Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX, phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai phong kiến liên tiếp nổ ra trên khắp mọi miền đất nước. Tuy nhiên, do không có một đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng thích hợp, nên tất cả các phong trào nổi dậy, các cuộc khởi nghĩa mang sắc thái giai tầng khác nhau đều bị thất bại.
Trong
sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng, đã xuất hiện một người con ưu
tú, kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch sử, đó chính là
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Kế thừa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và vượt qua tư duy lối mòn của các nhà yêu
nước tiền bối, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc khỏi ách áp bức, nô dịch - con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự lựa
chọn con đường cách mạng của Người phù hợp với yêu cầu của lịch sử dân tộc, là
sự lựa chọn đúng đắn duy nhất của Việt Nam vào thời điểm cách mạng đó. Ngày
3-2-1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch
sử.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt
Nam đã phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, tiến hành ba cao trào cách
mạng, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thắng lợi
vĩ đại đầu tiên của nhân dân Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt
lịch sử dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã
khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức trên thế giới vì độc lập, tự do
và phẩm giá con người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc và đất
nước không tách rời giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự hội tụ của mạch ngầm dòng chảy
của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc; lòng khát
khao tự do, hạnh phúc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân,
gia đình, làng, xã, Tổ quốc của dân tộc Việt Nam được Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh khơi dậy mạnh mẽ trong thời đại mới.
Tiếp
nối thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam quyết chí, bền lòng với một ý chí sắt đá
“đánh nhau có hy sinh, có gian khổ, nhưng bền gan, vững chí thì cuối cùng ta
nhất định thắng, địch nhất định thua” cùng tinh thần quyết tử “thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”,
theo một phương châm nhất quán: “Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ
chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động
Pháp thì mong ăn cướp nước ta, mong bắt dân ta làm nô lệ. Vậy ta là chính
nghĩa, địch là tà. Chính nhất định thắng tà; trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, dù cuộc “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn.
Thực
hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lập nên kỳ tích Điện Biên Phủ
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; đưa đến ký kết Hiệp định Genève vào năm
1954, lập lại nền độc lập, hòa bình ở Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn
cho miền Nam; miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Toàn thể dân tộc Việt Nam “giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc,
quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người. Với quyết tâm
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam
một lần nữa anh dũng chiến đấu, lập nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ
trên không”, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tiếp đến là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến tới giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, sau cuộc trường chinh kéo dài suốt 30 năm, Việt Nam đã
giành thắng lợi vẻ vang trọn vẹn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược, ghi vào lịch sử mốc son chói lọi như lời Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước
nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng
đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”./.
TBQL 17
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét