Thứ Tư, 30 tháng 11, 2022

ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO!

         Xung quanh câu chuyện liên quan đến Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội vừa được tổ chức tại Đền Hùng, Phú Thọ vào ngày 25-26/11/2022 vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi trên mạng xã hội những ngày qua. Có một số ý kiến cho rằng việc tổ chức Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội tại Đền Hùng, Phú Thọ đã thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc, không phân biệt lương giáo. Trong khi đó, một số ý kiến trái chiều lại kịch liệt lên án, phản đối và chỉ trích trước việc chính quyền tỉnh Phú Thọ, các cơ quan ban ngành chức năng đã cho phép tiến hành Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội tại khu di tích quốc gia Đền Hùng là trái với thuần phong mỹ tục, truyền thống, lịch sử dân tộc. Như đã đề cập, việc đúng sai, nên hay không nên có lẽ tùy vào nhãn quan, góc tiếp cận và quan điểm của riêng mỗi cá nhân và việc tranh cãi trên mạng xã hội về một sự kiện đã diễn ra không giải quyết được gốc rễ vấn đề và càng làm chia rẽ lương giáo hay khối đoàn kết dân tộc.
     Ở đây có thể thấy, Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội là sự kiện tổ chức thường niên. Giáo tỉnh Hà Nội là một trong 3 giáo tỉnh trên địa bàn cả nước cùng với giáo tỉnh Sài Gòn, giáo tỉnh Huế. Giáo tỉnh Hà Nội có 11 giáo phận trong tổng số 27 giáo phận, tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc từ Quảng Bình, Hà Tĩnh trở ra. 
     Việc Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội năm nay được tổ chức ở Đền Hùng, Phú Thọ vào ngày 25-26/11/2022 đã được thông báo từ trước, thậm chí từ rất lâu, bởi như thông tin được đăng tải thì năm 2023 Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội sẽ tổ chức ở Bắc Ninh. Do đó, không chỉ chính quyền tỉnh Phú Thọ mà các cơ quan, ban, ngành chức năng cũng đã thẩm định, cho phép trên cơ sở các quy định hiện hành và thực tế cũng chưa có quy định cụ thể về cấm tổ chức các sự kiện như Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội tại Đền Hùng, Phú Thọ như cách mà một số bạn độc giả đã, đang lên tiếng trên mạng xã hội. 
     Có chăng ở đây, bộ phận trang trí khánh tiết của Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội đã để một số băng rôn, biểu ngữ tại khu vực cổng tam quan của Đền Hùng đã gây ra những luồng tranh cãi, ý kiến trái chiều trên mạng xã hội. Cùng với đó, đúng như hình ảnh nhiều bạn đã bình luận, tại Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội không thấy lá cờ đỏ, sao vàng xuất hiện trong các khu vực trang trí, khánh tiết nơi diễn ra sự kiện này. Không phải so sánh để phân biệt giữa các tôn giáo nhưng nó khác xa so với hình ảnh vừa diễn ra của Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX nhiệm kỳ 2022-2027 tại Hà Nội khi lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc, tượng Bác Hồ xuất hiện vừa trang trọng, vừa ý nghĩa.

Thêm một lần nữa khẳng định rằng, Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi công dân; điều đó không chỉ thể hiện trên phương diện các văn bản quy định pháp luật mà còn biểu hiện sinh động trong cuộc sống và các sự kiện như Đại hội giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội hay Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc vừa diễn ra là minh chứng rõ nét nhất cho điều đó. Mong rằng các tôn giáo sẽ luôn "đồng hành cùng dân tộc", "sống tốt đời đẹp đạo" để tiếp tục xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu, đẹp và khẳng định vị thế, vai trò trên trường quốc tế./.



Yêu nước ST.

LÀM SÁNG RÕ NHÂN CÁCH BỘ ĐỘI CỤ HỒ!

     Nói đến hình mẫu nhân cách con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh không thể không nhắc đến hình mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ, với những đặc trưng tiêu biểu, đó là: Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân; không ngại gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì nghĩa lớn; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; tinh thần kỷ luật tự giác, nghiêm minh; ứng xử trên kính dưới nhường, yêu thương đồng chí, đồng đội; khiêm tốn, ham học hỏi, cầu tiến bộ...
     Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật, nhiều bài viết ca ngợi về hình mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ và đều thống nhất khẳng định: Sở dĩ nhân dân đặt tên gọi người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐND) là “Bộ đội Cụ Hồ” bởi lẽ đó là một kiểu mẫu nhân cách hội tụ những vẻ đẹp cao quý nhất của con người Việt Nam; đồng thời qua đó thể hiện tấm lòng tri ân công lao vĩ đại của lãnh tụ cũng như tự nguyện học tập, noi gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh-người đã thành lập, giáo dục, rèn luyện Quân đội ta.
     Nhiều năm gắn bó, công tác trong Quân đội, trưởng thành từ người chiến sĩ Binh nhì đến cấp Đại tá, giữ chức vụ Phó cục trưởng Cục Tư tưởng-văn hóa (nay là Cục Tuyên huấn), Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, sau đó chuyển ngành làm công tác nghiên cứu trên lĩnh lực tư tưởng, văn hóa, văn học, nghệ thuật, GS, TS Đinh Xuân Dũng là một trong những chuyên gia hàng đầu cả trong lý luận và thực tiễn về đề tài Bộ đội Cụ Hồ. Trong hơn 30 tác phẩm đã xuất bản, GS, TS Đinh Xuân Dũng đã chủ biên và sáng tạo nhiều công trình, tác phẩm xuất bản về đề tài văn hóa, văn học, nghệ thuật liên quan đến LLVT và chiến tranh cách mạng được bạn đọc đánh giá cao, tiêu biểu là các tác phẩm: “Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học” (xuất bản năm 1990); “Văn hóa, văn nghệ và đời sống Quân đội” (1998); “Nuôi dưỡng các giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ QĐND Việt Nam” (1999); “Công tác tư tưởng-văn hóa trong xây dựng Quân đội về chính trị” (2000); “Văn nghệ với người lính và thời cuộc” (2018); “Tổ quốc, đồng đội và văn nghệ” (2019)...  
     Tiếp nối dòng chảy đó, Nhà xuất bản QĐND mới đây đã xuất bản, phát hành cuốn sách “Chăm lo bồi đắp, phát triển kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ” của GS, TS Đinh Xuân Dũng. Cuốn sách gồm ba phần, phần I: “Đảng với Quân đội. Những tấm gương sáng ngời nhân cách văn hóa”; phần II: “Bộ đội Cụ Hồ-một giá trị độc đáo của văn hóa Việt Nam”; phần III: “Phát huy sức mạnh tổng hợp tiếp tục xây dựng, phát triển nhân cách Bộ đội Cụ Hồ”.
     Ở phần I, các bài viết chỉ ra nguyên nhân sâu xa của sự hình thành, phát triển nhân cách Bộ đội Cụ Hồ là do Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, sáng lập, giáo dục, rèn luyện và tôn vinh những tấm gương hội tụ các giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống Quân đội, đó là: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Thượng tướng Lê Khả Phiêu, Trung tướng Phạm Hồng Cư...
     Dưới góc nhìn của một chuyên gia am tường về đời sống văn hóa Quân đội và vị thế, uy tín, hình tượng người lính cách mạng, trong phần II và phần III, tác giả đã có những cảm nhận sâu sắc, khắc họa đậm nét về Bộ đội Cụ Hồ-một giá trị độc đáo của văn hóa Việt Nam. Đặc điểm và ý nghĩa xã hội của Bộ đội Cụ Hồ thể hiện ở những khía cạnh nào? Đặc trưng lịch sử và văn hóa nhân cách Bộ đội Cụ Hồ bao gồm những nội dung gì? Giáo dục chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới cần quan tâm những vấn đề gì? Phải làm như thế nào để phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong giai đoạn cách mạng mới? Làm cách nào để khai thác giá trị văn hóa trong yêu cầu xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại... Những vấn đề đó đã được tác giả phân tích, giải đáp một cách thấu lý đạt tình thông qua ngòi bút chính luận vừa giàu tính khoa học, vừa đậm chất văn hóa và lôi cuốn người đọc bằng cách viết nhẹ nhàng, tinh tế. Đó chính là “sức nặng” của cuốn sách này./.
Môi trường (Yêu nước) ST.

Đoàn công tác Học viện Quốc phòng thăm, làm việc tại Mèo Vạc (Hà Giang)

 

Chiều 30-11, đoàn công tác Học viện Quốc phòng do Thượng tướng Trần Việt Khoa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng làm trưởng đoàn có chuyến thăm, làm việc, trao đổi kinh nghiệm thực tế về phát triển kinh tế-xã hội gắn với quốc phòng, an ninh tại huyện Mèo Vạc (Hà Giang).

TĂNG CƯỜNG CHUYỂN ĐỔI SỐ NÂNG CAO SỨC MẠNH QUỐC GIA

 

Trong thời gian gần đây, chúng ta thường nghe đến khái niệm “chuyển đổi số” được nhắc đến rất nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vậy chuyển đổi số là gì và có tầm quan trọng như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.

Chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam. Chính phủ Việt nam cũng đặc biệt quan tâm đến vấn để chuyển đổi số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và giao cho Bộ Thông tin &Truyền thông xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia và trình Đề án cho Thủ tướng ngay trong năm 2019.

Vậy chuyển đổi số là gì và có tầm quan trọng như thế nào trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0? 

Chuyển đổi số là gì?

Khó có được một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về chuyển đổi số, bởi vì quá trình áp dụng chuyển đổi số sẽ có sự khác biệt ở từng lĩnh vực khác nhau.

Nhấn để phóng to ảnh

Chuyển đổi số đóng một vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0

Tuy nhiên, để có thể định nghĩa một cách ngắn gọn và dễ hiểu thì chuyển đổi số (Digital Transformation trong tiếng Anh) là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới và thoải mái chấp nhận các thất bại.

Tại Việt Nam, khái niệm “Chuyển đổi số” thường được hiểu theo nghĩa là quá trình thay đổi từ mô hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty.

Không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực khác của xã hội như chính phủ, truyền thông đại chúng, y học, khoa học...

“Chuyển đổi số” (Digital Transformation) có thể dễ bị nhầm lẫn với khái niệm “Số hóa” (Digitizing). Để phân biệt hai khái niệm này, có thể hiểu rằng “Số hóa” là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số (chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...); trong khi đó, “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Có thể xem “Số hóa” như một phần của quá trình “Chuyển đổi số”

Tại sao “Chuyển đổi số” lại quan trọng và mang lại những lợi ích gì?

Báo cáo của các công ty nghiên cứu thị trường lớn như Gartner, IDC... đều chỉ ra rằng chuyển đổi số thực sự mang lại rất nhiều lợi ích cho mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp: từ điều hành quản lý đến nghiên cứu, kinh doanh…

Những lợi ích dễ nhận biết nhất của chuyển đổi số đối với doanh nghiệp đó là cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... những điều này giúp tăng hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp được nâng cao.

Tận dụng các nền tảng công nghệ sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện được nhiều lĩnh vực và hướng đến 5 mục đích cuối cùng của chuyển đổi số

Trong khi đó đối với con người bình thường, chuyển đổi số làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao dịch với nhau. Còn đối với nhà nước, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi trải nghiệm người dùng với các dịch vụ do nhà nước cung cấp, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phương thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước.

Chuyển đổi số còn góp phần gia tăng năng suất lao động. Nghiên cứu của Microsoft cho thấy, năm 2017, tác động của chuyển đổi số tới tăng trưởng năng suất lao động ở vào khoảng 15%, đến năm 2020, con số này là 21%.

Nhìn chung, theo các chuyên gia phân tích và nghiên cứu thị trường thì 5 mục đích cuối cùng mà các doanh nghiệp chuyển đổi số hướng đến bao gồm: Tăng tốc độ ra thị trường; Tăng cường vị trí cạnh tranh trên thị trường; Thúc đẩy tăng trưởng doanh thu; Tăng năng suất của nhân viên; Mở rộng khả năng thu hút và giữ chân khách hàng

Chuyển đổi số đang được diễn ra trên thế giới và tại Việt Nam như thế nào?

Chuyển đổi số đang ngày một thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo, những người có khả năng quyết định hướng đi và khả năng chuyển đổi thành công của tổ chức. Bộ máy chính quyền của nhiều quốc gia sau khi nhận ra tầm quan trọng của chuyển đổi số trong việc gia tăng hiệu quả hoạt động và đảm bảo an ninh quốc gia, đã lập tức bước vào một “cuộc đua” mới trong việc áp dụng chuyển đổi số.

Trước đây, các công nghệ kiểu cũ thì chỉ có các công ty lớn, có rất nhiều tiềm lực kinh tế mạnh mới có thể tiếp cận được công nghệ đó. Do đó họ luôn dẫn đầu thị trường, ít nhất là một vài bước. Nhưng bây giờ, thì dù công ty nhỏ hay những startup mới đều có thể tiếp cận được công nghệ không thua kém gì các những công ty lớn.

Theo nghiên cứu năm 2017 của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, năm 2017, tác động mà chuyển đổi số mang lại cho GDP là khoảng 6%, năm 2019 là 25% và tới năm 2021 là 60%.

Kết quả nghiên cứu của McKensey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động của chuyển đổi số tới GDP của nước Mỹ là khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%, còn ở các nước Châu Âu là khoảng 36%. Từ đây, có thể thấy khả năng tác động của chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất lớn.

Tốc độ chuyển đổi số tại các khu vực và quốc gia là khác nhau, tùy thuộc vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp. Trong đó khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất, tiếp đến là Mỹ và quốc gia tại châu Á.

Các doanh nghiệp tại Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức trong cuộc đua chuyển đổi số

Tại Việt Nam, các mô hình chuyển đổi số cũng đang tạo ra những dịch vụ có ích cho người dân và tận dụng một cách hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Tuy nhiên, họ cũng tạo ra những mâu thuẫn, thay đổi cơ bản với mô hình kinh doanh truyền thống. Thế mạnh công nghệ mới đang giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giành lợi thế trên các lĩnh vực công nghiệp truyền thống. Xu thế này tạo ra những thay đổi quan trọng trong chuỗi giá trị các ngành công nghiệp cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong bối cảnh của nền kinh kế số hiện nay, đòi hỏi các tổ chức, doanh nghiệp và mô hình truyền thống phải có sự thay đổi mạnh mẽ để tiếp tục tồn tại và phát triển.

Với dân số 96 triệu người và là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất nhì khu vực, dân số trẻ năng động và có khả năng tiếp cận công nghệ cao nhanh chóng, các chuyên gia đánh giá Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong việc chuyển đổi số. Đây là những cơ hội mạnh mẽ để các doanh nghiệp Việt Nam tạo ra sự đột phá trên thị trường nhờ vào chuyển đổi số.

 

Cần mạnh tay ngăn chặn TikTok bẩn lan tràn trên không gian mạng!

Những nội dung bẩn từ mạng xã hội đã tồn tại từ lâu, nhưng sự xuất hiện của TikTok khiến chúng 'nâng lên tầm cao mới'.

TikTok không phải là nền tảng mạng xã hội đầu tiên hay duy nhất về video ngắn. Trước TikTok có Vine một platform video siêu ngắn 6 giây vô cùng hot trong giới trẻ.

Tuy nhiên Twitter - công ty mẹ của Vine, đã dừng Vine vào 2016 bởi phần mềm này gặp không ít vấn đề về việc chuyển đổi để user có lợi nhuận cũng như phần mềm có lợi nhuận để tiếp tục phát triển.

Ngoài ra những luật ban hành của Mỹ cũng rất nghiêm khắc khiến Vine không thể hoạt động "tào lao" như TikTok để có thể phát triển "đột phá một cách thần kỳ" như TikTok. Tại sao TikTok phát triển "tào lao" và độc hại đến như bây giờ?

Điều đầu tiên, TikTok vì sự phát triển của mình mà hạ thấp độ tuổi user xuống còn 13, một độ tuổi mà sự mông lung về kiến thức xã hội cùng sự nhận định đúng sai. Để làm được điều đó TikTok đã mua lại công ty Musical.ly ,một công ty thuần video cover âm nhạc và dance. Khi độ tuổi nhận thức chưa đủ cùng với sự phát triển của của xã hội ngày nay thì sự nổi tiếng lại càng tha hoá các bạn nhỏ khiến nó trở nên vô cùng khủng khiếp .

Bất chấp những định kiến xã hội để làm những điều ngu ngốc như những thử thách chết người nghẹn thở hay chặn đầu xe tải... sự hở hang da thịt từ những video dance không có một chút kỹ thuật gì ngoài việc nhún nhún lắc lắc qua lại... từ những content siêu nhanh lệch lạc về nhận thức giống như việc bạn đọc một cuốn sách nhưng không đọc phần giữa mà chỉ đọc mở đầu và kết luận.

Điều thứ hai, trong quá trình phát triển của mình TikTok cũng dùng những sự nhập nhằng và kẽ hở của pháp luật để gợi ý lên xu hướng không lành mạnh, cũng như video lệch lạc bất chấp sự đúng sai của nó chỉ cần nhiều view.

Ngoài ra sự phát triển phần mềm của TikTokcũng không nằm ngoài xu hướng phát triển của nhiều nội dung ở Trung Quốc: sự màu mè, lấp liếm, rẻ tiền bằng những hiệu ứng, bằng những công thức làm video mì ăn liền câu view đánh trúng tâm lý con người để lấp liếm đi sự rời rạc thiếu đầu tư nghiêm túc của nội dung.

Không thể phủ nhận TikTok cũng mở ra rất nhiều thứ mới để khiến giới trẻ có thể sáng tạo hơn, kiếm thêm thu nhập, phổ biến nhạc... nhưng với cái hại mà nó mang lại cho cả một thế hệ trẻ là các bệnh tâm lý xã hội hiện thời được đẩy đến cực đại (digital overload - quá tải digital , Digital Demenia - suy giảm nhận thức, dễ mất tập trung, kém trí nhớ, mất ngủ, hồi hộp, lo lắng, FOMO...)

Công bằng mà nói những thứ độc hại này nó vẫn tồn tại trước khi TikTok ra đời, nhưng TikTok đã phổ biến những thứ độc hại này lên một "tầm cao hoàn toàn mới".

Biết đâu vì nó mà chúng ta càng dễ dàng nhận ra những giá trị cần lưu giữ lại là gì. Lời cuối, xin đừng thờ ơ với sự độc hại bởi nạn nhân có thể người thân hoặc những người xung quanh bạn. Tri thức và nhận thức của người dùng ngày càng cần tăng cao.

Nếu mỗi người chúng ta cùng nhân rộng tri thức và nhận thức đến người xung quanh chúng ta thì sự độc hại và các nạn nhân sẽ giảm đi đáng kể.

 


102 năm ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh - Người tướng lĩnh tài ba anh dũng!

 Chín mươi chín năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, Đại tướng Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta. Là người cộng sản kiên cường, suốt đời cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân; người chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả; nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, với nhiều dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

  

CHÂN DUNG ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH (01/12/1920 - 22/04/2019)

Đồng chí Lê Đức Anh, sinh ngày 01-12-1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế; quê quán xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến người dân nô lệ mất nước sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Năm 17 tuổi đồng chí chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương. Năm 18 tuổi, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; sau đó được tổ chức phân công phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.

    Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đồng chí tham gia quân đội và bắt đầu cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt, là người chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước. Trong từng trận chiến, qua những gian nguy đã giúp đồng chí tôi luyện thêm ý chí, tài năng, không ngừng trưởng thành và có những đóng góp quan trọng trên các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Quân đội giao phó. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4 năm 1975,…

    Từ năm 1976 đến năm 1980, đồng chí kinh qua các chức vụ Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Đồng chí được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng năm 1974; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980, Đại tướng năm 1984. Tháng 12-1986, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ tháng 02-1987, là Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

 

    Ngày 23-9-1992, Quốc hội khóa IX đã bầu đồng chí Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến tháng 12-1997.

    Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng từ khóa IV đến khóa VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Ủy viên Bộ Chính trị từ khóa V đến khóa VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.

    Ngày 22-4-2019, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh qua đời tại nhà công vụ trong Trạm khách Bộ Quốc phòng (T66), số 5 Hoàng Diệu, Hà Nội.

    Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng. Đồng chí đã có những đề xuất xác đáng với Bộ Chính trị về giải quyết vấn đề biên giới, về công tác đối ngoại; có nhiều đóng góp quan trọng trong xúc tiến bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Đồng chí đã đề xuất với Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo giải quyết nhiều vấn đề lớn, quan trọng về quân sự, quốc phòng. Đồng chí đặc biệt quan tâm và có tầm nhìn chiến lược về phòng thủ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

    Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị đã dồn hết tâm lực cho công việc với quyết tâm và cố gắng cao nhất, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy mọi động lực mới, khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân. Cùng với việc phấn đấu hoàn thành các công việc về công tác xây dựng pháp luật, công tác cán bộ, tiếp dân, thi đua - khen thưởng..., Đồng chí còn dành thời gian đến các địa phương để nắm bắt tình hình thực tế, nắm những khó khăn cần tháo gỡ. Đặc biệt sau khi đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý, đồng chí đã ký Lệnh số 36 L/CTN, ngày 10/9/1994 công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, đây thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

    Ngoài ra, Chủ tịch nước Lê Đức Anh còn có nhiều đóng góp quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại của đất nước, nổi bật là việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thúc đẩy Việt Nam gia nhập ASEAN. Sáng 12-7-1995 (theo giờ Việt Nam), hai nước tuyên bố bình thường hóa quan hệ. Tháng 10-1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp quốc; Đồng chí trở thành Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam đặt chân tới Mỹ. Cùng với xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp cho tiến trình thúc đẩy để Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28-7-1995.



Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các bộ, ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ, hàng loạt các quốc gia tìm đến Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư về kinh tế và khoa học công nghệ. Trong nhiệm kỳ này, thay mặt Nhà nước và Nhân dân ta, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế quan trọng; thăm chính thức và làm việc với 13 nước trên thế giới; đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức và nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam…

    Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, với bao khó khăn, thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và Nhân dân; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như Cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định, “là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”(1).

    Trong Điếu văn tại Lễ truy điệu đồng chí Lê Đức Anh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ghi nhận: “Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Là cán bộ lão thành cách mạng, được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đồng chí luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; không ngừng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao tri thức, sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc”.

 

120 năm ngày sinh lãnh tụ yêu nước Nguyễn Thái Học

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các hoạt động bạo động khác của Việt Nam Quốc dân đảng đầu năm 1930, đã làm rung động toàn bộ hệ thống chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương và đã gây ra những chấn động lớn tại nước Pháp đương thời. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái được đề cao, được coi như ngọn cờ tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh của một dân tộc bị áp bức chống đế quốc xâm lược. Vào đêm mồng 9 rạng ngày 10/2/1930, Nguyễn Thái Học cùng các cộng sự của ông với tinh thần yêu nước cháy bỏng và lòng căm thù giặc sâu sắc đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Yên Bái. Mặc dù không thành công, song Khởi nghĩa Yên Bái đã ghi vào trang lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam một dấu ấn khó phai mờ.

                                                    

                                                 

Hoàn cảnh xuất thân và quá trình trưởng thành của Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học sinh ngày 01/12/1902 tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) trong một gia đình trung nông sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, buôn vải. Ông là con cả của cụ Nguyễn Văn Hách và Nguyễn Thị Quỳnh. Từ 4 tuổi ông đã được cha mẹ cho đi học chữ Hán, năm 11 tuổi ông bắt đầu theo học chương trình tiểu học Pháp - Việt tại thị xã Vĩnh Yên. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Tiểu học, năm 1921, Nguyễn Thái Học thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Trong thời gian gần 3 năm học ở trường này, Nguyễn Thái Học đã nhiều lần công khai phản đối thái độ và hành vi phân biệt, miệt thị người bản xứ của một số giám thị và giáo viên người Pháp.

Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm (1924), Nguyễn Thái Học nộp đơn xin học Trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương. Trong thời gian ông học tập tại đây, phong trào yêu nước Việt Nam có nhiều chuyển biến rất quan trọng.

Có thể nói, truyền thống quê hương, tư tưởng Nho giáo cùng với những chính sách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp là những yếu tố cơ bản tạo nên một Nguyễn Thái Học yêu nước, căm thù giặc, thôi thúc ông tìm đường cứu nước. Nguyễn Thái Học bước vào tuổi trưởng thành cũng là thời kỳ phong trào kháng Pháp ở Việt Nam dần lắng xuống. Các phong trào vũ trang hay bạo động chống Pháp đều bị thực dân Pháp đàn áp. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam vừa mới hình thành còn rất non yếu về cả thế và lực. Tư tưởng “Pháp - Việt đề huề” mong dựa vào Pháp để cầu tiến bộ, cải cách đang được tán dương, nhất là khi Varenne, đảng viên Đảng Xã hội Pháp được cử sang làm Toàn quyền Đông Dương với hàng loạt các chính sách phỉnh phờ, lừa bịp, mua chuộc. Nguyễn Thái Học cũng không khỏi ngộ nhận có thể đề nghị Pháp tiến hành một số cải cách, thúc đẩy nền kinh tế bản xứ phát triển để người dân thuộc địa dễ sống hơn nhưng những nguyện vọng của ông gửi tới chính quyền Pháp đều không được chấp nhận.

Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo nổ ra và bước đầu giành thắng lợi. Trước sự thất bại của con đường đấu tranh cải lương, Nguyễn Thái Học nhận ra rằng muốn cứu nước chỉ có con đường vũ trang khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp. Khi đã xác định được con đường cứu nước, Nguyễn Thái Học đã nhanh chóng cùng một số thanh niên trí thức yêu nước cùng chí hướng thành lập tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng vào ngày 25/12/1927.

Nói đến tư tưởng cách mạng của Nguyễn Thái Học, phải nói đến tư tưởng “Không thành công cũng thành nhân” của ông. Tư tưởng này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học và đại cục của Việt Nam Quốc dân đảng và cũng là ngòi nổ của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Nguyễn Thái Học với tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng

Năm 1926, tại Hà Nội xuất hiện một nhà xuất bản mang tên Nam Đồng thư xã do hai anh em Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm và Hoàng Phạm Trân chủ trương, do Phạm Tuấn Tài làm chủ nhiệm. Nam Đồng thư xã vừa giống như một nhà xuất bản, một hiệu sách đồng thời như một nhóm biên soạn, tập trung vào việc biên soạn, dịch thuật, phát hành sách báo phổ biến các tư tưởng cách mạng, đặc biệt là tư tưởng Tôn Trung Sơn, ca ngợi các tấm gương nghĩa liệt, những anh hùng cứu quốc là người Việt Nam và nước ngoài và trở thành một trong những nơi quy tụ thanh niên, trí thức yêu nước ở Bắc Kỳ.

Lúc đó, Nguyễn Thái Học là sinh viên năm thứ 2 của trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương, là độc giả thường xuyên của nhà xuất bản, rồi liên lạc với Nam Đồng thư xã và cuối cùng đến cuối năm 1927, cùng với Hồ Văn Mịch dọn đến ở chung với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm và Hoàng Phạm Trân ngay trong nhà xuất bản để cùng chia sẻ tư tưởng và hành động. Năm 1927, sau khi Nguyễn Thái Học gửi đến Thống sứ Bắc kỳ xin phép ra tờ bán nguyệt san lấy tên Nam Thành với mục đích nâng cao dân trí, bỏ hủ tục, khuyến khích phát triển nền kinh tế thuộc địa nhưng không được chấp thuận, Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng thư xã khẩn trương chuẩn bị để lập ra một tổ chức yêu nước bí mật. Đi từ tuyên truyền cổ động, Nam Đông thư xã đã trở thành hạt nhân của việc thành lập chính đảng của giai cấp tư sản Việt Nam. Chỉ trong thời gian ngắn, nhóm Nam Đồng thư xã đã tổ chức được 18 chi bộ rải rác trong các tỉnh Bắc Kỳ với số lượng gần 200 đảng viên bí mật.

Ngày 25/12/1927, Việt Nam Quốc dân đảng ra đời tại cuộc họp ở làng Thể Giao, nay là nhóm các đường phố Thể Giao, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm - quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Thái Học chủ trì. Sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Nguyên Thái Học, Việt Nam Quốc dân đảng đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển cơ sở trong các tầng lớp dân chúng trên cả nước, nhất là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng còn có thêm các nhóm nhân sĩ và trí thức yêu nước ở Bắc Ninh do Nguyễn Thế Nghiệp tổ chức, nhóm khác ở Thanh Hoá do Hoàng Văn Đào đứng đầu, một nhóm ở Thái Bình do Hà Đình Điển tổ  chức và một nhóm ở Sài Gòn do Trần Huy Liệu đứng đầu. Cơ sở tổ chức của Việt Nam Quốc dân đảng phát triển tương đối nhanh trong năm 1928 và đầu năm 1929, thu hút hàng nghìn thanh niên trí thức, công chức và binh lính Việt Nam yêu nước trong quân đội Pháp. Đến năm 1928, Việt Nam Dân quốc hội do Nguyễn Khắc Nhu thành lập cũng tự nguyện sáp nhập, cùng chịu sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học.

Khi mới thành lập, Đảng chưa có chính cương rõ ràng mà chỉ nêu chung chung là “Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm cách mạng thế giới”. Năm 1928, Đảng nêu lên tôn chỉ “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Mục đích của Đảng là để đoàn kết lực lượng để đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ trực tiếp, giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Trong điều lệ sửa đổi (công bố tháng 02/1929), Đảng nêu ba nguyên tắc tư tưởng là “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành cách mạng qua bốn thời kỳ: thời kỳ bí mật (tập hợp lực lượng); thời kỳ dự bị (chuẩn bị các điều kiện vật chất như lương thực, vũ khí đạn dược cho cuộc khởi nghĩa vũ trang); thời kỳ công khai (đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua); thời kỳ kiến thiết (thành lập chính phủ cộng hòa, thực hiện các quyền tự do dân chủ). Nhưng đến khi khởi nghĩa vũ trang, những nguyên tắc và chính sách có tính cách mạng lại bị loại bỏ.

Về mặt tổ chức, Việt Nam Quốc dân đảng có bốn cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ. Mỗi chi bộ không quá 19 người. Từ Chi bộ đến Tỉnh bộ, Kỳ bộ tới Tổng bộ. Mỗi cấp có 4 ban: Tài chính, Tuyên truyền, Trinh sát, Tổ chức. Tổng bộ có thêm 4 ban: Binh vụ, Ngoại giao, Giám sát và Ám sát. Trên thực tế, Kỳ bộ Việt Nam Quốc dân đảng Bắc Kỳ làm nhiệm vụ của Tổng Bộ. Thành phân của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng bao gồm: trí thức, học sinh, giáo viên, công chức, những người làm nghề tự do, một số thân hào ở nông thôn, một số binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tổ chức cơ sở trong quần chúng rất ít, địa bàn hoạt động chủ yếu ở một số tỉnh Bắc Kỳ.

Có thể thấy, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đã không lấy ba phương châm: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc của Tôn Trung Sơn mang lại mà lại lấy “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng Pháp làm đường lối, phương châm cách mạng. Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng hạt nhân xuyên suốt trong ba bản Chương trình hành động và Điều lệ của Việt Nam Quốc dân đảng từ tháng 12 năm 1927 đến khi tan rã là chủ nghĩa dân tộc cách mạng và tư tưởng bạo động khởi nghĩa. Việt Nam Quốc dân đảng đã cho thấy cách mạng Việt Nam có thể tập hợp được những người tri thức, tư sản, tiểu tư sản, hào lý, binh lính, công chức nếu họ yêu nước. Đồng thời, Việt Nam Quốc dân đảng là bước đầu thử nghiệm tổ chức “phụ nữ Đoàn” với mục đích, điều lệ, lời thề vào Đoàn, tổ chức bốn cấp với các ban chuyên môn ở Trung ương và Ban Tuyên truyền, Ban Thanh tra, Ban Giao thông, Ban Tài chính... Đây là những tổ chức mà trước Việt Nam Quốc dân đảng chưa có Hội, Đảng nào có được một sự quan tâm, tổ chức như vậy.

 

ĐOÀN CÔNG TÁC HỌC VIỆN QUỐC PHÒNG THĂM, LÀM VIỆC TẠI HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG!

Chiều 30-11, đoàn công tác Học viện Quốc phòng do Thượng tướng Trần Việt Khoa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng làm trưởng đoàn có chuyến thăm, làm việc, trao đổi kinh nghiệm thực tế về phát triển kinh tế-xã hội gắn với quốc phòng, an ninh tại huyện Mèo Vạc (Hà Giang)!
      Cùng đi có đồng chí Hà Thị Minh Hạnh, Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh; lãnh đạo Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh, Bộ CHQS tỉnh; học viên Lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an an ninh đối tượng I, khóa 88. Về phía huyện Mèo Vạc có các đồng chí Vương Ngọc Hà, Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện; Nguyễn Huy Sắc, Phó bí thư, Chủ tịch UBND huyện...
     Tại buổi làm việc, lãnh đạo huyện Mèo Vạc thông tin: Huyện nằm trong vùng Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; có đường biên giới dài hơn 41 km tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng sự quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền huyện, tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện có bước phát triển mạnh mẽ, quốc phòng-an ninh được giữ vững. Hết năm 2022, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 211 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người ước đạt 28 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ che phủ rừng đạt 36,66%; 100% đường giao thông từ huyện đến trung tâm xã được cứng hóa…
     Bên cạnh những thuận lợi, huyện còn gặp nhiều khó khăn, thách thức như: Nguồn lực đầu tư và thu hút đầu tư còn hạn chế; địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ; thiếu đất, nước cho sinh hoạt và sản xuất; khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường…
     Phát biểu tại buổi làm việc, Thượng tướng Trần Việt Khoa, Giám đốc Học viện Quốc phòng bày tỏ vui mừng, phấn khởi trước những kết quả đạt được, đồng thời chia sẻ những khó khăn của huyện Mèo Vạc thời gian qua. Thời gian tới, đồng chí mong muốn huyện Mèo Vạc tiếp tục đoàn kết, khắc phục khó khăn để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương, trong đó tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ về: Phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa truyền thống và giá trị Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc; coi trọng công tác xây dựng Đảng; tăng cường công tác đối ngoại; đảm bảo vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, không để bị động, bất ngờ; có cơ chế, chính sách để thu hút nhân tài; thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng-an ninh.
     Tại buổi làm việc, Thượng tướng Trần Việt Khoa, Giám đốc Học viện Quốc phòng đã tặng quà lưu niệm huyện Mèo Vạc. Lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh đối tượng I, khóa 88 cũng tặng các cơ quan, đơn vị của huyện Mèo Vạc nhiều phần quà với tổng trị giá 870 triệu đồng./.
Theo QĐND.


Yêu nước ST.

TẬN DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ TUYÊN TRUYỀN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC

Để phát huy thế mạnh cũng như ngăn ngừa, khắc phục những mặt tiêu cực của mạng xã hội trong công tác tuyên truyền chính trị, cần nâng cao nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân về những ưu thế và mặt trái của mạng xã hội để có phương thức ứng xử phù hợp với tinh thần chủ động, tích cực, linh hoạt, an toàn, hiệu quả. Cụ thể, để việc tuyên truyền chính trị trên mạng xã hội đạt hiệu quả, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể chính trị bên cạnh phương thức tuyên truyền truyền thống cần mở rộng kênh tương tác, tuyên truyền trên mạng xã hội bằng việc xây dựng các kênh thông tin, các trang mạng riêng của cơ quan, tổ chức mình, qua đó cung cấp kịp thời thông tin chính thống đến độc giả.

Cần chủ động cập nhật thông tin thời sự, phối hợp tốt với các cơ quan, bộ, ngành liên quan như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an trong việc xây dựng chương trình, trang thông tin tuyên truyền đa dạng, có nội dung phong phú, có sức hấp dẫn, lôi cuốn, tạo môi trường văn hóa lành mạnh với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, định hướng tư tưởng, tình cảm nhân dân, hướng cộng đồng tới những giá trị chân, thiện, mỹ.

Với những người trực tiếp làm công tác tuyên truyền và các cơ quan, đơn vị phụ trách phải làm chủ công nghệ, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh, dự báo những tình huống mới có thể nảy sinh khác với mục tiêu, mong muốn tuyên truyền. Đồng thời xây dựng đội ngũ cộng tác viên giỏi về lý luận, am hiểu thực tiễn, sử dụng thành thạo công nghệ để truyền tải chủ trương, chính sách pháp luật bằng những hình thức đa dạng, hấp dẫn như xây dựng các video clip, mô hình hóa những vấn đề trừu tượng bằng những thiết kế đồ họa, tranh ảnh, những mẩu tin ngắn với cách đặt vấn đề đi vào trọng tâm, có nội dung thông tin, gần gũi với quần chúng.

Với các cơ quan quản lý, cần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch, bảo đảm môi trường mạng xã hội lành mạnh, trong sạch, nhân văn với những giá trị văn hóa tốt đẹp được lan tỏa, chia sẻ. Cần có chế tài và biện pháp xử lý nghiêm minh, có tính răn đe để cảnh báo cũng như kịp thời xử lý nghiêm những hành vi vi phạm. Có biện pháp ngăn chặn và đẩy lùi những trang mạng có nội dung xấu độc, chống phá Đảng, Nhà nước.

Nhằm khai thác hiệu quả các thế mạnh của mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị, cần phát huy vai trò, sức mạnh, sức sáng tạo của quần chúng nhân dân, học tập nhân dân, huy động lực lượng trong dân với mục tiêu để các tầng lớp nhân dân luôn đồng hành cùng Đảng, Nhà nước, bảo vệ những giá trị mang tính nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên không gian mạng, mỗi người dân vừa là đối tượng tiếp nhận thông tin, vừa là người cung cấp thông tin, đồng thời là một “chiến sĩ” trong cuộc đấu tranh với cái xấu, cái ác để cùng với các cơ quan, đoàn thể chính trị bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường hiện nay.

Việc tận dụng ưu thế của mạng xã hội với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, tận tâm phục vụ cùng những thông tin hữu ích sẽ tạo chất “keo” gắn kết mối quan hệ bền chặt giữa chính quyền với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ, tạo sức mạnh, động lực thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra.

  

MỘT SỐ MẶT TRÁI CỦA MẠNG XÃ HỘI TRONG VIỆC TUYÊN TRUYỀN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỚI NHÂN DÂN

 Do tính chất “mở” của môi trường mạng xã hội, việc tuyên truyền chính trị trên không gian mạng thường xuyên đối diện với những khó khăn, thách thức, nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí ở trong nước và nước ngoài. Chúng thường xuyên lợi dụng kẽ hở của mạng xã hội để tuyên truyền những tư tưởng phản động, những âm mưu chính trị hòng can thiệp sâu vào công việc nội bộ của nước ta.

Bằng nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi, từ những thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước, chúng cắt ghép câu chữ, tách câu văn, lời nói ra khỏi văn cảnh để hướng lái dư luận; cố tình thổi phồng những thông tin sai sự thật; xuyên tạc phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước theo ý đồ cá nhân… Lợi dụng tính chất mở, môi trường ảo và những kẽ hở trong chính sách pháp luật, một số thế lực xấu đã dựng lên những trang thông tin điện tử giả mạo các cơ quan, tổ chức, đánh lừa công chúng, rồi từ đó đăng tải những thông tin, hình ảnh xuyên tạc tình hình chính trị, xã hội.

Nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đất đai, quốc phòng-an ninh, chính sách đối ngoại, những văn kiện lịch sử đã bị cắt, dán, chèn những thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận. Bên cạnh tình trạng tin giả, tin đồn sai sự thật là hiện tượng lộ, lọt thông tin liên quan đến bí mật Nhà nước lan truyền trên mạng xã hội với lượt chia sẻ, tìm kiếm, truy cập, bình luận lớn, gây bất an dư luận, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác an ninh, an toàn thông tin quốc gia và lợi ích dân tộc.

 

VAI TRÒ CỦA MẠNG XÃ HỘI TRONG VIỆC TUYÊN TRUYỀN CÁC CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC ĐẾN NGƯỜI DÂN

 Sự ra đời, phát triển của mạng xã hội với những tính năng vượt trội về giao diện, kết nối, truy cập, khả năng tương tác,… đã mang lại những cơ hội trải nghiệm mới cho người dùng trong việc tìm kiếm thông tin, nâng cao tri thức, giải trí, trò chuyện, giao dịch, kinh doanh,... Trong bối cảnh khó khăn như thiên tai, dịch bệnh, mạng xã hội còn là người bạn đồng hành, kịp thời chia sẻ thông tin, mang đến những “món ăn” tinh thần đa dạng, bổ ích, tiếp thêm động lực, sức mạnh, niềm tin để con người vượt qua thử thách, khó khăn.

Nhằm tích cực, chủ động ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong công tác lãnh đạo, điều hành, quản trị xã hội, thích ứng bối cảnh chuyển đổi số, việc tận dụng ưu thế của internet, mạng xã hội trong truyền thông chính sách và tuyên truyền chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với khả năng truyền tin nhanh, độ tương tác cao, cách thể hiện đa dạng, sức hấp dẫn lớn, mạng xã hội tạo những hiệu ứng tích cực trong dẫn dắt, định hướng dư luận và chi phối tâm lý, hành vi của người dùng.

Do đó, bên cạnh phương thức tuyên truyền truyền thống thông qua các cơ quan thông tấn báo chí, xuất bản của Đảng, Nhà nước, việc sử dụng ưu thế của mạng xã hội và các phương tiện truyền thông mới là việc làm cần thiết của cả hệ thống chính trị, nhằm gia tăng phương tiện, cách thức và khả năng lan tỏa những thông điệp, nội dung liên quan đến lĩnh vực chính trị, đồng thời góp phần ngăn chặn kịp thời những thông tin xấu độc, sai sự thật lan truyền trên không gian mạng.

Nhằm tận dụng, phát huy vai trò tích cực của mạng xã hội, thời gian qua, một số cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa phương đã chủ động xây dựng các fanpage, thiết lập tài khoản mạng xã hội của cơ quan, tổ chức để qua đó phổ biến, tuyên truyền, cập nhật những thông tin, sự kiện mới về tình hình chính trị, xã hội nhằm cung cấp thông tin, hình ảnh một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả đến người dân.

Việc tận dụng những ưu thế của mạng xã hội với giao diện thân thiện, dễ truy cập, dễ sử dụng, nội dung đa dạng, phong phú, đã tạo nên những hiệu ứng tích cực, mang lại những thông tin hữu ích cho người dùng. Tiêu biểu có thể kể đến như: trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoành hành, nhiều địa phương thực hiện giãn cách, cách ly xã hội, mạng xã hội với những tính năng vượt trội đã rút ngắn khoảng cách giữa chính quyền, đoàn thể với người dân.

Thông qua mạng xã hội, các cơ quan chức năng kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, giải đáp thắc mắc, điều chỉnh chính sách và có những hỗ trợ kịp thời, giúp người dân vượt qua khó khăn. Qua mạng xã hội, người dân có thể trực tiếp bày tỏ chủ kiến, quan điểm, nêu lên những nguyện vọng chính đáng cũng như phản ánh những vấn đề bức xúc tới các cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý. Bên cạnh đó, nhiều dự thảo về cơ chế, chính sách, pháp luật trước khi ban hành đã nhận được các ý kiến góp ý, phản hồi tích cực với những ý kiến tâm huyết, cái nhìn đa chiều của mọi tầng lớp xã hội gửi qua mạng xã hội, giúp các cơ quan biên soạn, xây dựng và thực thi chính sách có cái nhìn bao quát, toàn diện về cuộc sống.

Những hiệu ứng mà mạng xã hội mang lại cho cuộc sống, con người là không thể phủ nhận, cho thấy đây cần được xem là kênh thông tin quan trọng để kết nối chính quyền với người dân. Do đó, trong thời gian tới, việc phát huy vai trò của mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị, nhất là những vấn đề, sự kiện lớn, có ý nghĩa trọng đại đến với đồng bào trên mọi miền Tổ quốc, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa cần được chú trọng hơn nữa.

 

 

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO ỨNG XỬ VĂN HÓA TRÊN MẠNG XÃ HỘI

Một là, nâng cao ý thức, rèn luyện hành vi đạo đức, làm cơ sở cho xác định thái độ, hành vi ứng xử văn hóa trên MXH

Ứng xử trên MXH luôn cần có thái độ tôn trọng người khác, biết quan tâm, lắng nghe, chia sẻ, thông cảm. Mọi lời nhận xét, bình luận phải khách quan và tế nhị, tỏ thái độ, cảm xúc phù hợp, không nói xấu, kéo bè cánh nhằm hạ thấp danh dự, nhân phẩm của người khác. Biết cách chọn bạn và quản lý danh sách bạn bè, không nên quá nhiều bạn khiến cho việc kiểm soát thông tin khó khăn. Trước khi kết bạn với những người mới, cần tìm hiểu một cách kỹ lưỡng.

Suy nghĩ kỹ về những gì nói và đăng trên mạng, có trách nhiệm với lời nói, hành vi. Tìm hiểu kỹ các nguồn thông tin để kiểm chứng, không nên “tay nhanh hơn não” đưa ra những nhận xét, bình luận vội vàng, không đúng hoặc ác ý. Đưa hình ảnh phù hợp lên mạng, không đưa những hình ảnh hở hang, mang tính khiêu dâm hoặc bạo lực, ảnh selfie diễn ra ở những nơi không phù hợp (đám tang, tai nạn giao thông…). Đề phòng kẻ xấu có thể sử dụng những bức ảnh cho những mục đích không tốt đẹp. Trước khi đăng tải những bức ảnh và các câu chuyện của bạn bè cần có lời xin phép và được sự đồng ý của họ.

Có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa ứng xử của dân tộc, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt khi giao tiếp trên MXH. Không nên dùng từ ngữ tục tĩu hoặc từ lạ không có trong từ điển tiếng Việt, không nên dùng tiếng lóng, từ viết tắt hoặc ngôn ngữ pha tạp. Phản ứng thận trọng trước các vấn đề nảy sinh trên MXH.

Hai là, tuyên truyền, phổ biến Luật An ninh mạng, giúp mỗi người hiểu rõ ý nghĩa, giá trị, nội dung, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và những hành vi bị cấm liên quan đến văn hóa ứng xử khi tham gia MXH

Luật An ninh mạng nhằm bảo vệ người dùng hợp pháp trên không gian mạng; phòng ngừa, đấu tranh, làm thất bại hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, chống Nhà nước, tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động biểu tình, phá rối của các thế lực phản động. Phòng ngừa, ngăn chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả của các đợt tấn công mạng, khủng bố mạng và phòng, chống nguy cơ chiến tranh mạng.

Luật An ninh mạng quy định rõ những hành vi bị cấm liên quan đến văn hóa ứng xử như: Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng

Những quy định của Luật không xâm phạm đến quyền con người, không cản trở tự do ngôn luận, không cản trở hoạt động bình thường, đúng luật của cá nhân, tổ chức như những thông tin trên mạng xã hội, blog, web phản động tuyên truyền, xuyên tạc. Thực hiện đúng Luật nghĩa là bảo vệ chính mình, người thân và gia đình, đồng thời, góp phần bảo vệ an ninh mạng quốc gia.

Ba là, Nhà nước sớm nghiên cứu ban hành Bộ quy tắc ứng xử trên MXH, hướng tới xây dựng môi trường mạng lành mạnh, an toàn. Bộ quy tắc ứng xử trên MXH sẽ đưa ra các quy tắc chung bao gồm: tôn trọng, trách nhiệm, lành mạnh và an toàn. Các quy tắc riêng đối với các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng phải tuân thủ theo các mức độ: Nên/không nên, được/không được.

Bốn là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, thầy cô giáo, các bậc phụ huynh; phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức, cơ quan, nhà trường và gia đình trong xây dựng văn hóa ứng xử trên MXH

Năm là, sử dụng các giải pháp về công nghệ hỗ trợ cho xây dựng văn hóa ứng xử trên MXH

Ngoài việc áp dụng luật, quy tắc ứng xử, chế tài cụ thể, cần sử dụng các giải pháp về công nghệ, chẳng hạn như bảo mật thông tin cá nhân trên mạng, giữ bí mật mật khẩu, đặt chế độ cá nhân hoặc chỉ bạn bè thân thiết và tin cậy mới có thể xem; nghiên cứu sử dụng phần mềm lọc, ngăn chặn thông tin xấu, độc khi mới được đăng tải; nhờ các chuyên gia công nghệ thông tin tư vấn cách sử dụng MXH an toàn. Cơ quan chuyên trách nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên tìm kiếm những bài đăng sai sự thật, xúc phạm người khác, những hình ảnh phản cảm, gửi tới nhà cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia, các MXH mà người dùng đăng tải và yêu cầu gỡ bỏ.

 

Cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng học tập Bác về "tự phê bình và phê bình"

Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của tổ chức đảng; nâng cao chất lượng, uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Hồ Chí Minh từng nói, người đời không phải thánh thần, ai cũng có tính tốt, tính xấu, nên khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Đảng cũng vậy; Đảng ta cũng từ nhân dân mà ra, nên không thể tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Người cũng cho rằng: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm” và “có hai cách để thực hiện thống nhất tư tưởng, đoàn kết nội bộ là: Phê bình và tự phê bình. Từ trên xuống dưới, ai nấy đều phải dùng nó để ngày càng đoàn kết, tiến bộ”. Việc tự phê bình và phê bình là việc phải làm thường xuyên của mỗi tổ chức cơ sở đảng “như rửa mặt hàng ngày”, nhằm đảm bảo chế độ sinh hoạt Đảng. Trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình, người phê bình cần phải khách quan, trung thực, công tâm và công khai, “không đặt điều”, “không thêm bớt”. Khi góp ý phải thẳng thắn, chân thành, có tình, có lý làm cho người được góp ý “tâm phục, khẩu phục”. Muốn vậy, người làm nhiệm vụ phê bình phải lựa chọn phương pháp thích hợp, tế nhị trong lời nói, giọng nói, cách nói. Khi phê bình, cần tránh động cơ vụ lợi, phê bình không đúng đắn vì thành kiến cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi, không thừa nhận thành tích của nhau nên lợi dụng phê bình để đả kích, cường điệu khuyết điểm, nhằm hạ uy tín, “hạ bệ” lẫn nhau, gây mất đoàn kết nội bộ. Đặc biệt, không được lợi dụng tự phê bình và phê bình để mỉa mai, chua cay, “đâm thọc”, gây khó chịu, khó tiếp thu, gây ra tự ái hoặc hiểu nhầm cho người bị phê bình; nhất là tránh hiện tượng: “Ai hợp với mình thì người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng chi là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng, nó làm hại đến sự thống nhất”. Việc tự phê bình và phê bình được tiến hành kiên quyết, ráo riết, triệt để trên cơ sở của tình thương yêu đồng chí lẫn nhau chính là một “cuộc đấu tranh” trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, để “cốt giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc tốt hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Trong một tổ chức, sự đoàn kết và thống nhất trong ý chí và hành động chỉ có được khi mỗi thành viên tự phê bình và phê bình đều cùng phải thành khẩn, thành tâm, không giấu giếm khuyết điểm của mình, của đồng chí mình; phải tự giác nhận và vạch ra khuyết điểm của mình cũng như của đồng chí mình trước tập thể. Cả người phê bình cũng như người tiếp thu ý kiến phê bình của người khác đều phải xuất phát từ động cơ trong sáng, đúng đắn: đó là giúp đỡ lẫn nhau, vì sự tiến bộ của mỗi người và sự phát triển vững mạnh của tổ chức. Lịch sử gần 90 năm xây dựng và phát triển của Đảng, hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân Việt Nam đã cho thấy: trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã có biết bao tấm gương những người con ưu tú của Đảng và nhân dân ngời sáng tấm gương đạo đức cách mạng: luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm; luôn gương mẫu đi đầu “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân lên trước lợi ích của bản thân mình như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỏi và căn dặn. Nhưng, cùng với sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, hệ lụy của nền kinh tế thị trường cùng tác động của bối cảnh toàn cầu hóa đã khiến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Họ không nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… Bên cạnh đó, ở một số nơi, việc thực hiện tự phê bình và phê bình chưa thực sự nghiêm túc, ảnh hưởng đến chất lượng tự phê bình và phê bình. Một số cấp ủy, trước hết là đồng chí bí thư, thường trực cấp ủy chưa coi trọng và thiếu kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện tự phê bình và phê bình; chưa gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình, chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm của tập thể. Trong tự phê bình và phê bình vẫn còn có những “vùng cấm”, “vùng tránh” hoặc lợi dụng đấu tranh phê bình để “hạ bệ”, “thanh trừng” lẫn nhau gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ,v.v.. Để thiết thực làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, hơn bao giờ hết, tự phê bình và phê bình càng phải được chú trọng và phải thực hiện nghiêm túc “từ trên xuống”, từ trong Đảng ra ngoài xã hội. Cùng với việc luôn không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi kỹ năng, nghiệp vụ quản lý điều hành, quá trình rèn luyện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lối sống trong sáng, giản dị… của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo sẽ là tấm gương sáng cho quần chúng học tập, noi theo. Nhờ đó, thu hút, tập hợp đoàn kết quần chúng, tạo nên sự thống nhất trong ý chí và hành động, để có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó… Nguyên tắc làm gương, nêu gương, nhất là nêu gương trong tự phê bình và phê bình là sự nhất quán, phải được thể hiện rõ trong từng ý tưởng, quyết sách, việc làm thường ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.

Duy trì thực hiện thường xuyên, nền nếp, chế dộ tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức đảng.


Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa thiết thực hiện nay, đòi hỏi mỗi tổ chức cơ sở đảng cần làm tốt góp phần nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình. Hiện nay công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo ngày càng phát triển về bề rộng lẫn chiều sâu, nhiều vấn đề mới mẻ được đặt ra nên trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức trách, những hạn chế thiếu sót trong mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên là khó tránh khỏi. Vì vậy, việc đẩy mạnh tự phê bình và phê bình để kịp thời ngăn chặn, tránh được những vấp váp, thiếu sót cho mỗi đảng viên và tổ chức cơ sở đảng là rất cần thiết. Muốn nâng cao chất lượng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình thì trước hết cần thực hiện đúng nền nếp, chế độ tự phê bình và phê bình theo Điều lệ Đảng, các văn bản, chỉ thị, hướng dẫn, nghị quyết của cấp trên quy định. Đặc biệt thực hiện tốt các quy định, kỷ luật của Đảng đã đề ra.

Cấp uỷ đảng phải gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình, thực sự là tấm gương sáng, không chốn tránh hoặc lợi dụng tự phê bình và phê bình để thực hiện động cơ cá nhân, cục bộ.  Đồng thời, cấp uỷ đảng cần phải đề cao trách nhiệm trong duy trì thực hiện nền nếp, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, chủ động lập kế hoạch và thực hiện nghiêm kế hoạch tự phê bình và phê bình trong phạm vi đơn vị mình.

Mỗi đảng viên cần tự giác thực hiện nghiêm túc các quy định về TPB và PB. Chủ động thực hiện quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức về mọi hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên mọi cấp. Phát huy vai trò gương mẫu, đề cao tính Đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình. Khắc phục tâm lý e ngại phê bình, né tránh trong tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình cấp trên.      

 

MỖI CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN LÀ MỘT CHIẾN SĨ TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG!

     Ngày nay, mạng xã hội như là một thứ gì đấy không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Khi cách mạng công nghệ bùng nổ, kéo theo những mặt tích cực thì cũng có những hạn chế nhất định. Đặc biệt, trong thời gian qua lợi dụng không giang mạng để đăng tải, xuyên tạc của một số cá nhân, đối tượng chống đối là một vấn đề cần quan tâm. Mỗi người dân đều là một người đọc tinh tế và lý trí đặc biệt là những cán bộ, đảng viên bởi họ chính là những người chiến sĩ chân chính trên mọi mặt trận.
     Tỷ lệ cán bộ, đảng viên sử dụng mạng xã hội là khá nhiều và đó cũng là nhu cầu bắt kịp xu thế của mỗi người. Hầu hết mọi người đều tập trung lan truyền những giá trị đẹp, những câu chuyện cuộc sống, củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước hay thể hiện quan điểm cá nhân về một vấn đề nào đó. Thì vẫn còn nhiều cá nhân thờ ơ, phất lờ đi những vấn đề mà xã hội đang quan tâm. Tôi thử hỏi rằng, ngay cả những cán bộ, đảng viên mà thế thì phải làm sao? Vậy thì vai trò của họ ở đâu trên không gian mạng này?
     Bên cạnh những cán bộ, đảng viên thường xuyên cập nhật những thông tin chính thống, chia sẽ thông tin và thể hiện nhiều quan điểm hợp lý. Thì nhiều người tư duy thấy đúng cũng không bảo vệ; thấy sai cũng không nêu ra quan điểm để chấn chỉnh. Và chính tư duy cá nhân ấy cũng được nhiều người áp dụng khi tham gia mạng xã hội. Lặng lẽ vào nhìn những thông tin không chính thống, ngồi nghiên cứu những dòng comment và thờ ơ, chẳng phản biện gì. Một thái độ dửng dưng, vô cảm đến lạ.
     Đã là cán bộ, đáng viên thì phải lên tiếng để bảo vệ cái đúng, chân lý. Ít ra mình cũng có rất nhiều kiến thức để bảo vệ lẽ phải. Xem, đọc xong mà vô cảm đến mức lặng lẽ cho qua, khác gì đã đồng tình, ủng hộ thông tin xấu đó rồi. Thiết nghĩ, mỗi cán bộ đảng viên phải là những chiến sĩ trên mặt trận này. Hãy là những đảng viên chân chính, tích cực trong xây dựng mặt trận đoàn kết toàn dân./.
Yêu nước ST.