Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2023


 CỜ ĐỎ SAO VÀNG - BIỂU TƯỢNG LINH THIÊNG ĐẶC BIỆT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 


Nền cờ màu đỏ tượng trưng dòng máu đỏ, màu của nhiệt huyết, ý chí, niềm tin, “tinh thần hy sinh chiến đấu cách mạng của nhân dân Việt Nam”, ngôi sao màu vàng tượng trưng “ánh sáng của vai trò lãnh đạo cách mạng”, nó còn là màu da vàng và năm cánh sao tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.


Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội Khóa I, ngày 31/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, khẳng định tầm vóc của cờ đỏ sao vàng: "Lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn, bây giờ trừ khi cả 25 triệu đồng bào còn ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi nó".


Quốc kỳ Việt Nam nền đỏ sao vàng đã được Quốc hội Việt Nam chính thức công nhận trong bản Hiến pháp nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 09/11/1946: “Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh”.


Với việc Chính phủ ban hành Sắc lệnh ấn định Quốc kỳ và được Quốc hội thông qua thể hiện tính thống nhất về mặt pháp lý đối với việc sử dụng Quốc kỳ, quy định cũng như xác nhận đối với nhân dân và quốc tế về biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng năm cánh được sử dụng trang trọng trong tất cả các nghi lễ, các sự kiện quan trọng của nhà nước, trở thành biểu tượng thiêng liêng, đại diện cho sức mạnh tinh thần của dân tộc, thành niềm tự hào của nhân dân Việt Nam.


Trải qua quá trình phát triển của dân tộc, của đất nước, mỗi giai đoạn, lá cờ có thể được chỉnh sửa về hình thức để đẹp hơn và những quy định về sử dụng cũng có những điều chỉnh.


So với Quốc kỳ năm 1945, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng theo mẫu năm 1956 có một chút điều chỉnh: “những cánh sao vàng từ nay không làm theo đường cong như trước mà làm theo đường thẳng”. Mặc dù vậy, hồn cốt của lá cờ và nội dung ý nghĩa không hề thay đổi, và trở thành một biểu tượng đẹp, ấn tượng, mang đậm nét dân tộc Việt.

 NHỮNG CÔ GÁI TRƯỜNG SƠN


Có lẽ giờ em đã ngủ ngon

Trong chăn ấm bên người thương hạnh phúc

Em có mơ thấy ngày xưa đi đ.ánh gi.ặc

Đường Trường Sơn mây trải lối anh qua.


Em có nhớ những tr.ận b.om lửa khói mịt mờ 

Lấp hố b.om cho xe ra t.iền tuyến

Em còn nhớ rừng trường sơn những chiều mưa lạnh

Những ngày dông cơn lá đổ rừng già. 


Em còn nhớ ngày đoàn quân đã từng qua

Dặm Trường Sơn đá ghềnh rừng heo hút 

Nụ cười em má mồ hôi thấm ướt

Vẫn ửng hồng tươi thắm tuổi còn xuân.


Anh nhắc thầm ôi cô gái Việt Nam

Trong khổ đ.au vẫn tươi duyên đến lạ

Có phải em từ miền quê quan họ

Từng têm trầu như cô Tấm ngày xưa.


Mà kiên trung trước b.om đ.ạn kẻ th.ù.

Ủ ấm tình quê ngọn rau rừng măng đắng

Em có nhớ bên ven rừng cháy bỏng

Em chở đò đưa đón các anh qua

Đã bao lần em chặt nứa kéo đưa về

Bó ống xăng dầu ngăn che b.om đ.ạn gi.ặc

Đã bao lần hang cổng trời em hát

Đường Trường Sơn lầy lội lối anh qua.


Bây giờ đây Nam Bắc đã một nhà

Em còn nhớ anh nhớ Trường Sơn ngày ấy

Cây gậy Trường Sơn giờ nở hoa kết trái

Nụ cười xưa giờ má thêm một nếp nhăn.


Vẫn ngời ngời trong hai tiếng Việt Nam

Em đi hội trong lễ nghi quân phục mới

Ngực đỏ thắm huân chương quân đội

Ngôi sao vàng lấp lánh mũ ngày xưa./.




SỰ CẦN THIẾT PHẢI DỰA VÀO DÂN ĐỂ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG

 “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ là hai khái niệm có tính độc lập tương đối, nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. “Diễn biến hòa bình” làm cho chế độ suy yếu và chuẩn bị lực lượng, tạo ra điều kiện, thời cơ cho bạo loạn lật đổ. Bạo loạn lật đổ là biện pháp dùng bạo lực để thực hiện mục tiêu cuối cùng của “Diễn biến hòa bình” là lật đổ chính quyền, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, bạo loạn lật đổ là một phương thức cướp chính quyền, lật đổ Nhà nước XHCN bằng bạo lực phản cách mạng trong bối cảnh do “Diễn biến hòa bình” tạo ra. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhândân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp uỷ đảng về công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyềncủa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; của báo chí.

Chú trọng giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống và nêu gương của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, đảng viên và công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở để thực hiện có hiệu quả phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". 

Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của hệ thống chính trị gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận của chính quyền các cấp. Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải tăng cường trách nhiệm giải trình, thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về tiếp, đối thoại với công dân; tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, khiếu kiện, nhất là những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. hủ trương dựa vào dân để xây dựng chỉnh đốn Đảng là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta ngay từ khi mới thành lập và được nhấn mạnh và cụ thể hóa hơn nữa trong bối cảnh hiện nay. Từ Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; đến Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đặc biệt là Kết luận Hội nghị lần thứ 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đều khẳng định đầy đủ, rõ ràng chủ trương này. Trong các nhiệm vụ, giải pháp được trình bày trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng (tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng) cũng khẳng định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp uỷ đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới”(3). Trong các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của Kết luận Hội nghị lần thứ 4 khóa XIII có nêu: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.

Như vậy, có thể thấy, kế thừa quan điểm xuyên suốt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, qua nội dung của Văn kiện Đại hội XIII và Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, chủ trương dựa và dân để xây dựng Đảng đã được thể hiện ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn. Theo tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, chủ trương dựa này được thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản, đó là: Nhân dân trực tiếp và gián tiếp tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Thứ nhất, Đảng dựa vào nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo đó, nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy đảng về công tác cán bộ, các chủ trương, đường lối lớn của Đảng. Nhân dân có quyền góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức Đảng và chính quyền, phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là phát hiện những tiêu cực như tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm” hoặc nhân dân tham gia xây dựng chỉnh đốn đảng thông qua hoạt động đối thoại, tiếp công dân, tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và giải quyết những kiến nghị, phản ánh của nhân dân nhất là những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên . Ngoài ra, thông qua các tổ tự quản của nhân dân ở cơ sở, hoạt động của ban thanh tra nhân dân, các tổ giám sát cộng đồng cũng là hình thức quan trọng để nhân dân có thể tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hiện nay. Để thực hiện nội dung này, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp để ngày càng phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng một cách trực tiếp, hiệu quả. Cùng với Hiến pháp năm 2013, nhiều quy định đã được sửa đổi, bổ sung để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện nghiêm túc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(5) như: Quy chế dân chủ ở cơ sở; quy định về việc đảng viên tham gia sinh hoạt ở khu dân cư,… Những quy định này đã góp phần làm tăng thêm cơ hội để nhân dân góp ý để xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; giám sát đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức về nhiều mặt; tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Thứ hai, ngoài việc tham gia trực tiếp, nhân dân cũng gián tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn đảng thông qua hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu do dân bầu; thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Nhân dân là người lựa chọn, bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan dân cử. Thông qua hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đã đến nghị trường Quốc hội; những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc, những nội dung cần tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật… đã được bàn bạc, thảo luận công khai, xử lý phù hợp. Qua đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói riêng và các cơ quan dân cử nói chung. Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân có thể tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo đúng chức năng, quyền hạn của cơ quan, đơn vị mình; tham gia giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức có quyền, những người làm ở những lĩnh vực dễ nảy sinh vi phạm… Qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiều mặt trong công tác xây dựng Đảng: công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát, việc chấp hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng

 

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG CHỐNG CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG

 

Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống rất đa dạng, biểu hiện trên nhiều lĩnh vực. Trước hết, quán triệt quan điểm của Đảng ta là: chủ động, tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế... Tham gia các cơ chế hợp tác an ninh song phương và đa phương trên cơ sở tối đa hóa trong bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. 

Thống nhất nhận thức, xây dựng cơ chế lòng tin và hoàn thiện khung khổ thể chế giữa các nước về an ninh phi truyền thống - cơ sở cho hợp tác quốc tế có hiệu quả. Dù đã diễn ra nhiều tranh luận giữa học giả, chính giới các nước, nhưng đến nay cách hiểu an ninh phi truyền thống còn khác xa nhau, có vấn đề nước này đưa vào danh mục an ninh phi truyền thống nhưng nước khác lại không chấp nhận. Vì vậy, các nước, các tổ chức khu vực, các tổ chức quốc tế cần sớm đưa ra một định nghĩa thống nhất và đề xuất danh mục các thứ tự ưu tiên trong hợp tác đa phương về phòng ngừa và ứng phó với thách thức an ninh truyền thống. Sau khi có nhận thức chung, các nước và tổ chức quốc tế cần hợp tác để định hình khung khổ thể chế, pháp luật nhằm ràng buộc trách nhiệm các quốc gia trong phòng ngừa và ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, khắc phục tình trạng ra tuyên bố nhiều nhưng ít có hiệu lực thực tế trong đời sống. 

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong đó có hợp tác về phòng ngừa và ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thông qua cơ chế và phương thức đa tầng, đa dạng, linh hoạt. Đó là, cơ chế hợp tác trong khung khổ Liên hợp quốc mà Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm, đã ký kết nhiều điều ước quốc tế trên các lĩnh vực, về các vấn đề an ninh phi truyền thống phát sinh trong khu vực xây dựng thể chế và chính sách cho phòng ngừa và ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Trong các văn kiện của Đảng đề cập đến về các mối đe dọa an ninh phi truyền thống gần đây có một số điểm cần đặc biệt chú ý sau: 1- Đảng ta luôn đặt các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bên an ninh truyền thống, trong đó các mối đe dọa an ninh truyền thống dù vẫn tiềm tàng và biểu hiện dưới các hình thức, mức độ khác nhau, nhưng xu hướng hòa bình vẫn là chủ đạo, còn vấn đề an ninh phi truyền thống đang nổi lên gay gắt; 2- Các thách thức an ninh phi truyền thống đang diễn biến phức tạp do mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường, của sử dụng thành tựu khoa học công nghệ; 3- Định dạng các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bao gồm: anh ninh con người, an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... Phạm vi các mối đe dọa an ninh phi truyền thống sẽ còn mở rộng và diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục theo dõi, nghiên cứu và bổ sung kịp thời; 4- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống không của riêng Việt Nam mà mang tính toàn cầu; 5- Một số mối đe dọa an ninh phi truyền thống có khả năng chuyển hóa thành an ninh truyền thống, như xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn chính trị. Từ nhận thức đó, mỗi chủ thể từ trách nhiệm của mình mới có thể định hình tâm thế, chủ động phòng ngừa và ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống. Nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống phát sinh từ các yếu tố nhân tạo, tức do chính con người tạo ra một cách vô tình hoặc cố ý, rồi đến lượt nó tạo mối đe dọa đối với an ninh con người, an ninh cộng đồng, an ninh quốc gia và rộng hơn là an ninh nhân loại. Vì vậy, phòng ngừa các mối đe dọa an ninh phi truyền thống là nhiệm vụ rất cơ bản, được thực hiện bằng cách nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng cá nhân và cộng đồng xã hội, thông qua những hành vi cụ thể trong đời sống hằng ngày, như ý thức tích cực trong bảo vệ môi trường sinh thái, tỉnh táo trước mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, thông thái trong sử dụng thành tựu khoa học công nghệ, tôn trọng các giá trị khác biệt và chia sẻ lợi ích giữa các nhóm cộng đồng với mức sống khác nhau trong xã hội... Trên nền tảng ý thức được nâng cao mới có thể ứng phó có hiệu quả với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bằng xây dựng đồng bộ thể chế, cơ chế, chính sách, bộ máy và con người cụ thể. 

 

MỘT SỐ BIỆN PHÁP XỬ LÝ TRƯỚC VẤN ĐỀ THÔNG TIN XẤU ĐỘC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG


 Lợi ích tích cực mà mạng Internet đưa lại là điều không ai có thể phủ nhận và chúng ta vẫn đạng tận dụng điều đó hàng ngày. Tuy nhiên với quy luật vận động thì sự phát triển chóng mặt của mạng Internet cũng sẽ mang lại nhiều hệ lụy. Việt Nam luôn bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, nhưng tự do phải trong khuôn khổ pháp luật. Những hành động lợi dụng quyền tự do để có những phát ngôn không đúng pháp luật với âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại đất nước thì cần phải kiên quyết đấu tranh, xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Để tăng cường công tác tư tưởng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.

Thực hiện Nghị quyết nêu trên, toàn Đảng và hệ thống chính trị đang tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp.

Theo đó, đã tổ chức lực lượng đấu tranh phản bác thông tin xấu độc; kết nối hệ thống các trang web, blog, fanpage để chia sẻ thông tin tích cực, bài viết đấu tranh phản bác. Huy động lực lượng viết hàng nghìn tin, bài, comment, xây dựng hàng trăm video clip đăng tải rộng rãi trên Internet, mạng xã hội để đấu tranh phản bác. Giám sát chặt chẽ, kịp thời phát hiện thông tin xấu độc, âm mưu kêu gọi biểu tình chống phá tại một số thời điểm; kịp thời cảnh báo, tham mưu, tổ chức phương án đấu tranh, ngăn chặn, xử lý.       “Trung tâm Xử lý tin giả Việt Nam thuộc Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử có nhiệm vụ tiếp nhận, phát hiện, thẩm định, gắn nhãn tin giả, công bố thông tin xác thực, tin giả, tin sai sự thật trên trang tingia.gov.vn; chủ động phát hiện các xu hướng thông tin có lượng người chia sẻ, tương tác lớn để đánh giá, thẩm định, dán nhãn tin giả nếu có, để cảnh báo người dân không chia sẻ; hướng dẫn cách nhận biết, phòng tránh, đối phó với tin giả”.

 Cần nâng cao ý thức cảnh giác của người dân để không bị lôi kéo, tiếp tay cho các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị chống phá Đảng và Nhà nước - Các cơ quan quản lý Nhà nước cần đẩy mạnh việc xây dựng, triển khai và hoàn thiện cơ sở dữ liệu, sử dụng chứng minh thư nhân dân điện tử để quản lý thông tin và người sử dụng trên Internet.

         - Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình Trung ương, các địa phương, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần cung cấp thông tin chính thống một cách đầy đủ, toàn diện, kịp thời cho người dân. Đồng thời, cần tăng cường tuyên truyền pháp luật, cảnh báo các hành vi vi phạm pháp luật; chỉ rõ những thủ đoạn, nội dung thông tin giả mạo, tính chất nguy hại của nó đối với cá nhân và xã hội. Qua đó, giúp người dùng am hiểu pháp luật, tránh những hành vi vi phạm cũng như nhận diện các thủ đoạn, nội dung thông tin giả mạo, biết tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, “miễn dịch” với những thông tin giả mạo làm nhiễu loạn môi trường xã hội.

 

NGUY CƠ LAN TRUYỀN THÔNG TIN SAI LỆCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Nhiều thông tin bị xuyên tạc, bóp méo sự thật, thông qua những tiêu đề “giật gân”, “câu khách” về vấn đề dư luận đang quan tâm, nhất là vấn đề liên quan đến nội bộ Đảng, Nhà nước, tham nhũng, tiêu cực. Thông thường, tin giả được tạo ra có mục đích vụ lợi, thu hút lượt xem, lượt thích của cộng đồng mạng, tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, nhiều tin giả được tạo ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Nhiều tin giả mang nội dung riêng tư, bịa đặt, xuyên tạc hoặc thật giả lẫn lộn lên mạng nhằm khủng bố tinh thần và tạo dư luận xã hội trên cộng đồng mạng phục vụ các ý đồ đen tối, gây phương hại đến ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Mạng xã hội ở Việt Nam với hơn 64 triệu người dùng là một môi trường thông tin tự do với nhiều ưu điểm, tiện ích tuyệt vời, nơi mà người Việt Nam được khai thác, cung cấp, chia sẻ, trao đổi thông tin không giới hạn, nơi mà công chúng được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến. Đối với Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, các bộ ngành từ Trung ương đến địa phương, mạng xã hội là cánh tay nối dài, là công cụ, phương tiện tuyên truyền cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quảng bá các hoạt động của cơ quan, đoàn thể, bộ ngành...Những năm gần đây, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng diễn ra trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Ở từng thời điểm cụ thể, lợi dụng những khó khăn, vướng mắc cần giải quyết, những vấn đề phức tạp nảy sinh từ thực tiễn của đời sống xã hội, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước gia tăng các hoạt động chống phá, nhằm vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng bằng những âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc, nhất là khi Đảng ta quyết tâm, chủ động đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, làm trong sạch chính trị nội bộ Đảng, tăng cường uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng. Trước sự quyết tâm ấy, các thế lực thù địch lại càng điên cuồng, ráo riết hơn. Chúng không từ một thủ đoạn nào, ra sức bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt hòng cản trở sự nghiệp cách mạng và công cuộc Đổi mới, xây dựng đất nước của Đảng và nhân dân ta.

Điểm mới hiện nay là chúng triệt để lợi dụng không gian mạng để tung các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch. Đây được coi là vùng “lãnh thổ đặc biệt” đang bị các thế lực thù địch lợi dụng triệt để nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng internet, mạng xã hội nhanh nhất thế giới. Theo số liệu thống kê đến tháng 1/2020, trong số 96,9 triệu dân cả nước có 68,17 triệu người (chiếm 70% dân số) dùng internet, cao thứ 12 trên thế giới và thứ 6 châu Á; 65 triệu người (chiếm 67% dân số) dùng mạng xã hội, chủ yếu là Facebook (đứng thứ 7 trong số 10 quốc gia sử dụng Facebook nhiều nhất) và là một trong 10 nước có số người dùng Youtube cao nhất thế giới. Trong đó, 94% người dùng internet hằng ngày là sinh viên, trí thức trẻ, thanh niên.

Trên Facebook, các thế lực thù địch sử dụng tính năng quảng cáo để thực hiện hoạt động quảng cáo chính trị, phát tán các nội dung sai sự thật, chống phá Đảng Nhà nước, đặc biệt là nói xấu, bôi nhọ tổ chức, cá nhân để chống phá công tác nhân sự chuẩn bị cho Đại hội Đảng. Quảng cáo chính trị của Facebook có đặc điểm là một người bất kỳ có thể đăng ký tài khoản và có thể mua quảng cáo thông qua thẻ quốc tế như Visa và Master rồi sau đó có thể đăng bất cứ nội dung gì. Nhờ vào việc Facebook có quảng cáo mục tiêu (tức là chọn được những đối tượng cần hiển thị nội dung quảng cáo chính xác) nên khi các thế lực thù địch đưa thông điệp nói xấu, vu khống, bôi nhọ một người nào đó thì khả năng tác động vào người xem rất dễ dàng. Facebook cho phép những tổ chức phản động (mà Nhà nước Việt Nam đã liệt kê, Bộ Công an đưa vào danh sách khủng bố như Việt Tân, tổ chức của Đào Minh Quân…) lập các trang cộng đồng và liên tục đăng bài chống phá Việt Nam.

Thứ nhất, các thế lực thù địch không ngừng tìm cách để chống phá cách mạng, chống phá chế độ. Chúng lập nên những trang mạng và đặt máy chủ ở nước ngoài, nên dù ta đã áp dụng các giải pháp kĩ thuật, tạo các “bức tường lửa” trên mạng để ngăn chặn vẫn không đủ sức triệt tiêu tận gốc những thông tin sai lệch, xuyên tạc.

Thứ hai, cuộc sống vận động, thay đổi hàng ngày, hàng giờ, với những chiều hướng vận động phức tạp, đa dạng, khó lường. Trong khi đó, tư tưởng, tinh thần của con người là một phạm trù rất khó kiểm soát và cũng không phải là “bất biến”. Với một đất nước hơn 90 triệu dân, khó tránh khỏi những bất mãn, những phản ứng trái chiều, ngay cả phản ứng trái chiều về một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, về bộ máy lãnh đạo các cấp...

Thứ ba, xu hướng quan tâm, thích (like) và chia sẻ (share) thông tin giật gân, xuyên tạc, trái chiều hơn thông tin tích cực, một cách cố tình hoặc vô ý thức, bất chấp các hậu quả… đã là xu hướng của một bộ phận người dùng mạng xã hội ngày nay, đặc biệt là giới trẻ.

Bốn là, hỏi ý kiến chuyên gia và các cơ quan chức năng đáng tin cậy

Bản thân người dùng mạng xã hội nói nhận thấy nguồn tin đó không đáng tin cậy, khó kiểm chứng thì có thể hỏi ý kiến những chuyên gia, những người có kinh nghiệm trong việc xác thực tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng. Hoặc có thể gửi thông tin mà bản thân cảm thấy nghi ngờ vào các trang website, mạng xã hội của các cơ quan chức năng, đặc biệt là Cơ quan Công an.

 

MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH VỚI THỦ ĐOẠN BẤT TUÂN DÂN SỰ

 

Trong giai đoạn hiện nay, để tăng cường và không ngừng nâng cao hiệu quả công tác này, cần nhận diện rõ bối cảnh mới, những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, từ đó đề ra định hướng, giải pháp phù hợp. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung cơ bản, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Những năm gần đây, để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch thường sử dụng một thủ đoạn mới mang tên "bất tuân dân sự". "Bất tuân dân sự" thể hiện tư tưởng cực đoan, "vô chính phủ", đang được lợi dụng gắn với cái gọi là xã hội dân sự để chống phá Đảng, Nhà nước, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. “bất tuân dân sự” khi được sử dụng trong tay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã trở thành một thủ đoạn phản cách mạng nhằm chống phá, lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở những nước tiến bộ, không cùng "quỹ đạo" với chúng.

Ở Việt Nam, hoạt động "bất tuân dân sự" đã diễn ra từ nhiều năm trước, có nguy cơ trở thành "phong trào" nguy hại trực tiếp đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nếu không nhận diện và đấu tranh kịp thời...

Những năm gần đây, có một số vụ việc mang bóng dáng "bất tuân dân sự", như: "Bất tuân cưỡng chế" của một số đối tượng khi giải phóng mặt bằng ở Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Nội, Đắc Nông, Gia Lai...; "bất tuân" quy định về thành lập hội (nhóm), đòi lập các tổ chức xã hội dân sự (thực chất là phản động trá hình) như "Hội anh em dân chủ", "Hội phụ nữ nhân quyền Việt Nam", "Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam", "Hội văn đoàn độc lập Việt Nam", "Hội nhà báo độc lập Việt Nam", "Mạng lưới Blogger Việt Nam"...; “bất tuân” để phản đối Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật An ninh mạng (năm 2018)… Các hình thức như kích động tài xế phản đối trả phí BOT giao thông; từ chối đóng các loại quỹ phúc lợi xã hội; tẩy chay hàng hóa nước ngoài... cũng có nhiều vụ việc bị lợi dụng, biến tướng.

“Bất tuân dân sự" được tổ chức ngày càng chặt chẽ, được một số tổ chức phản động nước ngoài như Việt Tân, Voice công khai giật dây. Chúng lợi dụng các vấn đề dân sinh còn có hạn chế, khuyết điểm khiến người dân bức xúc để làm suy giảm niềm tin, tích tụ thêm mâu thuẫn của người dân đối với chính quyền, với Đảng, Nhà nước. Chúng lợi dụng thông qua đó để tập hợp, xây dựng, phát triển lực lượng, hợp thức hóa, công khai hóa việc chống đối chính quyền. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ giữa "bất tuân dân sự" với "xã hội dân sự", sử dụng các tổ chức "xã hội dân sự" để chỉ đạo, điều hành "bất tuân dân sự". Thủ đoạn chủ yếu là tiếp tục sử dụng các chiêu bài "tự do", "dân chủ", "nhân quyền"; triệt để lợi dụng các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo, các sự kiện, vụ việc, những sơ hở, bất cập của ta trong quá trình triển khai các quyết sách phát triển kinh tế-xã hội, đối ngoại... để đẩy mạnh tuyên truyền chống phá; lôi kéo, kích động nhân dân tụ tập, tuần hành, biểu tình, tạo dựng phong trào phản kháng trong quần chúng; phát triển lực lượng cốt cán, xây dựng "ngọn cờ"; tiến hành tập dượt các kịch bản đấu tranh chuẩn bị cho mục tiêu cao hơn...

Để đấu tranh làm thất bại "bất tuân dân sự", cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:

Tích cực tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn hóa "thượng tôn pháp luật" cho mọi công dân. Trong đó, cần chú trọng nâng cao trình độ giác ngộ, niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục; làm cho mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến được với người dân một cách cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ tuân thủ, chấp hành. Coi trọng tuyên truyền, hướng dẫn để người dân nắm vững các quy định về quy trình, thủ tục, phương pháp, cách thức tiến hành phản biện xã hội theo pháp luật; tránh để bị kẻ địch lợi dụng phát động "bất tuân dân sự". Tăng cường đấu tranh vạch rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn sử dụng "bất tuân dân sự" để chống phá Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; nâng cao chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính của cơ quan hành chính các cấp, nhất là ở cơ sở. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính, tài nguyên, môi trường... Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức; đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm của cán bộ các cấp, củng cố niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước. Chính quyền các cấp phải nêu cao vai trò, trách nhiệm phục vụ nhân dân, tăng cường đối thoại, giải quyết tốt các vấn đề bức xúc của nhân dân; giải quyết dứt điểm các vấn đề còn tồn đọng về tranh chấp, khiếu kiện, không để âm ỉ, kéo dài…

Các cơ quan, đơn vị, địa phương tiến hành khảo sát kỹ lưỡng thực trạng "bất tuân dân sự" trên địa bàn quản lý; xây dựng kế hoạch phòng, chống chặt chẽ; bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng xử lý. Phối hợp chặt chẽ giữa công an, quân đội, các lực lượng chức năng và cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp trong việc bám nắm cơ sở, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động trong việc kích động, lôi kéo nhân dân thực hiện "bất tuân dân sự".

Khi xảy ra các vụ việc "bất tuân dân sự", cần hết sức tỉnh táo; nhận định, đánh giá đúng tính chất, mức độ, xác định rõ nguyên nhân; kiên trì, khôn khéo, lấy biện pháp đối thoại, tuyên truyền, vận động, thuyết phục là chính; thực hiện phân hóa lực lượng cốt cán, cầm đầu với quần chúng bị dụ dỗ, lôi kéo… Xử lý nghiêm minh số đối tượng cốt cán, cầm đầu, những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật; có biện pháp phù hợp quản lý, giáo dục, động viên, giúp đỡ những đối tượng bị dụ dỗ, lôi kéo.       Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm bác bỏ, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng. Thủ đoạn mới của chúng là chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu “du nhập ngoại lai”, “nhập khẩu lý luận” sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là “chủ thuyết phát triển mới”, đối lập Chủ nghĩa Mác với Chủ nghĩa Lênin, kêu gọi dùng “Chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin mà cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên, rõ ràng rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Chúng trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đan cài gài bẫy bằng những quan điểm giả danh mác-xít, làm cho người đọc mất phương hướng, lẫn lộn, không phân biệt được đúng, sai. Chúng rêu rao rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam, giới lý luận và các nhà khoa học của ta đã dịch sai, hiểu sai quan điểm của Mác, Ph.Ăng-ghen; đồng thời, chúng diễn giải lại theo cách hiểu xuyên tạc, méo mó, hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với việc công kích trực tiếp vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền, cổ xúy du nhập các trào lưu tư tưởng cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan từ bên ngoài, kết hợp với kích động chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc từ bên trong, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và xã hội.

Thứ hai, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tình hình đất nước, rêu rao cái gọi là “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, khoét sâu các vấn đề xã hội, tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, đất đai, dịch Covid-19... nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thủ đoạn thường được chúng sử dụng là: Kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi thực hành tôn giáo trái pháp luật; kích động giáo dân, đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình. Chúng kích động, “hà hơi tiếp sức” cho những kẻ nhân danh “lòng yêu nước” để biểu tình gây rối trật tự, trị an. Đặc biệt, trong thời gian qua,

Thứ ba, các đối tượng chống đối triệt để lợi dụng các vụ án phức tạp, nhạy cảm để kích động, xuyên tạc, quy kết, vu cáo Đảng, Nhà nước yếu kém, đả kích các cơ quan tư pháp, kích động “bất tuân dân sự” trong xã hội.  các thế lực thù địch, phản động phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế chính trị XHCN bằng các luận điệu xuyên tạc như: Đảng tự cho mình đứng trên tất cả; Đảng cầm quyền phi chính danh, không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; phủ nhận kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi tách biệt, đối lập “kinh tế thị trường” với “định hướng XHCN”. Chúng còn cho rằng chế độ hiện nay mắc “lỗi hệ thống”, đòi cải cách thể chế chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, thực hiện “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, với âm mưu không gì khác ngoài việc chống phá sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.                                                               

 

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 30 THÁNG 09 NĂM 1964!

     "Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ của người thanh niên cách mạng”!
Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại Đại hội thanh niên Thủ đô”, ngày 30 tháng 9 năm 1964, đăng trên Báo Nhân dân, số 3836, ngày 01/10/1964.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của việc học tập trong chế độ mới, khắc phục những cách tư duy cũ do nền giáo dục thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà. Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện. Người dạy thanh niên phải sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Bởi vậy, theo Bác muốn thành công trong công việc phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lí thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại lấy hành động để khẳng định sự đúng đắn của lí thuyết. Vận dụng lí thuyết vào hành động thì lí thuyết được kiểm chứng. Từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Thực tiễn cho thấy, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống trước hết là để hoàn thiện kĩ năng con người. Sau đó là tạo ra những thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người.
Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực của quan điểm của Bác trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm 03 quan điểm, 08 nguyên tắc, 06 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; giáo dục, đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức nhiều cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, thực binh có bắn đạt thật, diễn tập chiến thuật vòng tổng hợp... là cơ sở để nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
Môi trường ST.

6 DẤU HIỆU GIÚP BẠN NHẬN BIẾT ĐIỆN THOẠI BỊ HACK!

1. Nhiệt độ pin cao bất ngờ
Thông thường, khi điện thoại bị hack thì hacker sẽ bắt đầu khởi chạy một vài ứng dụng ngầm, nhằm chuyển toàn bộ dữ liệu sang hệ thống lưu trữ bí mật của họ. Điều này khiến điện thoại của bạn nóng lên đột ngột, dù trước đó bạn không sử dụng bất kỳ ứng dụng nặng nào hay đang sạc pin cho thiết bị.

2. Điện thoại hết pin nhanh hơn bình thường
Việc ứng dụng chạy ngầm liên tục cũng kéo theo hao mòn tuổi thọ pin điện thoại, dẫn đến thời lượng sử dụng sụt giảm nhanh hơn mức bình thường. Để kiểm tra dung lượng tối đa của pin và so sánh với khoảng thời gian trước, bạn có thể thực hiện như sau:

Với dòng điện thoại iPhone chính hãng: Bạn hãy mở "Cài đặt", chọn mục "Pin", và chọn tiếp "Tình trạng pin & Sạc" rồi kiểm tra thông tin ở mục "Dung lượng tối đa".

Với điện thoại Android: Bạn mở "Cài đặt", nhấp chọn mục "Pin và Hiệu suất" sau đó hãy kiểm tra thông tin tại mục "Sử dụng pin" (Tiết kiệm pin).

3. Tiếng ồn phát ra từ smartphone
Bạn thường nghe những tiếng ồn lạ phát ra từ chính thiết bị của mình (như tiếng vang vọng, tiếng lách cách, tiếng tít tít…). Đây có thể là dấu hiệu cảnh báo điện thoại đã bị hack. Hacker đã cài đặt phần mềm nghe trộm khiến âm thanh truyền đi bị nhiễu sóng.

4. Cửa sổ bật lên hoặc thay đổi trên màn hình điện thoại
Nếu điện thoại xuất hiện một số dấu hiệu bất thường như: Xuất hiện một vài cửa sổ hiển thị hoặc ứng dụng lạ; vị trí các ứng dụng trên màn hình chính bị đổi; có những cuộc hẹn hoặc lời nhắc lạ trong lịch. Nếu có, đây chính là một trong các dấu hiệu cho thấy điện thoại đã bị “tấn công”.

5. Xuất hiện ứng dụng không xác định
Sự xuất hiện của các ứng dụng không rõ nguồn gốc, chạy ngầm trong nền là dấu hiệu cho thấy ai điện thoại đã bị hack. Chúng thường không xuất hiện ở dạng logo biểu tượng trên màn hình chính như app thông thường, mà chỉ là đường link đính kèm với ứng dụng nào đó nên người dùng rất khó nhận ra. Bạn có thể kiểm tra di động của mình có đang chạy ứng dụng lạ không bằng cách:

Điện thoại iPhone: Bạn có thể trực tiếp lướt tìm app lạ trên màn hình chính hoặc ở thư viện ứng dụng.

Điện thoại Android: Bạn Mở "Cài đặt" và chọn "Ứng dụng", tiếp đó, chọn "Quản lý Ứng dụng" và kiểm tra.

6. Phát hiện tin nhắn, cuộc gọi lạ trong nhật ký
Bỗng một ngày điện thoại của bạn thực hiện một số tin nhắn hay cuộc gọi đi (hoặc nhận cuộc gọi) nhưng không rõ danh tính,... thì khả năng cao điện thoại đã bị truy cập trái phép.

Trên đây là 6 dấu hiệu giúp bạn nhận biết được điện thoại của mình có bị hack hay không. Hãy tham khảo bài viết để tránh khỏi các tình trạng làm ảnh hưởng tới bảo mật các thông tin trong máy của bạn./.
Môi trường ST.

LẬT TẨY BỘ MẶT CỦA TỔ CHỨC “TIN LÀNH ĐẤNG CHRIST”!

     Với chiêu bài lợi dụng tôn giáo, tổ chức “Tin lành đấng Christ bị phát hiện đang tập hợp lực lượng, kích động ly khai, tự trị, thành lập “Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên!

Mưu đồ lập nhà nước riêng
Những năm qua, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa bàn Tây Nguyên và phụ vận cơ bản được giữ vững nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp đe dọa an ninh tổ quốc. Lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, chủ quyền, biên giới, nhân quyền các thế lực phản động Fulro lưu vong vẫn luôn tìm mọi thủ đoạn âm mưu phá rối

Theo tài liệu của các cơ quan chức năng, tổ chức “Tin lành Đấng Christ” (UMCC)” do Mục sư Tin lành Y Hin Niê (SN 1952) thành lập năm 2001, có trụ sở chính tại 114 South English, Greensboro, North Carolina, Mỹ và một số chi nhánh tại Mỹ, Canada. Y Hin Niê là người dân tộc Êđê, gốc Đăk Lăk, nguyên Đại tá, Bộ trưởng ngoại giao FULRO III và hiện sống lưu vong ở Mỹ. Tên này luôn muốn thông qua UMCC để tập hợp lực lượng, kích động ly khai, tự trị, thành lập “Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên. Vì thế, hắn đã tìm mọi cách quy tụ các chức sắc, tín đồ người dan tộc thiểu số Tây Nguyên ở Mỹ và Việt Nam để tập hợp lực lượng, đấu tranh “đòi” tự do tôn giáo, dân chủ nhân quyền, tiến tới thành lập “tôn giáo riêng”, “nhà nước riêng”… Hắn cùng các đối tượng cầm đầu, cốt cán khác chủ trương câu kết, móc nối, “lợi dụng” các tổ chức phản động người Việt lưu vong để trục lợi cá nhân, đào tạo trực tuyến, chỉ đạo số cầm đầu trong nước hoạt động đấu tranh bất bạo động, củng cố, phát triển lực lượng, thu thập thông tin, tài liệu về dân chủ, nhân quyền gửi ra nước ngoài để vu cáo Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ của chính giới Mỹ và các thế lực thù địch chống Việt Nam; thông qua mạng xã hội, các diễn đàn quốc tế… vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc và gia tăng hoạt động vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, chính khách Mỹ.

UMCC do Y Hin Niê cầm đầu cũng có liên kết các tổ chức phản động người Việt lưu vong như “Hội người Thượng Đêga-MDA”, đảng Việt Tân, “Ủy ban cứu trợ người vượt biển-BPSOS”, “Hội đồng sắc tộc và tôn giáo Việt Nam” do Nguyễn Công Chính cầm đầu,…). Bọn chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá Việt Nam; lợi dụng không gian mạng (qua phần mềm GoToMeeting, Whats App,…) để đào tạo trực tuyến và thông qua các mối quan hệ gia đình, bạn bè người thân tuyên truyền, phát triển lực lượng, hình thành điểm nhóm sinh hoạt trong và ngoài nước. Cao điểm là tháng 10/2015, tổ chức UMCC đã lôi kéo được hơn 400 đối tượng bên ngoài và phát triển lực lượng ở 9 tỉnh (Đăk Lăk, Trà Vinh, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Phước, Gia Lai, Kon Tum) với 10 mục sư và 11 truyền đạo, hoạt động tại 15 điểm nhóm với hơn 1400 tín đồ.

Những kẻ cầm đầu nguy hiểm - UMCC tan rã - cái kết tất yếu
Kết quả điều tra của cơ quan chức năng cho thấy, ngoài Y Hin Niê, một đối tượng tên là A Đảo (trú ở Sa Thầy, tỉnh Kon Tum) có vai trò quan trọng trong tổ chức phản động này. Tháng 7/2014, theo sự chỉ đạo của số cầm đầu UMCC bên ngoài, A Đảo cùng một tên khác là Y Nuen Ayun ra Hà Nội gặp ông David Skowronski và bà Rose Miconell (nhân viên Đại sứ quán Australia tại Hà Nội) và Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Đài để cung cấp tài liệu (giấy mời, giấy triệu tập làm việc, giấy chứng nhận mãn hạn tù… của các đối tượng tại Tây Nguyên); xuyên tạc chính sách tôn giáo, xuyên tạc, vu cáo chính quyền Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo. Tại cuộc gặp này, Nguyễn Bắc Truyển trả thù lao 5.000.000đ và Nguyễn Văn Đài trả số tiền 4.000.000đ cho A Đảo, Y Nuen Ayun. Từ tháng 02 – 12/2015, số đối tượng cầm đầu UMCC ở bên ngoài tiếp tục giới thiệu, chỉ đạo số tay chân trong nước gồm A Đảo, A Hlum, A Hmưk, A Trung, A Xã, A Viei, Y Huy, A Đoàn, A Hluih, A Chang, Y Bét tham gia đào tạo, huấn luyện trực tuyến về nhân quyền, tự do tôn giáo quốc tế, hướng dẫn cách thức đối phó với chính quyền Việt Nam… Những đối tượng này nhận được số tiền hỗ trợ khoảng 500.000đ/tuần/người. Qua khóa học này A Đảo quen biết Huỳnh Thục Vy, sau đó A Đảo, Y Bét, A Trung tiếp tục thông qua Huỳnh Thục Vy để được gặp, tiếp xúc với các đoàn Đại sứ Anh, Australia với mục đích xin tiền, phục vụ tiêu sài cá nhân.

Tháng 7 và 8/2016, A Đảo cùng Y Bét xuất cảnh sang Đông Timor dự Hội nghị tự do tôn giáo khu vực Đông Nam Á để trục lợi cá nhân và nhận số tiền thù lao là 500 USD. Sau đó, theo chỉ đạo của A Ga (SN 1977, người Kon Tum, cốt cán UMCC đang cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan), A Đảo và Nay Them đã tổ chức 3 đợt đưa 10 người dân tộc thiểu số xuất cảnh và định cư trái phép ở Thái Lan (từ tháng 3 đến tháng 8/2016). Lực lượng Công an đã phát hiện, bắt quả tang A Đảo trên đường tổ chức đưa người xuất cảnh trái phép Thái Lan vào ngày 18/8/2016, thu giữ 160 USD, 49.735.000đ liên quan hoạt động phạm tội của A Đảo; củng cố tài liệu chứng cứ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với A Đảo về hành vi tổ chức người khác trốn ra nước ngoài theo điều 275, BLHS năm 1999; truy nã quốc tế đối với A Ga về tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài theo điều 275 BLHS năm 1999. Sau khi A Đảo bị xử lý, số quần chúng bị tác động, ảnh hưởng, khống chế theo UMCC tại các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Bình Phước tỏ ra bất mãn, không tin tưởng vào UMCC, đồng thời viết đơn tự nguyện xin chuyển sinh hoạt theo hệ phái Tin lành đã được cấp quy chế pháp nhân và được cấp ủy, chính quyền địa phương tạo điều kiện để chuyển sinh hoạt tại các hệ phái Tin lành như Bắp tít Liên hiệp; Bắp tít Nam Phương… Bộ khung tổ chức trong nước của UMCC cũng tự tan rã.

“Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” - tổ chức đột lốt tôn giáo
Đến tháng 5/2017, theo chỉ đạo của Y Hin Niê, một tổ chức phản động khác được nhen nhóm thành lập trong nước với tên gọi “Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam – ECCV” với ban điều hành gồm 4 đối tượng đều trú tại tỉnh Đăk Lăk. Y Jôl Bkrông (con trai Y Hin Niê) làm Hội trưởng, 22 “hội thánh” tại 5 tỉnh (Đăk Lăk, Bình Phước, Lâm Đồng; Kon Tum; Trà Vinh), tập trung chủ yếu ở Đăk Lăk. Từ tháng 6/2017 đến đầu năm 2018, lực lượng Công an các tỉnh Tây Nguyên đã triển khai đấu tranh quyết liệt với tổ chức phản động đội lốt tôn giáo này. Riêng tại Đắk Lắk, lực lượng An ninh Công an tỉnh đã bóc gỡ hơn 30 đối tượng cốt cán. Tuy nhiên, với ý đồ sử dụng vấn đề tôn giáo như một chiêu bài chính trị để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc, vu khống Việt Nam đàn áp tự do tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền, các thế lực thù địch và Fulro lưu vong tìm mọi cách để phục hồi lại tổ chức phản động này.

Tháng 9/2019, do mâu thuẫn về quyền lợi, A Ga (hiện ở Mỹ, đang bị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Gia Lai truy nã về tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài) tách khỏi UMCC, chỉ đạo số đối tượng đã từng tham gia ECCV trước đây thành lập một tổ chức riêng để tiếp tục hoạt động. Đến tháng 9/2020, A Ga chính thức thay đổi logo và tên gọi của ECCV thành “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”, gọi tắt là CHPC, tự nhận mình làm người đại diện, đồng thời chỉ định nhân sự “Ban đại diện” tạm thời trong nước gồm 5 thành viên, do A Đảo (mới ra tù) làm “Giáo hội trưởng”. Thời điểm này, A Đảo lập Facebook tên “Giôsê Đảo” liên lạc với Y Hin Niê, A Ga và số phản động người Việt lưu vong như: Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Văn Đài… và thường xuyên hoạt động trên không gian mạng, nhận chỉ đạo của các đối tượng trên và thu thập thông tin tài liệu cung cấp cho bên ngoài; tuyên truyền phát triển lực lượng./.
Ảnh: Y Hin Niê (thứ 2 từ trái sang) tham dự Hội nghị Tự do tôn giáo Đông Nam Á tại Đông Timor 2016.
Yêu nước ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: NHẬN DIỆN MỘT "CUỘC XÂM LĂNG VĂN HÓA" KIỂU MỚI!

         Cuối những năm bốn mươi của thế kỷ 20, khi không còn giữ được vị trí độc quyền trong khi sử dụng "con ngoáo ộp hạt nhân", các chiến lược gia ở phương Tây đứng trước tình huống phải tìm ra một chiến lược mới nhằm thực hiện cuộc "thập tự chinh chống cộng sản".

Suốt mấy chục năm, dù phải trả một cái giá khá đắt trong các cuộc can thiệp quân sự có tính cục bộ như ở Việt Nam, người ta vẫn có lúc âm thầm, lúc rùm beng tiếp tục hoàn thiện chiến lược có tên gọi "diễn biến hòa bình". Bởi người ta hiểu rằng đọ sức bằng quân sự là việc làm vô vọng, nhất là khi cân bằng hạt nhân đã đạt tới mức kỷ lục thì việc gây nên chiến tranh chỉ là hành vi tự sát.

Do vậy, một cuộc chiến tranh tổng lực theo ý nghĩa rộng nhất đã được triển khai với nội dung chủ yếu là chạy đua vũ trang kết hợp tiến công kinh tế, tiến công văn hóa, và nó đã góp phần vào quá trình tan rã vào đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20 của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Ấu.

Hôm nay, "diễn biến hòa bình" tiếp tục chĩa họng súng vô hình của nó vào các quốc gia đang lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và kiên quyết giữ vững nền độc lập dân tộc, và bản thân nó - "diễn biến hòa bình", cũng đã có sự thích nghi lịch sử mới với hai loại vũ khí về kinh tế và văn hóa, được ngụy trang dưới chiêu bài "tự do hóa về kinh tế", "dân chủ hóa về chính trị". Và do đó, thật sự trở thành một trong những nguy cơ đe dọa tiềm tàng.

Trong lịch sử loài người, mọi cuộc chiến tranh xâm lược dù ở phương Đông hay phương Tây cũng đều có chung một tình trạng là sức mạnh quân sự chỉ là đột phá khẩu, còn sức mạnh văn hóa mới bảo đảm cho quá trình xâm lược được hoàn tất.

Bởi xâm chiếm lãnh thổ chỉ có ý nghĩa khi buộc các dân tộc bị xâm lược từ bỏ văn hóa riêng, đi theo văn hóa áp đặt. Để làm điều này, vô số các thủ đoạn đã được thực thi.

Có nơi chính quyền đô hộ thẳng tay đàn áp mọi sự chống đối, tiêu diệt tận gốc văn hóa bản địa. Có nơi, sự thẩm thấu từ từ, lặng lẽ của văn hóa ngoại bang đã làm cho văn hóa bản địa lặng lẽ mất dần, dẫn tới triệt tiêu hoàn toàn.

Nhìn chung, các biện pháp cưỡng bức bạo lực tỏ ra kém hiệu quả nên xâm lăng quân sự thường đi liền với xâm lăng văn hóa. Vì thế không ít dân tộc bị mất dần các giá trị văn hóa ngay trên chính Tổ quốc mình. Và chỉ có dân tộc nào xây dựng được nội lực văn hóa mạnh mẽ mới vượt qua sự "bức tử văn hóa" từ bên ngoài.

Nằm ở khu vực giao lưu giữa các nền văn minh lớn, các điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội... đặc thù đã quy định sự hình thành một nền văn hóa Việt Nam có bản sắc riêng, có khả năng sinh tồn và tự vệ trước mọi cuộc xâm lăng.

Suốt hàng nghìn năm lịch sử tuy không có sức mạnh kinh tế - kỹ thuật nhưng cha ông chúng ta đã giải quyết khéo léo, linh hoạt một bài toán hóc búa của lịch sử là vừa xây dựng văn hóa, vừa bảo vệ văn hóa, vừa tiếp thụ những tinh hoa của văn hóa loài người.

Bản sắc văn hóa in đậm, khắc sâu và tiềm ẩn trong tâm hồn, cốt cách, lối sống, trong hoạt động sáng tạo vật chất, sáng tạo tinh thần của dân tộc.

Quan niệm về đất nước Việt Nam có cương vực rõ ràng, có lịch sử, phong tục riêng và có những người anh hùng dám xả thân cho đất nước đã khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử, nhất là từ ngày Lý Thường Kiệt viết Nam quốc sơn hà, Nguyễn Trãi viết Cáo bình Ngô - những tuyên ngôn chính trị cũng là những tuyên ngôn văn hóa.

Có một thực tế không thể bác bỏ được rằng, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần để phát triển dân tộc, văn hóa đồng thời là công cụ bảo vệ dân tộc. Một dân tộc có thể mất Tổ quốc vẫn có thể giữ gìn được văn hóa, nhưng một dân tộc bị nước ngoài lũng đoạn văn hóa thì dân tộc đó sẽ mất tất cả.

Nên không ngẫu nhiên "diễn biến hòa bình" lấy văn hóa làm trọng điểm tiến công nhằm làm băng hoại, làm chệch hướng xã hội ở Việt Nam. Cuộc tiến công văn hóa của "diễn biến hòa bình" ít nhất có thể nhận thấy trên hai bình diện: Một là thủ đoạn gây nên tình trạng "tự diễn biến" theo các giá trị văn hóa phương Tây đẩy tới tình trạng "tự diễn biến về chính trị". Hai là thủ đoạn sử dụng văn minh vật chất và truyền bá thông tin một chiều với mục đích gây hoang mang, mất phương hướng trong đời sống tinh thần xã hội, trong tâm lý cộng đồng, làm con người xa rời lý tưởng.

Một nhà nghiên cứu Trung Hoa nhận xét các thủ đoạn trên là: "Mũi dao thọc vào vương quốc tinh thần" và "thâm nhập văn hóa thực chất là thâm nhập về tâm lý mang mục đích chiến lược".

Bằng văn hóa, "diễn biến hòa bình" thẩm thấu vào các giá trị xã hội, vào lối sống, làm con người sao nhãng nghĩa vụ, khơi dậy những bản năng thấp hèn, quyến rũ họ chạy theo lạc thú, chạy theo lợi ích vật chất mà khô cạn tình người, quay lưng với truyền thống và quên đi tấm "căn cước văn hóa dân tộc".

Từ những dao động mơ hồ đến ý thức chống đối, đó là lộ trình, là kịch bản của cuộc xâm lăng văn hóa mà về cơ bản là "mưa dầm thấm lâu", song nếu có thời cơ nó cũng không bỏ lỡ, như người ta hy vọng sẽ đánh gục ý chí của các thế hệ sinh ra sau ngày đất nước thống nhất, khi quá khứ vinh quang của dân tộc chỉ còn là ký ức của lớp người lớn tuổi.

Với lợi thế hơn hẳn về sản phẩm hàng hóa và hệ thống thông tin nghe nhìn cho phép "diễn biến hòa bình" sử dụng văn hóa với hiệu suất cao nhất nếu chúng ta không đánh giá đúng và có phương án chống lại.

Thật ra, cuộc chiến tranh "giành giật trái tim khối óc" đã được thí điểm ở Việt Nam trong thời kỳ trước 1975. Khi ấy điều kiện lịch sử có đặc điểm riêng, còn hiện tại, các thủ đoạn thường nham hiểm hơn, tinh vi hơn, và tình hình quốc tế cũng đã có những biến đổi khác trước.

Đánh vào lòng người - chiến thuật "tâm công" của phương Đông, được "diễn biến hòa bình" lợi dụng triệt để thông qua những phương tiện mới. Mùi vị hấp dẫn của "văn hóa đại chúng" theo kiểu phương Tây làm cho con người dễ đánh mất mình, xa rời cộng đồng, tha hóa và phản bội, bột phát những hành vi phá vỡ nền tảng tinh thần của xã hội.

Xâm lăng văn hóa không dễ nhận thấy trong đời thường, đôi khi, căn cứ vào diện mạo bên ngoài sẽ dễ dàng bỏ qua. Nên cần nhận thức rằng những biện pháp kỹ thuật của "diễn biến hòa bình" trước đây khá lặng lẽ thì nay đang dần dần công khai, lộ liễu dưới những hình thức tinh xảo để gây nên một thứ nghiện ngập thái quá, một thứ ma túy đầy cám dỗ.

Nền kinh tế thị trường và mở cửa giao lưu kinh tế, giao lưu văn hóa hướng chúng ta tới những triển vọng, nhưng cũng tác động mạnh đến nền văn hóa dân tộc. Những vấn đề tôn giáo, dân tộc, những giá trị thẩm mỹ, những giá trị đạo đức... đang bị thách thức trước một cuộc xâm nhập văn hóa mới.

Nhìn vào thực trạng văn hóa, những dấu hiệu đầu tiên của sự biến động đã xuất hiện trong một bộ phận xã hội. Văn minh vật chất và "phương tiện nghe nhìn đen" đã làm đảo lộn nếp sống, phá rối hệ thống chuẩn mực đạo đức, đảo lộn phong cách ứng xử giữa người với người. Đồng tiền lên ngôi và sức ép của đô thị hóa đè nặng lên các giá trị gia đình.

Ở thành thị, nhiều gia đình không đóng nổi vai trò nuôi dưỡng và bệ phóng tinh thần cho thế hệ trẻ. Ở nông thôn, sức cám dỗ của thành thị thu hút thành phần lao động chủ yếu của nó, làm xuất hiện những hiện tượng vốn xa lạ với truyền thống làng xã. Làm giàu và làm giàu bằng mọi giá trở thành mục đích sống của một số không ít người. "Hội chứng vô cảm" không còn là một báo động giả, nó đang sừng sững giữa chúng ta - những con người từ xa xưa đã quen sống “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”.

Bên cạnh đó, bị lóa mắt bởi những ảo ảnh của "nền dân chủ phương Tây", có người quay ra phê phán những giá trị đã làm nên phẩm giá dân tộc trong thế kỷ 20. Ngoảnh mặt với lịch sử cha ông và sa sút bản lĩnh văn hóa, dù tự phát hay tự giác thì cũng là sự tiếp tay cho "diễn biến hòa bình".

"Diễn biến hòa bình" và cuộc tiến công văn hóa còn phải được đặt trong bối cảnh một thế giới đầy biến động. Chiến tranh lạnh kết thúc và cơn lốc quay cuồng của những tham vọng chính trị - kinh tế đã đẩy nhân loại vào tình huống phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu mới. Xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc cùng với sự mất thăng bằng trong tư duy văn hóa... làm xảy ra cảnh "nồi da xáo thịt", "huynh đệ tương tàn" ở không ít quốc gia.

Nhạc Pop và nhạc Rock, quần bò Levis và Coca Cola, VCD, DVD và phim ảnh bạo lực, 3X... tạo nên một làn sóng tràn ngập thế giới trong xu thế siêu quốc gia, bất chấp những biên giới địa lý, bất chấp những bản sắc văn hóa.

Văn hóa đại chúng và nền dân chủ phương Tây đã gặp phải phản ứng gay gắt từ các quốc gia coi văn hóa và độc lập dân tộc là nền tảng cho phát triển. Những cơ thể văn hóa vốn khỏe mạnh như Pháp, Thụy Điển cũng không tránh khỏi sự xâm nhập của văn hóa nước ngoài và chính họ đang phải phát động một cuộc "kháng chiến về văn hóa".

Với châu Á, câu chuyện còn phức tạp hơn và trên lục địa này, những khát khao trở về với truyền thống cộng đồng, với những giá trị gia đình đang cháy bỏng trong mỗi người, từ dân thường tới nguyên thủ quốc gia.

Ở Singapore, ông Goh Chok Tong nói: "Những rối loạn ở Mỹ, Anh, với một tầng lớp dưới ngày càng đông, thiên về bạo lực, thiếu giáo dục, nghiện ngập, quan hệ tình dục bừa bãi, là kết quả trực tiếp của các đơn vị gia đình trở nên thừa hay không còn tác dụng... nếu chúng ta đánh mất các giá trị truyền thống của chúng ta, sức mạnh và sự cố kết gia tộc của chúng ta, chúng ta sẽ mất sức sống của mình và sẽ suy tàn".

Ở Thái-lan, ông Xrixakara Valithotama nhận xét: "Người Thái không bao giờ nhìn lại bản thân xem mình là ai. Những người được học hành ở nước ngoài trở về thì coi thường cả tổ tiên mình - đấy chính là điều tại sao đất nước này lâm vào cuộc khủng hoảng về bản sắc".

Khủng hoảng bản sắc - nỗi lo sợ không còn của riêng ai! Ở các lân bang gần gũi, người ta không còn ngước nhìn phương Tây với ánh mắt thán phục mà nhìn thẳng vào nó và tuyên bố một cách tự tin, dứt khoát không chấp nhận bất kỳ sự áp đặt văn hóa nào từ bên ngoài.

Ông Lý Quang Diệu nhấn mạnh: "Khuôn mẫu về nhân quyền ở phương Tây không có đất sống ở châu Á", còn ông Mahathi cho rằng: "Nền dân chủ phương Tây chỉ mang lại sự không ổn định, sự sa sút về kinh tế cũng như đói nghèo". Tất thảy những ý kiến trên không phụ thuộc vào ý muốn của cá nhân nào, chúng xuất phát từ thái độ khách quan trước hiện thực và hoàn toàn có cơ sở để chúng ta tham khảo.

Sự thách thức lớn nhất của xâm lăng văn hóa là "chiến lược giành dân", trong đó, trước hết thông qua phương tiện nghe nhìn. Trong thế giới có hệ thống thông tin đã phủ sóng toàn cầu, len lỏi vào tận giường ngủ của từng gia đình thì nó cũng bị người ta sử dụng nhằm lung lạc tư tưởng và ý chí dân tộc, như M.V.Losa từng coi đây là "một trận chiến văn hóa".

Hơn năm mươi năm trước, chúng ta từng chiến thắng trong trận "Điện Biên Phủ trên không", nhưng hơn 50 năm sau, từ trên trời trút xuống đất nước chúng ta không phải những trái bom chứa TNT mà là những "quả bom thông tin" từ vệ tinh viễn thông chuyển tải các chương trình TV, các website đủ loại cùng các làn sóng phát thanh với vô số giọng điệu tuyên truyền trắng, xám, đen. Cuộc tiến công đó tạo nên hoàn cảnh phải chống trả trong cả thời gian và không gian. Cũng tức là cuộc tự vệ văn hóa lúc này đa diện hơn, đa dạng hơn và cũng phức tạp hơn trước kia.

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã trở thành một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Không thể hoài cổ đến hủ lậu, cũng không thể vọng ngoại lố lăng. Lời giải cho bài toán "hội nhập nhưng không hòa tan" chỉ có thể tìm thấy từ một môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh và lòng tự tôn dân tộc phải tiếp tục là "bộ gien di truyền", tiếp tục là "bộ chỉnh" bên trong của văn hóa. Cho nên, một chiến lược văn hóa sẽ thành công khi văn hóa trở thành sự tự ý thức trong mỗi công dân.

Đã đến lúc những bước tiến kinh tế phải được đặt trên nền tảng của sự nghiệp văn hóa. Không thể để những lợi ích trước mắt cản trở (thậm chí gây hại) tới lợi ích lâu dài. Trước những thách thức của thời đại, câu trả lời sáng suốt lúc này: "Hãy tự hào là người Việt Nam"!
Yêu nước ST.

XÂY DỰNG VỮNG CHẮC THẾ TRẬN LÒNG DÂN Ở KHU VỰC TÂY NGUYÊN

 

Muốn xóa bỏ được những vấn đề mà các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng, đang dựa vào để kích động chống phá và gây nên những bất ổn cho khu vực Tây Nguyên trong suốt thời gian qua, cần làm rõ nguyên nhân và nguồn gốc hình thành ban đầu của nó. Cái gọi là “Nhà nước Đề-ga tự trị”, “vua Nước”, “vua Lửa”, “vương quốc người Thượng” mà các thế lực thù địch đưa ra hoàn toàn không có cơ sở pháp lý để khẳng định. Tính độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật và được cộng đồng các quốc gia - dân tộc trên thế giới thừa nhận. Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Do đó, việc nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lịch sử của Tây Nguyên không chỉ làm phong phú hơn tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất này mà còn góp phần cung cấp các luận cứ khoa học để đập tan các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Việc làm rõ các vấn đề lịch sử ở Tây Nguyên còn giúp cho cộng đồng cư dân sở tại hiểu rõ hơn truyền thống lịch sử của dân tộc mình, biết quý trọng những thành quả cách mạng mà các thế hệ ông cha đã hy sinh xương máu để gìn giữ và bảo vệ. Một khi nhận thức của cộng đồng cư dân được củng cố và nâng cao sẽ tạo nên sức mạnh phòng vệ một cách tự nhiên trước các âm mưu lôi kéo, kích động chia rẽ, ly khai của các thế lực thù địch.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Sang giai đoạn đổi mới đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Thế trận lòng dân luôn là điểm tựa rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động “ly khai”, “tự trị” ở khu vực Tây Nguyên. Việc vạch trần và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên thời gian qua một phần rất lớn là nhờ vào thế trận lòng dân, sự ủng hộ, tin tưởng của nhân dân đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngay trong vụ khủng bố ở tỉnh Đắk Lắk vừa qua, nhân dân các địa phương đã tích cực phối hợp với lực lượng chức năng trong việc tố giác tội phạm, cũng như vây bắt các phần tử phản động. Nhờ vậy, chỉ sau hai ngày diễn ra sự việc, sự yên bình đã thực sự trở lại với quê hương Đắk Lắk. Nhờ có sự ủng hộ của đồng bào tỉnh Đắk Lắk, lực lượng chức năng đã nhanh chóng truy bắt được toàn bộ số đối tượng cầm đầu và hầu hết các đối tượng tham gia trực tiếp vụ việc. Có thể thấy rằng, thế trận lòng dân chính là nền tảng cơ bản và là điểm tựa quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động “ly khai”, “tự trị”, bạo loạn của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên. Do vậy, trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền các cấp ở Tây Nguyên cần có chiến lược, định hướng nhằm phát huy hơn nữa thế trận lòng dân vào trong quá trình xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như bảo vệ vững chắc quê hương trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch./.

TBQL 17

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CÓ GIÁ TRỊ VÔ CÙNG TO LỚN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THẾ GIỚI

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã bắt kịp nhu cầu khát vọng của thời đại; tìm ra con đường đấu tranh tự giải phóng cho các dân tộc thuộc địa; có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả giải phóng con người.

Vấn đề trên được thể hiện ở cả phương diện lý luận và thực tiễn cách mạng thế giới hết sức sinh động. Cụ thể là, ngay những năm 20 của thế kỷ XX, trong quá trình hình thành, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện khát vọng chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản phản ánh khát vọng độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản và hoạt động không mệt mỏi cho phong trào cách mạng thế giới. Người kiên quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của V. I. Lê-nin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nhận thức sâu sắc về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đồng thời, Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Khẳng định bài học chung của các dân tộc, Người nhấn mạnh, “... trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới…, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú đầy nhiệt huyết của Người là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Hai tiếng “Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã vang lên ở nhiều nước trên thế giới, là nguồn cổ vũ bất tận, động viên các dân tộc thuộc địa bị áp bức, đứng lên đấu tranh giành nền độc lập, đòi quyền sống, quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự phát triển của nhân loại. Tôn vinh Người và giá trị tư tưởng của Người, năm 1987, Khóa họp Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông qua nghị quyết tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chi Minh là bất tử, tư tưởng của Người còn sống mãi. Bạn bè năm châu khâm phục và coi Người là biểu tượng cao đẹp của những gì thuộc về lương tri và phẩm giá làm người. Ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới Romesh Chandra đã viết: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.

Sự nghiệp đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới của Việt Nam thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã và đang cổ vũ cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đó cũng chính là minh chứng sinh động và thuyết phục nhất khẳng định giá trị vĩ đại, sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tự nó phản bác và đập tan những luận điệu xuyên tạc về tư tưởng của Người, đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua” và “Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”./.

TBQL 17