhiệm dù trẻ tuổi, có bằng cấp cao, song chưa trải qua rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tiễn, chưa chứng tỏ được năng lực nổi trội so với người khác và chưa có nhiều cống hiến cho tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương thì dư luận thường đặt câu hỏi đầy nỗi niềm: “Đồng chí này là con đồng chí nào?”. Với những nhân sự đủ tài đức, tiêu chuẩn và trải qua quá trình rèn luyện, công tác, trưởng thành từ cơ sở mà được bổ nhiệm, mọi người dân đều cảm thấy yên lòng và tỏ ý khẩu phục, tâm phục đối với quyết định bổ nhiệm nhân sự này. Còn với những nhân sự được bổ nhiệm dù trẻ tuổi, có bằng cấp cao, song chưa trải qua rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tiễn, chưa chứng tỏ được năng lực nổi trội so với người khác và chưa có nhiều cống hiến cho tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương thì dư luận thường đặt câu hỏi đầy nỗi niềm: “Đồng chí này là con đồng chí nào?”.

Cần kiên quyết hơn trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”


Phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” vốn là công việc rất khó khăn, phức tạp, nó liên quan tới tư tưởng, biểu hiện âm thầm, gặm nhấm dần lòng tin, xói mòn dần dần phẩm chất đạo đức của cá nhân, tổ chức. Thực tế hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” liên quan gián tiếp và trực tiếp tới công tác xây dựng tổ chức, xây dựng con người, công tác cán bộ v.v.. Hơn nữa, khi thực hiện nhiệm vụ dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của mỗi con người. Tuy khó nhưng không thể không làm, vì vấn đề này có liên quan đến sinh mệnh chính trị, uy tín của Đảng và sự tồn vong chế độ. Như vậy, quan điểm tích cực, chủ động và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là rất quan trọng. Nếu không kiên quyết thực hiện sẽ trở nên “nửa vời” và không đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Cán bộ, đảng viên cần khiêm tốn học hỏi, cầu thị, lắng nghe ý kiến phản biện lành mạnh



Nói về tác hại của duy ý chí, sinh thời, lãnh tụ V.I.Lê-nin từng cho rằng: “Đối với một chính đảng vô sản, không có sai lầm nào nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan”. Đối với cán bộ, đảng viên, tư tưởng duy ý chí, thái độ áp đặt ý kiến chủ quan cá nhân không chỉ là biểu hiện nổi cộm của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, độc đoán, gia trưởng, mà còn gây ra sự nghi kỵ, mất đoàn kết nội bộ, dẫn tới mất sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng; kìm hãm sự phát triển lành mạnh của cơ quan, đơn vị, địa phương và rộng hơn là cả xã hội.

Sẽ phải trả giá đắt nếu để bệnh duy ý chí tái phát



Những người duy ý chí thường có chung đặc điểm là xem xét, nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng theo cảm tính chủ quan của riêng mình, coi ý kiến của mình luôn đúng, thậm chí “duy nhất đúng”, muốn nhanh chóng đạt kết quả, mục tiêu mà không xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, thấu đáo mọi vấn đề, mọi khía cạnh, dễ ảo tưởng về sức mạnh chủ quan mà không tiên lượng được hết những khó khăn, trở ngại do cả yếu tố khách quan và chủ quan gây ra. Đánh giá tình hình thường chỉ dựa vào ban thường vụ, cấp ủy, ban cán sự đảng… một nhóm người có quyền quyết định, mà không nghiên cứu kỹ thực tế, nên đã ban hành quyết sách không phù hợp. Còn nữa “tân quan, tân chính sách”, nhiều cán bộ thời gian đầu mới giữ cương vị lãnh đạo luôn tỏ ra sốt sắng, lo lắng cho việc chung, muốn sớm tạo ra dấu ấn của riêng mình. Đáng lo hơn xuất phát từ lợi ích nhóm rất tinh vi ban hành cơ chế, chính sách có lợi cho nhóm thiểu số cá nhân người có chức có quyền, song lại gây ra bao hệ lụy, thậm chí để lại hậu quả khôn lường về kinh tế-xã hội.

Đánh giá đúng để quy hoạch và bổ nhiệm đúng cán bộ



Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, công tác nhân sự cấp ủy hết sức quan trọng, đòi hỏi phải được tiến hành đúng nguyên tắc, quy trình, công tâm, khách quan, phát huy dân chủ, trí tuệ của tập thể cấp ủy và cán bộ, đảng viên. “Cán bộ là gốc của mọi công việc”,“công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, nên phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ, phải trọng nhân tài.

“Né” trách nhiệm - Căn bệnh trầm kha



Như chúng ta biết, trách nhiệm công vụ có thể coi là hạt nhân tiêu biểu trong tập hợp các trách nhiệm. Vì trách nhiệm ấy là nhiệm vụ mà đất nước giao cho cá nhân cán bộ, công chức, viên chức theo chức trách được phân công. Trách nhiệm công vụ đòi hỏi cán bộ, công chức phải thực hiện nhiệm vụ được giao đến cùng, không thể thoái thác hoặc trao lại cho ai khác, buộc người cán bộ, công chức, viên chức phải gắn mình với thực hiện công vụ cho đến khi có kết quả. Vì thế, khi đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, cụm từ “làm tròn nhiệm vụ”, "hoàn thành nhiệm vụ", "hoàn thành tốt nhiệm vụ" thường được dùng để nói về việc đã thực hiện đúng, đủ, tốt nhiệm vụ theo chức trách được phân công.

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

MỸ ĐẢ KÍCH TRUNG QUỐC 'BẮT NẠT' VIỆT NAM GIỮA TRANH CÃI VỀ TÀU KHẢO SÁT


Hôm thứ Bảy lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có “hành vi bắt nạt” và “làm suy yếu hòa bình và an ninh” khu vực giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông.

     Thông cáo dài của Bộ Ngoại giao Mỹ cho thấy một sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam trong một tranh cãi gay gắt với nước láng giềng và thể hiện lập trường mạnh mẽ của Mỹ về vụ việc được nói là tàu Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Sự xuất hiện của tàu Hải Dương Địa Chất 8 gần Bãi Tư Chính khơi ra phản ứng quyết liệt từ Việt Nam kể từ khi tin tức loan đi hồi tuần trước cho biết các tàu của lực lượng hải cảnh của Việt Nam đã làm đúng nhiệm vụ ở khu vực này trong suốt một tuần gần một lô dầu thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Mỹ, nước không có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông nhưng luôn khẳng định quyền tự do hàng hải ở đây, đã nhiều lần chỉ trích Trung Quốc về những hành động ngày càng quyết đoán nhằm xác lập chủ quyền rộng lớn trong vùng biển mà Việt Nam và một số nước khác có tranh chấp với Trung Quốc. “Hoa Kỳ lo ngại về những bản tin về sự can thiệp của Trung Quốc vào các hoạt động dầu khí ở Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], bao gồm các hoạt động thăm dò và sản xuất từ lâu nay của Việt Nam,” phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói trong một phát biểu sáng thứ Bảy. “Những hành động khiêu khích liên tục của Trung Quốc nhắm vào việc phát triển dầu khí ngoài khơi của các nước có tuyên bố chủ quyền khác đe dọa an ninh năng lượng trong khu vực và làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở.”Thông cáo nói thêm: “Việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn đang tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa, cùng với những nỗ lực khác để khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp ở Biển Nam Trung Hoa, bao gồm việc sử dụng dân quân hàng hải để hăm dọa, cưỡng ép và đe dọa các quốc gia khác, làm suy yếu hòa bình và an ninh của khu vực. “Áp lực gia tăng của Trung Quốc đối với các nước ASEAN chấp nhận các điều khoản của Bộ Quy tắc Ứng xử tìm cách hạn chế quyền của họ hợp tác với các công ty bên thứ ba hoặc các nước, càng để lộ ra thêm ý định khẳng định quyền kiểm soát tài nguyên dầu khí ở Biển Đông. “Mỹ kiên quyết phản đối sự cưỡng ép và đe dọa của bất kì nước tuyên bố chủ quyền nào nhằm khẳng định các yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải của mình. “Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này. Cố vấn An ninh Quốc gia Nhà Trắng ngày thứ Sáu cũng đưa ra phát biểu tương tự nhắm vào Trung Quốc dù không nhắc cụ thể tới vụ tranh chấp với Việt Nam. “Hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa hòa bình & ổn định trong khu vực,” ông viết trên Twitter.




"Các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại" và "gây bất ổn" của Trung Quốc nhắm vào các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam phải bị chấm dứt.

Trong tuyên bố được phát đi ngày 20-7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nhấn mạnh các hành động của Trung Quốc trong những ngày gần đây là "sự cản trở các hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí đã có từ lâu của Việt Nam".

72 NĂM NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU - HỌC VIỆN QUỐC PHÒNG NÊU CAO ĐẠO LÝ UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN


Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, trải qua những cuộc kháng chiến trường kỳ dựng và giữ nước đã có biết bao lớp người làm nên những chiến công vĩ đại, cống hiến hy sinh, xây dựng, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Trong đó, có những người con dũng cảm của Quân đội nói chung, Học viện Quốc phòng nói riêng.

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019

VẬT CHẤT <=> DANH DỰ

Vật chất cũng chỉ phù du.
Đừng tham lam qúa ngồi tù như chơi.
Danh dự sống mãi trên đời.
Lưu truyền muôn thuở làm Người nhớ nha.
Kết quả hình ảnh cho trần bắc hà
Kết quả hình ảnh cho trần bắc hà

BÃI TƯ CHÍNH HOÀN TOÀN THUỘC VỀ VIỆT NAM, TRUNG QUỐC KHÔNG CÓ BẤT KỲ QUYỀN GÌ

         Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.       Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
        Vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam
       Theo các quy định của Luật biển quốc tế về vùng đặc quyền kinh tế, hoạt động thăm dò địa chất của tàu Haiyang Dizhi 8 của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã vi phạm gần như tất cả các điều khoản trong Công ước Luật biển quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Hoạt động này nếu nhằm mục đích thăm dò trữ lượng dầu khí ở đáy vùng đặc quyền kinh tế, cũng là vùng thềm lục địa của Việt Nam, đã xâm phạm vào quyền chủ quyền của Việt Nam tại đây.
       Nếu hoạt động thăm dò địa chất nhằm phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học, thì dù dưới mục đích hoà bình hay không, cũng đã xâm hại đến quyền tài phán của Việt Nam trên vùng đặc quyền kinh tế của mình.
        Ngoài ra, nó còn làm ảnh hưởng đến hoà bình và ổn định trong khu vực biển này; ảnh hưởng đến các quyền tự do đi lại và khai thác thác kinh tế của Việt Nam cũng như các quốc gia khác (dưới sự cho phép của Việt Nam) tại đây.
         Trung Quốc không có vùng biển hợp pháp nào chồng lấn với Bãi Tư Chính của Việt Nam
         Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam, và là thềm lục địa phía nam của Việt Nam.

         Đây là vùng biển được hoạch định theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc.
Vùng biển này không tranh chấp với nước nào, và lại càng không tranh chấp với Trung Quốc.
Việc Trung Quốc vẽ đường lưỡi bò liếm qua 60% vùng biển Việt Nam, biến vùng biển không tranh chấp của Việt Nam thành vùng tranh chấp là hoàn toàn phi pháp, không được luật pháp quốc tế công nhận.
Phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế trong vụ Philippines kiện Trung Quốc, một văn bản pháp lý quốc tế hướng dẫn, giải thích Công ước 1982, đã bác bỏ thẳng thừng yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc.
Mặc dù Trung Quốc không tham gia vụ kiện và tuyên bố không chấp nhận Phán quyết, nhưng văn bản pháp lý này vẫn nguyên giá trị của nó. Và Phán quyết khẳng định rằng, đường lưỡi bò là không có cơ sở pháp lý, nói nôm na là nó không có giá trị gì để Trung Quốc đòi quyền khai thác tài nguyên trong đường lưỡi bò. Do đó, Trung Quốc không có vùng biển hợp pháp nào tranh chấp với Việt Nam tại khu vực DK1, trong đó có Bãi Tư Chính.
      Tòa Trọng tài quốc tế kết luận rằng, không có căn cứ pháp lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên, bên ngoài những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng biển nằm bên trong ‘đường chín đoạn’.
       Điểu gì ẩn sau những cẳng thẳng trên biển Đông?
Hoạt động trái phép của các tàu Trung Quốc ở khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam trước hết là nhằm ngăn cản các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam tại khu vực giàu tiềm năng dầu khí này.
Việc Trung Quốc đe dọa, ngăn cản Việt Nam và các đối tác nước ngoài thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực này là hành động vô lý và ngang ngược.
Hành động này nằm trong chiến lược của Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò bất hợp pháp tại Biển Đông để ngăn cản tất cả các đối tác quốc tế nào muốn hợp tác dầu khí với Việt Nam.
        Các bước đi này nằm trong chiến lược lâu dài của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông, kiểm soát hoàn toàn tài nguyên trong Đường lưỡi bò, chiếm 80% diện tích Biển Đông.
Việt Nam kiên trì, kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình trong vùng đặc quyền kinh tế
         Ngày 19/7, Việt Nam đã lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết: “Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam”.
        Đây là lần thứ 2 Việt Nam lên tiếng về vấn đề này. Trước đó, ngày 16/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước của Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 và pháp luật Việt Nam.
        Trên thực tế, thời gian qua, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các biện pháp hòa bình để giải quyết vấn đề, đấu tranh yêu cầu tôn trọng vùng biển Việt Nam, các quyền và lợi ích hợp pháp trên vùng biển của mình, không có hành động làm phức tạp tình hình.
         Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã và đang thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.
Phát huy tinh thần dũng cảm, khôn khéo và sáng tạo, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam nhất định sẽ bảo vệ thành công chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình trên vùng biển phía nam của Tổ quốc.
      Nhân dân Việt Nam, dư luận các nước trong khu vực và thế giới phản đối các hành động trái phép của Trung Quốc trên vùng biển Việt Nam, ủng hộ các lực lượng chấp pháp Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng của mình, góp phần bảo vệ hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực và trên thế giới./.

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2019

LỜI VỌNG LÊN TỪ ĐÁY SÔNG HUYỀN SỬ

Đò lên Thạch hãn ơi, chèo nhẹ!
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm,
Có tuổi 20 thành sóng nước,
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Khi đọc những dòng này không ai là không day dứt, cảm thấy còn mắc nợ với cha anh. Không biết có ai chung nỗi niềm day dứt theo chiều hướng với tôi không?)
Sau mỗi đêm gần đại đội không về.
81 ngày đêm gần một trăm đại đội!
Các anh vượt sông mỗi khi trời tối
Bờ bên kia theo tiếng gọi cổ thành.
Và giờ đây tất cả hóa vô hình
Máu hòa nước nước sông xanh màu sẫm,
45 năm dưới đáy sông thăm thẳm,
Thạch hãn bao mùa anh đói lạnh lắm không?
Xương cốt đè nhau lớp lớp chất chồng.
Hoa ngày lễ tràn mặt sông ứa lệ,
Xác đồng đội, sông lở bồi lặng lẽ,
Ai xin ai chèo nhẹ để anh nằm?
Lời thơ buồn, đẫm chất nhân văn,
Với xương máu các anh
vẫn là chưa đủ.
Dù chèo nhẹ anh cũng không thể ngủ,
Bê bết bùn, cùng đủ thứ tanh hôi.
Các anh kêu đáy sông vọng thấu trời:
Hỡi đồng đội đưa chúng tôi về đất mẹ!
Thức dậy chúng tôi xin đừng chèo nhẹ!
Chậm ngày nào thi thể hóa bùn đen!
Chậm một ngày ,lịch sử nợ dày thêm.

ĐẠI HỘI TÉ NƯỚC

Tóm tắt sơ bộ nguyên nhân và tình hình đại hội té nước 2019 (XIN ĐĂNG LẠI):

- Việt Nam cắm giàn khoan khai thác dầu mỏ trên thềm lục địa của mình. Vị trí không liên quan tới các tranh chấp trên Biển Đông, nhưng "vô tình" nằm gần vị trí chiến lược, chốt chặn đường ra eo biển Malacca và không xa các tuyến hàng hải chủ chốt trong khu vực.

- Trung Quốc triển khai lực lượng nhằm gây áp lực buộc Việt Nam ngừng dự án và rút giàn khoan, âm mưu biến nơi không có tranh chấp thành nơi có tranh chấp và thực thi chiến lược "để lâu cứt trâu hóa bùn".

- Việt Nam quyết không lùi bước và phản ứng nhanh chóng khi điều lực lượng tương đương để đấu tranh, khiến đối phương hoàn toàn bất ngờ. Các tàu chấp pháp Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình như phát loa tuyên truyền về chủ quyền biển đảo của Việt Nam, yêu cầu phía Trung Quốc không có hành động khiêu khích và gây hấn.

- Tàu Trung Quốc liên tục thể hiện sự hung hăng khi dùng sườn đâm húc vào mũi tàu Việt Nam.

- Đại hội diễn ra ở một vùng trên Biển Đông gần bãi Tư Chính, còn bản thân bãi Tư Chính không có hoạt động nào vì đây là khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam và không có tranh chấp.

- Đông Lào và Các tiểu vương quốc TNT Thống nhất đặt hàng loạt đơn vị trong tình trạng sẵn sàng xuất phát nhanh, nhiều lần tỏ ý sẵn sàng can thiệp để làm dịu tình hình. Tuy nhiên, Việt Nam từ chối do đây là vùng không có tranh chấp, thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam và tình hình chưa vượt mức kiểm soát. Quán bia sẽ tiếp tục đưa những thông tin không ảnh hưởng tới vấn đề ngoại giao và hoạt động tác chiến. KAKA.......

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

BỘ MẶT THẬT CỦA NHỮNG KẺ “DÂN CHỦ” TỰ XUNG


Những ngày qua lại bùng lên những kẻ gọi là “nhà dân chủ”, chúng tự phong cho nhau giải thưởng “nhân quyền”, chúng gắn lên mình những “mục tiêu” với các mỹ từ “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do”, “bảo vệ môi trường” nhưng thực chất các đối tượng này lại bộc lộ một mưu đồ phản động. Chúng triệt để tận dụng lợi thế của các trang mạng xã hội để dụ dỗ, kích động làm nhiễu loạn thông tin ảnh hưởng đến trật tự an ninh chính trị đất nước.

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

Quan điểm cho rằng: Việt Nam là xã hội không có "dân chủ" là hoàn toàn sai trái


Những năm gần đây, để đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, các thế lực thù địch tăng cường đưa ra các quan điểm sai trái nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, trong đó, chúng đưa ra quan điểm: Xã hội Việt Nam không có “dân chủ” (hay nhân dân Việt Nam sống trong môi trường không có dân chủ hoặc xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với nền dân chủ hình thức). Đây là những quan điểm hoàn toàn sai trái, phản động, nhằm kích động, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước ta, nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đang dày công xây dựng.
Như chúng ta đã biết, dân chủ ở Việt Nam hiện nay là dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ rộng rãi với nhân dân lao động, chuyên chính với những kẻ đi ngược lại lợi ích của nhân dân và chống đối chủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của chủ nghĩa xã hội, của Nhà nước, của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng cơ bản, xuyên suốt của mọi hoạt động, mọi tổ chức, mọi con người về dân chủ là xác định quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, là khẳng định và thực hiện mọi quyền lực thuộc về nhân dân; ý chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của nhân dân là sức mạnh to lớn. Dân chủ ở Việt Nam có nội dung toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó dân chủ hóa đời sống kinh tế là quyết định. Chỉ có dân chủ hóa trong đời sống kinh tế thì dân chủ hóa trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa mới thực sự có ý nghĩa và phát huy tác dụng tích cực đối với công cuộc đổi mới.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, đã lãnh đạo toàn dân kháng chiến giành độc lập dân tộc lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà  nước thực sự của dân, do dân, vì dân, đưa người dân nô lệ thành người làm chủ đất nước. Trong công cuộc xây dựng xã hội mới, sau hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công việc xây dựng phát triển dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết quả được thể hiện trên ba lĩnh vực cơ bản sau:
Trên lĩnh vực kinh tế, Kinh tế đất nước không ngừng phát triển, với nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2003 dần hồi phục, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên[1](tăng trưởng GDP năm 2018 đạt 7,3%); thu nhập bình quân đầu người (năm 2015) khoảng 2.109 USD. Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Trong những năm qua, và hiện nay, Việt Nam luôn được cộng đồng quốc tế tuyên dương là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về tốc độ tang trưởng và hiệu quả xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên lĩnh vực Tư tưởng, văn hóa - xã hội phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực. Chính sách an sinh xã hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, người có công và bảo trợ xã hội. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Trên lĩnh vực chính trị, Mọi người dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, thực hành dân chủ rộng rãi, tạo mọi điều kiện cho các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền dân chủ rộng rãi thực hiện quyền dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; đồng thời xác lập rõ cơ chế vận hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển đất nước, một mặt, tăng cường sức mạnh của các thành viên, mặt khác quan trọng hơn là tạo ra sức mạnh tổng thể của hệ thống chính trị với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”. Nhân dân Việt Nam đã được trực tiếp tham gia vào các văn kiện đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và đảng bộ các cấp, tham gia xây dựng các bộ luật, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương.
Với những thành tựu trên, Việt Nam ngày càng là đất nước tươi đẹp, phồn vinh, có nền dân chủ rộng rãi, có môi trường văn hóa tốt đẹp lành mạnh…một đất nước ngày càng có uy tín trên trường quốc tế trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, năm 2019 đã chính thức trở thành ủy viên không thường trực của liên hợp quốc. Những minh chứng trên đã bác bỏ hoàn toàn quan điểm của các thế lực thù địch, cho rằng: Xã hội Việt Nam là xã hội không có “dân chủ”


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr 224, 225.

GIÁC NGỘ


GIÁC NGỘ

“Giác ngộ” là mong muốn được tiến bộ; một xã hội tiến bộ là một xã hội có con người tiến bộ; con người muốn tiến bộ thì cần thiết phải giác ngộ cái hay, cái tốt đẹp, tích cực cải thiện để càng tiến bộ hơn.

Người nông dân bình thường như chúng tôi luôn tâm niệm rằng “ăn cây nào thì rào cây ấy” giác ngộ của chúng tôi chỉ giản dị như vậy thôi.

Cuộc sống tuy có nhiều biến động, kinh tế thị trường tác động trực tiếp ham muốn, lòng tham bằng sự cám dỗ vật chất…có 1 bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống dẫn đến tham ô, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, cục bộ, lợi ích nhóm…với số vụ tăng lên, tích chất phức tạp, thủ đoạn tinh vi hơn. Số này không phải là cán bộ đảng viên thường đâu nhé? Họ là ai? Tại sao không “giác ngộ”? chúng là loại người “ăn cây Táo lại rào cây Sung”. Có lẽ chúng đang “ngộ nhận”.

Trong chiến tranh có khi bị bắt, bị địch dùng vật chất cám dỗ hoặc bị giam cầm, tù đầy tra tấn… Nhưng thà chết, sẵn sàng chết và sẵn sàng để chết-được chết vì độc lập, vì tự do, vì cơm no áo ấm và hạnh phúc của nhân dân. Số này có khi chỉ là cán bộ, đảng viên hoặc chiến sỹ thường thôi nhé? Họ là ai? Họ là những con người rất bình thường nhưng lại “giác ngộ” được chân lý, lẽ phải của lý tưởng cộng sản. Họ là những Anh hùng.

Kỷ niệm 72 năm ngày thương binh liệt sỹ cho chúng tôi gửi tới các anh sự tri ân sâu sắc; tưởng nhớ và tôn vinh bằng sự kính trọng và lòng biết ơn tới các anh hùng, liệt sỹ, các thương binh, bệnh binh đã cống hiến, hy sinh tính mạng hay một phần thân thể của mình cho Tổ quốc hôm nay. “Nơi suối vàng” có linh thiêng các anh hãy về “vật” chết chúng nó đi; đừng để chúng nó ‘ngộ nhận”. Để cho đất nước Việt Nam ta – như bác Hồ mong muốn “ngày càng to đẹp hơn” “xứng vai với cường quốc 5 châu”.

                                                                   Tg: 0181

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2019

NHỮNG NGÀY ĐẦU TIÊN XÂY DỰNG NHÀ GIÀN DK1 TRÊN THỀM LỤC ĐỊA PHÍA NAM CỦA TỔ QUỐC


Tháng 11 năm 1988, Phó Đô đốc Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân  giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 về việc khảo sát đáy biển tìm bãi cạn san hô để dựng nhà giàn, bảo vệ chủ quyền trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc.

SEN

Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng.
Thời nay gặp mấy cô nàng.
Hoa phai, nhụy héo bẽ bàng đầm sen.
Résultat de recherche d'images pour "hình ảnh thể thao trên cầu nhật tân"
Résultat de recherche d'images pour "hình ảnh thể thao trên cầu nhật tân"

Chủ động chiếm lĩnh không gian mạng, góp phần đẩy lùi nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch



Giai đoạn hiện nay không ai có thể phủ nhận vai trò tích cực của Internet và mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội, khi chúng ta đang trong thời đại của kỹ thuật số, công nghệ thông tin, thế giới dường như ngày càng phẳng hơn, giúp con người kết nối nhanh hơn, rộng hơn, xa hơn, nhiều hơn. Nhất là khi mạng xã hội như Facebook, Zalo, Twiter, Youtube… đã và đang thu hút hàng tỷ người dùng trên toàn thế giới. Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 58 triệu người dùng internet, trong đó một phần ba trong số đó là thanh thiếu niên từ 15 đến 24 tuổi, đều tham gia ít nhất một phương tiện truyền thông xã hội, phổ biến nhất là các trang mạng xã hội… và mọi người được tự do đưa tin, đăng bài, lời bình (comment), livestream các sự kiện, sự việc mà không cần phải qua kiểm duyệt của cơ quan chức năng. Nếu những thông tin tích cực, có định hướng tốt, được đông đảo người dân quan tâm, ủng hộ, chia sẻ, sẽ là kênh tốt để tuyên truyền. Ngược lại, nếu là thông tin sai sự thật, xấu độc, xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt, bị các lực lượng thù địch lợi dụng sẽ rất nguy hại cho cộng đồng, thậm chí nguy hại đến chế độ. Vì vậy để “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”[1] góp phần hạn chế triệt để mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của mạng xã hội, chúng ta cần phải chủ động chiếm lĩnh và làm chủ Internet cũng như mạng xã hội, cần làm tốt một số giải pháp sau:

CẦN NHẬN DIỆN MỘT SỐ TÀ ĐẠO ĐANG HOẠT ĐỘNG TRÁI PHÉP Ở NƯỚC TA


CẦN NHẬN DIỆN MỘT SỐ TÀ ĐẠO ĐANG HOẠT ĐỘNG TRÁI PHÉP Ở NƯỚC TA
Theo Từ điển tiếng Việt: “Tà đạo là đạo giáo chuyên dùng bùa phép mê hoặc người; đường lối sai quấy không chính đáng”. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt: "Tà đạo: Tôn giáo khác với tôn giáo được coi là chính thống". Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Văn Đoài, Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân định nghĩa: "Tà đạo là một loại đạo lạ (so với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống) nhưng khuynh hướng hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hóa, vi phạm pháp luật".
Ở Việt Nam, những năm qua, tà đạo thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Các tổ chức này đã thu hút được một số lượng người tin theo, trong đó có tà đạo đã lôi kéo hàng nghìn người tham gia, sinh hoạt tại nhiều địa phương, như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Pháp Luân Công và đặc biệt gần đây là tà đạo Hội Thánh đức Chúa Trời, dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu, song, đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 20 tỉnh, thành phố với hàng nghìn người tham gia, nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa… Việc tuyên truyền, phát triển tà đạo đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, gây tâm lý bức xúc, hoang mang trong một bộ phận quần chúng và tín đồ các tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm phức tạp tình hình ANCT-TTATXH tại địa phương.
Qua nghiên cứu, căn cứ theo địa bàn xuất hiện, nguồn gốc xuất xứ và nội dung, phương thức hoạt động, có thể phân chia tà đạo thành hai nhóm chính: Nhóm thứ nhất có nguồn gốc hình thành liên quan đến các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, điển hình như các tà đạo: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam... có nguồn gốc và bản chất liên quan đến Tin lành; các tà đạo: Đạo Tràng Hương Quảng, Pháp môn Di Lặc, Bửu Tòa Tam giáo... có nguồn gốc và bản chất gắn với Phật giáo, Đạo giáo. Nhóm thứ hai có nguồn gốc từ nước ngoài truyền vào Việt Nam, như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Pháp Luân Công, Canh tân đặc sủng... Nhóm này mang tính lai tạp giữa một số tôn giáo khác nhau, như: Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Dù thuộc nhóm nào thì đặc điểm chung của các tà đạo này luôn tự coi mình là một tổ chức tôn giáo; giáo lý của họ chỉ là sự vay mượn hay chính xác hơn là xuyên tạc, bóp méo giáo lý của các tôn giáo khác theo hướng mê tín dị đoan để phục vụ cho ý đồ của những kẻ cầm đầu; giáo lý, lễ nghi của các tà đạo thường đơn giản, không có hệ thống và hoàn chỉnh như tôn giáo truyền thống, hàm chứa yếu tố mê tín, có màu sắc chính trị.
Người tin theo các tà đạo thuộc nhiều thành phần như: Trí thức, cán bộ, viên chức và công nhân, nông dân, nhưng chủ yếu là người nghèo, có trình độ dân trí thấp; họ bị số đối tượng cầm đầu lợi dụng, lừa mị, lôi kéo tham gia. Các đối tượng sáng lập, cầm đầu và cốt cán thường là những chức sắc, chức việc và tín đồ có uy tín trong tôn giáo, dân tộc, thậm chí cả số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị. Mục đích chính của việc hình thành và phát triển tà đạo là nhằm mục đích trục lợi cá nhân thông qua sự giúp đỡ, đóng góp tiền của, công sức của những người tin theo tà đạo. Số đối tượng cầm đầu thường triệt để lợi dụng những vấn đề bức xúc, khó khăn mà người dân không tự giải quyết được để tác động, lôi kéo họ dựa vào niềm tin tâm linh nhằm giải thoát những vướng mắc về tâm lý và tư tưởng đang nảy sinh. Hoạt động của các tà đạo chủ yếu nhằm thực hành các hoạt động mê tín dị đoan, thực hành tín ngưỡng phản khoa học, phi đạo đức và văn hóa nhằm thu lợi bất chính, như yêu cầu người tin theo phải đóng góp tiền của, công sức xây dựng mới hay tu sửa nơi thờ tự, phục vụ hoạt động duy trì và phát triển tổ chức của các đối tượng cầm đầu, cốt cán. Riêng đối với một số tà đạo như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn… các đối tượng cầm đầu, cốt cán thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức nhằm chống phá chính quyền, cản trở việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xâm phạm ANCT-TTATXH tại địa phương.


Âm mưu “cách mạng mùa hè”


Âm mưu “cách mạng mùa hè”

Sau các vụ biểu tình, gây rối chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam vào mùa hè năm ngoái, TAND các địa phương đã đưa hàng chục đối tượng ra xét xử trong các vụ án liên quan đến xâm phạm an ninh quốc gia, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, kích động, tụ tập đông người, gây rối trật tự công cộng. Mức án cao nhất là 20 năm tù, thấp nhất cho hưởng án treo.
Dư luận nhân dân đồng tình cho rằng, việc truy tố các bị cáo trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không thể dung thứ những kẻ muốn “lật đổ chính quyền nhân dân”. Trong số gần 20 bị cáo bị đưa ra xét xử tại TP Hồ Chí Minh, Nghệ An và Ninh Thuận, có 13 người được xác định là thành viên của những tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, như: “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” và Việt Tân. Không chỉ chống phá trên không gian mạng, những đối tượng này còn chiêu mộ người tham gia tổ chức, đồng thời trực tiếp nhúng tay vào các vụ khủng bố như vụ dùng bom xăng tấn công trụ sở Công an phường 12, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh vào ngày 20-6-2018,  dưới sự giật dây của tổ chức phản động lưu vong “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” do Đào Minh Quân đứng đầu. Tổ chức này thường xuyên tuyên truyền, kích động biểu tình, phá hoại nhân dịp các ngày lễ, tết của đất nước và trước đó cũng từng gây ra vụ đốt kho xe vi phạm giao thông số 1 của Công an TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và đặt bom xăng ở sân bay Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh...
Tại Nghệ An, TAND tỉnh Nghệ An từng xét xử vụ án “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đối với Lê Đình Lượng và tuyên phạt với mức án 20 năm tù giam và 5 năm quản chế. Theo cáo trạng, thông qua mạng xã hội, Lượng dụ dỗ, lôi kéo nhiều người vào tổ chức Việt Tân. Lượng cũng nhiều lần nhận tiền chuyển từ nước ngoài về để hoạt động chống phá đất nước. Lượng thừa nhận đã tài trợ hoạt động của đối tượng Nguyễn Văn Hóa, tẩy chay cuộc bầu cử, xuất cảnh sang Lào, phát loa truyền thanh tại nhà để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, tổ chức hát các bài hát có nội dung phản động, 4 lần tổ chức tuần hành, biểu tình với danh nghĩa phản đối Formosa ở xã Hợp Thành gây ách tắc giao thông trên tuyến Quốc lộ 7B…
Xâu chuỗi những hoạt động chống phá đất nước hai năm gần đây, chúng ta dễ dàng nhận ra, âm mưu kích động người dân tụ tập, biểu tình, tạo ra các điểm nóng rồi có thể thổi phồng thành xung đột, bạo loạn, có sử dụng vũ khí, tạo ra bạo lực là thủ đoạn thường thấy của các thế lực thù địch. Đây cũng là cách đã được sử dụng trong các cuộc cách mạng màu, cách mạng đường phố theo mô hình "Mùa xuân Ả Rập". Ý đồ đó được thể hiện rất rõ khi tròn một năm xảy ra các vụ việc biểu tình có bóng dáng bạo loạn ở Bình Thuận, TP Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch gần đây công khai tuyên bố cái gọi là “kỷ niệm một năm cách mạng mùa hè”, lấy ngày 10-6-2018 là một cột mốc đánh dấu phong trào dân chủ. Nhân sự kiện biểu tình quy mô lớn ở Hồng Công (Trung Quốc) vừa qua, chúng tiếp tục hô hào kêu gọi các cuộc tổng biểu tình ở Việt Nam, áp dụng mô hình “cách mạng dù” ở Hồng Công cho Việt Nam để nuôi dưỡng các đợt biểu tình “cách mạng mùa hè” trở thành thường xuyên, từ “tổng biểu tình” sẽ tạo ra cái gọi là “cách mạng tháng Tám lần thứ hai”.