Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản để phân biệt chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân với các đảng chính trị khác. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Tuy nhiên, lợi dụng những hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị,... tìm cách đả phá, kêu gọi Đảng ta từ bỏ nguyên tắc này, cổ súy tư tưởng đa nguyên, đa đảng.
Từ khi mô hình xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng sản rơi vào
thời kỳ khủng hoảng, suy thoái, đã xuất hiện nhiều ý kiến nghi ngờ, đòi xét lại
về nguồn gốc, bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Thậm chí họ
còn quy kết rằng, nguyên tắc này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất
bại của Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản cầm quyền khác. Lợi dụng vấn
đề đó, cùng những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị,... đã công khai đưa ra những quan
điểm sai trái và kêu gọi Đảng ta từ bỏ nguyên tắc này. Vì vậy, nhận diện và đấu
tranh, phản bác những quan điểm sai trái đó để bảo vệ nền tảng tư tưởng, nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của Đảng vừa là yêu cầu khách quan, vừa là trách nhiệm
của mỗi cán bộ, đảng viên; trong đó, tập trung vào các nhóm vấn đề sau:
Một là, nhóm
quan điểm sai trái về sự ra đời và giá trị thời đại của nguyên tắc tập trung
dân chủ. Với lý do thời C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895)
chưa có tên gọi nguyên tắc tập trung dân chủ, nên theo họ nguyên tắc tập trung
dân chủ không phải của chủ nghĩa Mác, mà do V.I.Lênin đặt ra (năm 1905) chỉ phù
hợp ở thời kỳ Đảng hoạt động bí mật, khi chưa giành được chính quyền hoặc khi
lãnh đạo chiến tranh cần có kỷ luật chặt chẽ, tập trung, thống nhất cao độ. Còn
trong điều kiện hòa bình, khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng đất nước, đòi
hỏi phải mở rộng dân chủ, phát huy tối đa sáng tạo của cá nhân thì nguyên tắc
tập trung dân chủ đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa.
Đây là sự suy luận hết
sức lố bịch! Bởi, họ đã cố tình bỏ qua cơ sở lịch sử của nguyên tắc và thực
chất chỉ là phụ họa cho luận điệu phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, chia
tách, đối lập chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin, gây nghi ngờ giá trị, hiệu quả
của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa gọi nguyên
tắc tổ chức của Đảng Cộng sản là tập trung dân chủ. Song, các tư liệu lịch sử
cho thấy, mặc dù chưa gọi tên cụ thể nhưng tư tưởng xây dựng một đảng vô sản
trên cơ sở những nội dung cốt lõi của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được các
ông thể hiện rõ trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản từ năm 1847. Và
được tiếp tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh Công nhân quốc tế” (Quốc tế
I) do chính C.Mác sáng lập vào năm 1864. Cụ thể, Điều lệ Liên đoàn quy định:
tất cả hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng; cơ quan lãnh đạo các cấp của Liên
đoàn từ chi bộ đến Đại hội Liên đoàn do bầu cử lập ra. “Các ủy viên ban chấp
hành khu bộ và Ban chấp hành trung ương được bầu hằng năm, có quyền được bầu
lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”. Điều lệ cũng
quy định, Liên đoàn là một tổ chức theo chế độ tập trung rất chặt chẽ, như:
Liên đoàn chỉ có một hệ thống tổ chức thống nhất; Đại hội Liên đoàn hằng năm là
cơ cấu tổ chức có vị trí, quyền lực cao nhất của Liên đoàn. Điều 5 của Điều lệ
Liên đoàn do chính C.Mác và Ph.Ăngghen trực tiếp tham gia soạn thảo quy định:
“Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban Chấp hành trung ương
và Đại hội”. Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn Liên đoàn; các khu bộ
của một nước hoặc một tỉnh phải phục tùng một tổng khu bộ; các tổng khu bộ phải
báo cáo công tác với cơ quan quyền lực tối cao là Đại hội, còn giữa các kỳ đại
hội thì báo cáo với Ban Chấp hành trung ương. Hội viên của Liên đoàn phải phục
tùng các nghị quyết của Liên đoàn; “không tham gia vào mọi tổ chức - tổ chức
chính trị hoặc tổ chức dân tộc - chống cộng sản”. Đến năm 1885, khi nói về cách
tổ chức của Liên đoàn, Ph.Ăngghen khẳng định: “Bản thân tổ chức cũng hoàn toàn
dân chủ, với những người lãnh đạo được bầu ra và luôn luôn có thể bị bãi miễn”.
Như vậy, với những quy định nêu trên cho thấy, cách tổ chức “hoàn toàn dân chủ”
mà Ph.Ăngghen nói tới chính là nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tế đó còn
chứng tỏ: đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ
là tư tưởng mà đã được vận dụng vào thực tiễn tổ chức, hoạt động của chính đảng
cách mạng của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin không chỉ kế
thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguyên tắc tập trung dân
chủ, đặt tên cho nguyên tắc này mà còn vận dụng mẫu mực, sáng tạo về cách thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực tiễn cách mạng. Theo V.I.Lênin:
“chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ
nghĩa, và mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ” và
“không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa
quan liêu và với lối rập khuôn máy móc”6. Từ thực tiễn phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và xây dựng Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, tại
Đại hội Đảng năm 1906, V.I.Lênin đề xuất và được Đại hội nhất trí đưa vào Điều
lệ nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Sự thực trên là cơ sở khoa học khẳng định:
chính C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho nguyên tắc tập trung
dân chủ từ năm 1847 và V.I.Lênin là người kế thừa, bổ sung và phát triển.
Là đội tiền phong của
giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản phải có tổ chức chặt chẽ, tập trung, thống
nhất, không thể là một tổ chức lỏng lẻo, vô chính phủ; là liên minh tự nguyện
của những người cùng chung chí hướng đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội -
một xã hội giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, dân chủ, công bằng và bảo vệ phẩm
giá con người; Đảng Cộng sản phải có tổ chức dân chủ mới phù hợp với bản chất
và mục đích đó. Bởi vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ nằm ngay trong bản chất
của Đảng Cộng sản, nên dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, lúc đấu tranh giành
chính quyền hay khi xây dựng đất nước, Đảng Cộng sản cũng phải được tổ chức và
hoạt động theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ khác ở phương pháp thực
hiện nội dung và phạm vi áp dụng do tình hình, nhiệm vụ cụ thể của Đảng trong
mỗi thời kỳ, xa rời nguyên tắc này là xa rời bản chất của Đảng dẫn đến tan rã
Đảng. Do đó, không thể nói nguyên tắc tập trung dân chủ đã “lỗi thời”, không
còn giá trị.
Hai là, nhóm quan điểm
sai trái về bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Họ cho
rằng tập trung và dân chủ là hai mặt đối lập, giống như lửa với nước, là hai
khái niệm “không thể dung hòa”, không thể kết hợp, do đó không thể có nguyên
tắc tập trung dân chủ. Cũng theo họ, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự sụp đổ
của mô hình xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị
mất quyền lãnh đạo xã hội là do thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ quá lâu
và họ “khuyên” Đảng ta từ bỏ nguyên tắc này “càng sớm, càng tốt”; đồng thời, họ
kêu gọi bỏ “chế độ thiểu số phục tùng đa số” thì mới thực sự có “dân chủ”,
“sáng tạo”, v.v.
Cần khẳng định rõ: đây
là luận điệu nhằm tầm thường hóa nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng với mưu đồ
phá hoại hòng làm cho Đảng ta từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc chia cắt
nguyên tắc vốn thống nhất, hoặc đem dân chủ đối lập với tập trung là không hiểu
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Với cách lập luận sai trái này, họ đã không
hiểu bản chất, hoặc cố tình lừa dối người khác để hạ bệ nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai
thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự lãnh
đạo được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể phát huy,
mở rộng được dân chủ và bảo đảm dân chủ thực chất. Phát triển dân chủ luôn gắn
liền với giữ vững và tăng cường tập trung, trên cơ sở đó, dân chủ càng phát
triển thì tập trung càng vững chắc. Dân chủ chỉ đối lập với tình trạng độc
đoán, chuyên quyền chứ không đối lập với tập trung; tập trung chỉ đối lập với
tình trạng tản mạn, tự do, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật chứ không đối lập
với dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan
liêu. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với
dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ.
Nguyên tắc tập trung
dân chủ là nguyên tắc nền tảng để xây dựng Đảng thành một tổ chức chiến đấu
chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa tạo nên sức mạnh tổng hợp
của tổ chức. Đây là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ, xuyên suốt quá trình xây dựng
tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức
tổ chức, phương thức, chế độ thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng; xác lập
các quy tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng và cũng là nguyên tắc
giữ vai trò chi phối các nguyên tắc khác của Đảng. Nó làm cho Đảng được xây
dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy được
tính chủ động, năng động và sáng tạo của cán bộ, đảng viên; bảo đảm cho Đảng
luôn là một tổ chức lãnh đạo, một tổ chức chiến đấu mà không phải là một câu
lạc bộ.
Sức mạnh của Đảng là sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; sự thống nhất đó
chỉ có thể giữ vững và biến thành sức mạnh vật chất khi được bảo đảm bằng sự
thống nhất về mặt tổ chức thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập
trung dân chủ là cơ sở bảo đảm cho Đảng thực sự là một tổ chức chặt chẽ, đồng
bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ vừa phát huy được tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ,
đảng viên, tổ chức đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức mạnh vật chất của
toàn Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng ta tuy nhiều người,
nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.
Ba là, nhóm
quy kết tình trạng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là “lỗi từ gốc” do độc
đảng; Việt Nam muốn dân chủ, tiến bộ thì “phải chấm dứt sự độc quyền lãnh đạo
của Đảng Cộng sản”, từ đó cổ súy tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Đây là âm mưu hết sức thâm độc nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch, phản động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, xóa bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa; kêu gọi đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập. Thực tiễn cho thấy: dân chủ ở một quốc gia không phụ thuộc vào
việc ở đó có một hay nhiều đảng mà phụ thuộc vào bản chất chính của đảng cầm
quyền và mức độ dân chủ không tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng các đảng
chính trị. Chẳng hạn, Ácmênia có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23
đảng,... nhưng không thể kết luận Ácmênia dân chủ hơn Hà Lan, Na Uy. Hiện nay,
trên thế giới có khoảng hơn 30 quốc gia theo chế độ một đảng, như: Ăngtigoa,
Ảrập Xêút, Baren, Bênanh, Bôxnia, Cuba, Cômô, Gana, Bờ Biển Ngà, Lào, Libi,
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ, Namibia, Ruanđa, Xômali, Tôgô,
Tôbagô,... và Việt Nam. Hơn nữa, ngay trong chủ nghĩa tư bản, có thời kỳ một số
quốc gia và vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền vẫn bảo đảm
dân chủ và phát triển mạnh mẽ. Ví dụ: cho đến cuối những năm 1980, Singapore,
Hàn Quốc, Đài Loan,... vẫn theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền, nhưng vẫn
vươn lên phát triển mạnh mẽ. Điều này cho thấy hai vấn đề: (1). Chế độ chính trị do một đảng cầm
quyền không phải là đặc điểm chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; (2). Không
phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ.
Trong điều kiện ở Việt
Nam, một đảng lãnh đạo, đó là đảng của giai cấp công nhân, lấy lợi ích giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc làm mục tiêu xuyên suốt và luôn
xây dựng, chỉnh đốn để đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì tính chất dân
chủ, tiến bộ phụ thuộc vào bản chất, mục đích phục vụ chứ không phụ thuộc số
lượng bao nhiêu đảng. Năm 2010, đồng chí Nguyễn Phú Trọng (khi đó là Chủ tịch
Quốc hội) đã trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế rằng: “Không phải có nhiều đảng
thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện
lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân
dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để
ngày càng phát triển đi lên hay không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất”.
Từ những luận giải
trên, có thể khẳng định: nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay vẫn còn nguyên
giá trị, không “lỗi thời”, các đảng cộng sản và mỗi đảng viên cộng sản không
được phép xa rời, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là vấn đề sống còn
của Đảng. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa thực hiện
nghiêm nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cơ sở để đấu
tranh với các quan điểm sai trái, thù địch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét