Thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, các
thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau,
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, liên tục phát tán những thông tin xấu, độc, xuyên
tạc, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, chúng lợi dụng những vụ việc liên quan
đến Quân đội để tung những thông tin sai sự thật, xuyên tạc phẩm chất truyền
thống của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Những năm qua, âm mưu,
hoạt động lợi dụng một số tổ chức “xã hội dân sự” kiểu phương Tây chống phá
Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với Việt Nam
tập trung vào các hướng sau đây:
Thứ nhất là, đề cao và
nhấn mạnh vai trò “phản biện xã hội” của các tổ chức “xã hội dân sự”, triệt để
khai thác tính đa dạng về thành phần, mục tiêu thành lập. lợi ích của tổ chức
và các thành viên, đa nguyên về tư tưởng, chính kiến để hướng lái hoạt động của
các tổ chức “xã hội dân sự” đã hình thành hoặc chuẩn bị hình thành vào các
khuynh hướng tư tưởng chính trị khác nhau, từ đa nguyên về tư tưởng, dẫn tới đa
nguyên về chính trị và mục đích cuối cùng là đối lập về tư tưởng chính trị. Vì
vậy, do tác động, hướng lái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính
trị, bản chất đích thực của một số tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam mất dần,
thay thế vào đó là cho ra đời các tổ chức “xã hội dân sự” kiểu phương Tây như ở
Đông Âu và Liên Xô trước đây.
Thứ hai là, thúc đẩy
xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Một số tổ chức
“xã hội dân sự” mang tính giai cấp rõ rệt, những người sáng lập không đứng trên
lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thay vì đặt mục tiêu
hoạt động nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã hướng lái tổ chức phục
vụ lợi ích của một số tầng lớp, một nhóm người, đối lập với lợi ích của dân
tộc, quốc gia. Vì vậy, họ luôn tìm cách tách hoạt động của tổ chức khỏi sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và các cơ quan chức năng. Tổ chức “xã hội
dân sự” của họ chỉ là vỏ bọc, thực chất đó là những tổ chức mang màu sắc chính
trị, ẩn chứa trong mục đích thành lập và hoạt động là động cơ và mục đích chính
trị. Về lâu dài, đây sẽ là diễn đàn đấu tranh giai cấp trên mọi phương diện:
chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế… Những người sáng lập một số tổ chức “xã
hội dân sự” thường là những người các thế lực thù địch gọi là “bất đồng chính
kiến”; những người cơ hội chính trị, có quan điểm trái chiều, đối lập với đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công khai yêu cầu
Đảng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo, xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; đòi đổi tên
Đảng, tên nước, từ bỏ con đường xây dựng CNXH mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã lựa chọn.
Thứ ba là, lợi dụng
chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để hướng lái xã hội dân sự vào các hoạt động
trái với tôn chỉ, mục đích. Một số tổ chức “xã hội dân sự” có khuynh hướng đi
theo mục tiêu chính trị, đề cao các “giá trị” tự do, dân chủ, nhân quyền của
chủ nghĩa tư bản. Những người sáng lập tìm cách tuyên truyền, tác động, lôi kéo
một số trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, luật sư tham gia, mở rộng
phạm vi, không gian hoạt động trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, phụ họa và
tiếp tay cho các thế lực bên ngoài chống phá Việt Nam. Một số người công khai
viết, tán phát tài liệu, sách, sử dụng các trang mạng truyền bá những quan
điểm, tư tưởng trái chiều, tạo diễn đàn đối lập với Đảng, Nhà nước. Họ triệt để
lợi dụng những sai sót, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội, những chủ
trương, chính sách chưa hợp lòng dân, các vấn đề phức tạp nổi lên về an ninh,
trật tự để phê phán đường lối của Đảng, đổ lỗi, quy kết trách nhiệm cho Đảng ta
trong các vấn đề hạn chế, tồn tại của đất nước, nhất là trong phát triển kinh
tế - xã hội, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biên
giới, biển đảo… Nhiều bài viết, tài liệu công khai cổ vũ, đề cao mô hình “xã
hội dân sự” kiểu phương Tây và yêu cầu, hô hào, tác động áp dụng mô hình này
vào xã hội Việt Nam để mở rộng diễn đàn dân chủ, phát huy đa nguyên… Từ đa
nguyên chính kiến trong “phản biện chính sách”, “phản biện xã hội” dưới danh
nghĩa ủng hộ quan điểm mở rộng dân chủ ở cơ sở, đảm bảo quyền con người để
tuyên truyền, vận động có thêm lực lượng, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng,
các tổ chức phi chính phủ tham gia, từng bước hình thành các “phong trào”, “mặt
trận” dân chủ, trở thành lực lượng đối trọng, đối lập với Đảng và Nhà nước ta
trong tương lai.
Thứ tư là, các thế lực
thù địch bên ngoài gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho
những người “bất đồng chính kiến” trong nước, những người bất mãn trong một bộ
phận văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư… hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”,
hình thành “xã hội dân sự” đối lập theo mô hình của phương Tây, các nước Đông
Âu và Liên Xô trước khi sụp đổ, tan rã.
Trong các nhóm đã được
thành lập, có những hội, nhóm, câu lạc bộ, viện nghiên cứu thành phần tham gia
khá phức tạp. Được sự cổ vũ, khích lệ của các thế lực chống CNXH ở bên ngoài,
họ thường xuyên gặp gỡ bàn bạc, biên soạn, phát tán tài liệu có nội dung phê
phán đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Một số
tổ chức thông qua hoạt động nghiên cứu, phản biện, tư vấn để truyền bá quan
điểm, tư tưởng sai trái, phê phán đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
cổ súy cho một phong trào “xã hội dân sự” độc lập. Họ còn tổ chức các cuộc tọa
đàm, hội thảo, trả lời phỏng vấn, đăng tải trên trang mạng các bài viết phủ
nhận thành quả cách mạng, yêu cầu Đảng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo; tổ chức dịch,
phát hành hàng chục đầu sách của các tác giả nước ngoài có nội dung nhạy cảm về
chính trị, đề cập đến sự tan rã của Liên Xô, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu như những tài liệu phổ biến kinh nghiệm biểu tình, lật đổ, tiến
hành “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu”, cổ vũ cho “xã hội dân sự” đối lập…
Vốn xuất thân
là nhà giáo dạy lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trở thành một trong những
nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất nhất lịch sử Việt Nam và thế giới. Tên tuổi của
Đại tướng không chỉ gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ, với học thuyết
"Chiến tranh nhân dân”, mà còn là tấm gương sáng ngời suốt đời làm theo lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Làm cách mạng là phải Dĩ công vi thượng.
Suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng, Đại tướng đã có công lao to lớn đối với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, được nhân dân yêu mến,
kính trọng, gọi với cái tên thân mật “Đại tướng của nhân dân”, “Đại
tướng của hòa bình”, được thế giới ngưỡng mộ và ví như “Ngọn núi lửa
phủ đầy tuyết trắng”. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng vĩ
đại của Đại tướng đã để lại cho quân và dân ta, cũng như toàn thế giới
nhiều bài học quý giá. Song bài học quý giá nhất đó là: Tấm gương
suốt đời làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Làm cách mạng
là phải Dĩ công vi thượng”; Lời dạy của Bác “Dĩ công vi thượng” đã đi theo
Đại tướng suốt cả cuộc đời, vun đắp nên một biểu tượng sáng ngời trong dòng
chảy của lịch sử dân tộc Việt Nam.
"Dĩ công vi thượng", là câu nói,
cũng là lời tâm sự của Bác Hồ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc hai người gặp
nhau lần thứ hai và nằm chung giường trong hang Pắc Bó, vào những ngày đầu Xuân
Tân Tỵ, năm 1941.Đại tướng kể lại “Nằm
bên Bác trên một chiếc giường lát bằng cành cây, tôi lắng nghe tiếng Người nói
nhỏ nhẹ đều đều, giọng xứ Nghệ ấm áp. Bác và tôi chuyện trò đến quá nửa đêm,
bàn về vấn đề chuẩn bị phát động võ trang khởi nghĩa. Bỗng nhiên Bác dừng lại
nói một câu: “Chú Văn ạ, làm cách mạng là phải “Dĩ công vi thượng”. Bác chỉ nói
ngắn bốn chữ như vậy thôi, mà tôi nhớ mãi và phấn đấu làm theo lời Bác suốt đời”.
Sau này, Đại
tướng tâm sự với mọi người: “Lời nói ấy của Bác vẫn còn văng vẳng bên tai
tôi”, “Dĩ công vi thượng, là suốt đời vì nước vì dân, không mảy may có chút suy
nghĩ nào khác, là đạo đức cao cả nhất của người cách mạng, Tôi nhớ mãi câu này
của Bác và phấn đấu suốt đời để làm theo”. Đại tướng phân tích:“Dĩ công vi
thượng” là cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, tất
cả vì nước, vì dân, đặt lợi ích của Đảng, của dân, của nước lên trên hết và trước
hết, đem lòng chí công vô tư mà đối xử với người, với việc, không mảy may có
chút chủ nghĩa cá nhân.
Trong hành
trình hơn 80 năm hoạt động cách mạng, Đại tướng đã phấn đấu suốt đời để làm
theo lời dạy của Bác, luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết và
trước hết, cả một đời vì nước, vì dân. Đại tướng tâm sự “Vị tướng có công lao lớn
đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả, tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những
người lính của mình”. Đại tướng còn lấy ngay tấm gương của bản thân
mình để nhắc nhở mọi người làm theo lời Bác dạy về “Dĩ công vi
thượng”, người nói “Tôi đã cống hiến một cách tự nguyện, đã thanh thản trong mọi
thử thách, thế là tôi sống vui, sống lâu… Như vậy, tôi đã làm theo lời dạy và
noi theo tấm gương của Bác Hồ là “Dĩ công vi thượng”.
Noi gương Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tấm gương suốt đời
“Dĩ công vi thượng”, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nguyện sống, chiến đấu,
lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, góp phần xây dựng nước Việt Nam
“Hùng cường và thịnh vượng”.
Cần khẳng định
ngay rằng, mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Quân đội, làm cho Quân đội nhân dân Việt
Nam xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về
chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng,
Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những thủ đoạn đó thật tinh vi và thâm hiểm, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn.
Từ góc độ lý
luận, trước hết, cần bắt đầu từ luận điểm “Chiến tranh là sự kế tục của chính
trị”, mà quân đội xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh (tiến công hoặc
phòng ngự). Đây là luận điểm được Clau-dơ-vit (1780-1831) - nhà lý luận quân sự
tư sản nổi tiếng của nước Phổ đã khái quát. Luận điểm này được thừa nhận rộng
rãi trong cả khoa học quân sự tư sản lẫn khoa học quân sự vô sản, nên không thể
bác bỏ. Chính V.I.Lênin cũng đánh giá cao luận điểm này. Một khi đã thừa nhận
“chiến tranh là sự kế tục của chính trị”, thì tất yếu phải thừa nhận: không bao
giờ và không ở đâu có thứ quân đội “trung lập về chính trị”, hoặc “không dính đến
chính trị”, bởi bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có mục tiêu chính trị, phản ảnh
lập trường chính trị của các bên tham chiến; và quân đội của các bên tham chiến
đều được lực lượng chính trị cầm quyền tổ chức, giáo dục để thực hiện mục tiêu
chính trị đó của cuộc chiến tranh.
Thứ hai, quân
đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng
nó; bởi quân đội là một thành phần của nhà nước, là công cụ bạo lực vũ trang của
nhà nước để bảo vệ thành quả mà lực lượng chính trị cầm quyền có được qua các
cuộc đấu tranh giành quyền lực.
Lịch sử xuất
hiện quân đội gắn liền với sự ra đời của nhà nước; mà nhà nước là sản phẩm tất
yếu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ nhà nước nào cũng có tính chất giai
cấp. Ngày nay, ở các nước theo thể chế chính trị tư bản, với chế độ đa đảng, mặc
dù có hiện tượng các đảng phái thay nhau cầm quyền, nhưng thực chất họ vẫn duy
trì sự nhất nguyên về chính trị. Đó là thứ chính trị của giai cấp tư sản, bởi đảng
chính trị nào cầm quyền cũng chỉ là sự đại diện cho các nhóm và tầng lớp khác
nhau của giai cấp tư sản; nên chính phủ do các đảng chính trị cầm quyền chi phối
vẫn đều phục tùng quyền lợi và bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản là chủ
yếu, mặc dù vẫn phải thực thi chức năng công quyền - một trong hai chức năng cơ
bản (chức năng giai cấp và chức năng công quyền) của bất cứ nhà nước nào. Theo
đó, với tư cách là các cơ quan chức năng của nhà nước, quân đội được lập ra để
bảo vệ thể chế chính trị của giai cấp cầm quyền, không thể không mang bản chất
giai cấp của nhà nước đã tổ chức, quản lý và nuôi dưỡng nó. Những người cổ súy
cho quan điểm “quân đội phải trung lập về chính trị” đã không hiểu, hay cố tình
không hiểu rằng: nói đến “chính trị” của một tổ chức, một lực lượng, là nói đến
tính giai cấp mà tổ chức, lực lượng đó quán triệt và thực hiện trong thực tiễn
xây dựng về mặt tư tưởng, tổ chức và thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Với tư cách là
một bộ phận của nhà nước, quân đội của bất cứ xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào
đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền; đồng thời, các lực lượng chính trị
cầm quyền bao giờ cũng tìm mọi cách để nắm chắc quân đội thông qua nhiều biện
pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách. Do vậy, ngay từ khi xuất hiện,
quân đội đã “thấm đẫm” thứ chính trị của nhà nước và giai cấp nắm giữ quyền lực
trong xã hội; không có và không thể có thứ quân đội “trung lập về chính trị”,
hay “đứng ngoài chính trị” như giai cấp tư sản thường tuyên truyền, nhằm che giấu
bản chất giai cấp của quân đội các nước tư bản.
Phê phán sự che giấu bản chất giai cấp của quân đội
tư sản. V.I.Lênin đã thẳng thừng vạch rõ: “Không lôi kéo quân đội vào chính trị
- đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của
chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào
chính trị phản động”(2). Công khai bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ
trang cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Vận dụng sáng
tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930,
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - đã
yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”(3) và trong suốt quá trình tổ chức
xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có
sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta
lãnh đạo và giáo dục”(4); do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ
nghĩa cho toàn quân”(5).
Từ góc độ thực
tiễn của thế giới cũng cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc
gia nào “trung lập về chính trị” hay “đứng ngoài chính trị”; bởi đây là công cụ
bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm
quyền duy trì. Không khó để nhận thấy sự tham chính của quân đội nhiều nước,
khi người ta vẫn chứng kiến các vụ đảo chính quân sự ở nước này, nước khác, nhất
là ở châu Á, châu Phi trong những năm gần đây. Ở các nước Mỹ, Anh, Pháp... quân
đội không chỉ được dùng vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc,
mà còn được dùng vào các hoạt động xâm lược, lật đổ, can thiệp quân sự vào các
quốc gia có chủ quyền khác, nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở đây các chính
phủ thân phương Tây; thực chất là để phục vụ đường lối đối nội và đối ngoại của
các đảng chính trị cầm quyền, mà suy cho cùng là phục vụ lợi ích của các thế lực
tư bản độc quyền đứng đằng sau các chính phủ đương nhiệm. Chỉ tính từ năm 1990
đến nay, quân đội Mỹ đã liên tục can dự vào đời sống chính trị của các nước và
các khu vực, kể cả tiến hành chiến tranh, như: ở vùng Vịnh Pec-xích năm 1991,
Nam Tư năm 1999, Áp-ga-ni-xtan năm 2001, I-rắc năm 2003, Li Bi năm 2011, v.v.
Nhìn vào thực
tiễn lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chống lại ách nô
dịch của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ cũng thấy rất rõ quân đội
các nước này không bao giờ “trung lập về chính trị”, nhất là khi các quân nhân
của họ được giáo dục “sứ mệnh” đến Việt Nam để “ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng
sản lan ra toàn khu vực Đông Nam Á” (!).
Cũng cần thấy
rằng, ở các nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, bất cứ đảng chính trị
nào khi cầm quyền cũng tìm mọi cách để nắm quân đội; bởi khi nắm được quân đội,
thì việc duy trì quyền lực của đảng đó sẽ thuận lợi hơn. Tuy vậy, khi mà sự
tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng
chính trị, thì thường xuất hiện lời kêu gọi “quân đội trung lập về chính trị”,
nhưng trong thực tế, các đảng đều tìm sự hậu thuẫn từ quân đội.
Thực tiễn lịch
sử của cách mạng Việt Nam cũng chứng minh: Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ
các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam
tổ chức, lãnh đạo và giáo dục để giành và giữ chính quyền cách mạng; nên bản
thân nó đã là một lực lượng chính trị.
78 năm xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng minh rõ một
thực tiễn lịch sử: Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối
với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự thống nhất
về mục tiêu chiến đấu của Quân đội với mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trái với sự
hô hào “quân đội phải trung lập về chính trị”, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo
xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng
hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực hiện chiến đấu thắng lợi.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm lo xây dựng
Quân đội vững về chính trị. Người căn dặn: “Một quân đội văn hay võ giỏi, là một
quân đội vô địch”(6) và “Muốn cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng hơn nữa
thì phải săn sóc đời sống vật chất của họ, nâng cao trình độ chiến thuật và kỹ
thuật của họ, nhất là giáo dục chính trị, làm cho có lập trường vững chắc, lập
trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”(7). Trong lần về
thăm Trường Chính trị trung cấp quân đội (nay là Học viện Chính trị) ngày
25/10/1951, Người nhắc nhở các học viên: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính
trị, quân sự. Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây
không có gốc, vô dụng lại có hại”(8).
Xây dựng Quân
đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm
lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và
tính dân tộc của Quân đội ta là một bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt
Nam và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở một nước có nền kinh
tế chậm phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định
tính đúng đắn của bài học đó. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân đã được tổ chức theo mô hình có chi bộ Đảng lãnh đạo;
bên cạnh người đội trưởng, có một cán bộ chính trị chuyên làm công tác chính trị
theo đường lối của Đảng.
Nhờ chăm lo
xây dựng vững mạnh về chính trị, mà trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng,
Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách
mạng, xứng đáng với lời tuyên dương (năm 1964) của Bác: “Quân đội ta trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”(9).
Đấu tranh vạch trần sự lừa bịp của luận điểm “Quân đội phải
trung lập về chính trị” và tăng cường các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh
về chính trị là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trước hết
là sự nỗ lực của bản thân cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta.
Từ cuối tháng 6/2022, báo cáo
của Nghị viện Châu Âu về công tác hỗ trợ những nhà hoạt động nhân quyền trên
toàn thế giới đưa những thông tin sai lệch, phản ánh không đúng thực tế về thành
tựu, thực tế tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Các thế lực xấu tận dụng
việc này để khuếch trương, bịa đặt, xuyên tạc chống phá, cho rằng Việt Nam “kìm
kẹp” các “nhà hoạt động” dân chủ, nhân quyền; cùng với đó, chúng tung tin xuyên
tạc kích động chia rẽ, kỳ thị dân tộc; truyền bá tư tưởng “ly khai tự trị” ở
các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, kích động khiếu kiện,
lợi dụng những vấn đề dân sinh phức tạp, nhạy cảm để lôi kéo biểu tình, tạo
dựng ngọn cờ, bạo loạn lật đổ; ra sức “quốc tế hóa”, vu cáo, xuyên tạc Việt Nam
có kỳ thị dân tộc, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Trong khi đó, vẫn còn một bộ
phận người dân còn nhận thức mơ hồ, phiến diện về dân chủ, thậm chí có ý kiến
còn nhầm lẫn, lệch lạc khi cho rằng dân chủ của chế độ tư bản là đỉnh cao, là
khuôn mẫu phải noi theo!.
Việt Nam chúng ta là một quốc
gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em với những đặc điểm văn hóa đa dạng bản
sắc (Tày, Thái, Nùng, Ê đê, Pu Péo, Rơ-măm, Brâu…), trong đó dân tộc Kinh chiếm
tỷ lệ lớn nhất, cư trú phân tán và xen kẽ nhau. Bảo vệ và thúc đẩy phát triển
bình đẳng dân tộc, phát triển quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà
nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá
trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước, nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời
sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền
và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo
vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực
tiễn. Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ
các quy định của pháp luật. Bất cứ ai vi phạm pháp luật, vì bất cứ lý do gì,
đều phải bị xét xử nghiêm minh; bảo đảm sự thụ hưởng đầy đủ các quyền và tự do
của mỗi người dân trong một xã hội an toàn, trật tự và công bằng. Không ai bị
bắt giữ, xét xử vì thực hiện các quyền con người một cách chính đáng. Việt Nam
đã ban hành nhiều luật bảo đảm phát huy trí tuệ, quyền dân chủ (như Luật trưng
cầu dân ý, các luật khác). Mới đây, tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XV đã góp ý
cho Dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương
“thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai
trò chủ thể của nhân dân”, góp phần đẩy mạnh hiệu quả và chi tiết hóa Chỉ thị
số 30-CT/TW ngày 8/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Bên cạnh những kết quả, thành
tựu về phát huy dân chủ, kỷ cương, tại nhiều diễn đàn và gần đây nhất là Hội
nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII, Đảng
cũng đã thẳng thắn chỉ ra, tại các cơ quan công quyền, một số cán bộ, đảng viên
do không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ và còn tình trạng thiếu
dân chủ trong Ðảng kiểu phong cách lãnh đạo, quản lý chuyên quyền, độc đoán,
lạm quyền, bao biện, gia trưởng… làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Ðảng. Còn tình trạng tham ô, tham nhũng, sự vi phạm dân chủ khi của cải
của nhân dân, của tập thể đã bị một số cá nhân có chức quyền chiếm đoạt vẫn có
nguy cơ gia tăng với nhiều mức độ khác nhau. Việc phát huy vai trò của nhân dân
tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Ðảng, chính quyền, hoặc bàn
và quyết định các vấn đề của địa phương ở một số nơi còn hạn chế… Còn tình trạng
dân chủ không gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Việc xây dựng một số văn bản pháp
luật, đề án, dự án quan trọng chưa thực sự hiệu quả, làm cho chất lượng văn bản
pháp luật chưa cao, thậm chí có những dự án, quy định gây bức xúc dư luận, làm
suy giảm niềm tin của nhân dân.
Nắm bắt thực trạng đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên chú trọng lãnh đạo thực hiện dân chủ, bảo đảm
nhân quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở thực sự có trình độ, năng lực, trong
sạch về đạo đức, lối sống, đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân;
phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm của người đứng đầu, của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hành dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở
mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Kiên quyết xử lý những biểu hiện suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật Ðảng, vi phạm quy chế
dân chủ, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân; phát huy hơn nữa quyền làm chủ của
nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước và chế độ. Kiểm
tra, giám sát chặt chẽ và thường xuyên việc thực hiện dân chủ ở địa phương, cơ
sở, khách quan, công tâm, không né tránh, bao che, đổ lỗi, tập trung vào những
vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề bức xúc dư luận quan tâm… góp phần
ngăn chặn những vi phạm, hạn chế trong thực hành dân chủ, nhân quyền.
Trong thời kỳ của sự bùng nổ thông tin trên Internet và mạng xã
hội, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi,
trắng trợ, với chiêu bài “vừa ăn cướp vừa la làng”, chúng không thay đổi mục tiêu
chống phá, không ngừng xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc, phát triển
bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, bịa đặt và kích động kỳ thị dân tộc, bịa
đặt vu cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền” khi xử lý những đối tượng vi phạm pháp
luật. Nhưng chúng đã và sẽ luôn thất bại, bởi chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
đoàn kết của dân tộc Việt Nam là một thứ văn hóa thâm sâu từ nghìn năm lịch sử,
không gì có thể chia rẽ hay phá hoại được. Nhiều người dân đã ngày càng hiểu rõ
hơn các thế lực xấu và các thông tin xuyên tạc, âm mưu chống phá; ngày càng
nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường
dân chủ, thành tựu nhân quyền, không gian thông tin an toàn, lành mạnh…
Hiện nay, ở nước ta, đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng phát động, lãnh đạo thực sự “đã trở
thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; đồng thời bác bỏ luận điệu sai trái của các
thế lực thù địch, phản động, chống đối.
Nhìn lại chặng đường 10
năm kể từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và 2
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, mặc dù phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự nỗ lực, chung sức, đồng lòng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
đã “đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần củng cố, nâng cao ý chí, niềm
tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đất
nước ta ngày càng giàu mạnh, ngày càng phát triển, có vị thế xứng đáng trên
trường quốc tế”.
Chúng ta đều rõ, tham
nhũng được coi là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, là một trong những nguy
cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Ở thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng
tồn tại tham nhũng, song không thể xóa bỏ nhanh chóng trong một thời gian ngắn
mà cần phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, bền bỉ, thường xuyên. Gần đây, lợi
dụng việc Đảng ta đẩy mạnh công cuộc chống tham nhũng, xử lý hình sự một số cán
bộ cấp cao của Đảng, có quan điểm cho rằng, nếu “quá tập trung vào chống tham
nhũng sẽ làm “nhụt chí,” “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, làm “chậm”
sự phát triển đất nước”. Đây là biểu hiện của sự nhận thức nông cạn, thiếu suy
nghĩ chín chắn. Bởi tham nhũng thực sự là một nguy cơ, vấn nạn, nếu không được
ngăn chặn, loại bỏ kịp thời sẽ làm thiệt hại cho nền kinh tế, phá vỡ chiến lược
và kế hoạch phát triển, gây thiệt hại vật chất rất lớn cho Nhà nước và người
dân; làm suy thoái đạo đức, lối sống trong hàng ngũ lãnh đạo, gây ra sự bất
bình, bức xúc trong dư luận xã hội và nghiêm trọng hơn là làm xói mòn, suy giảm
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, gián tiếp tiếp tay cho những
thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Có thể nói, tham nhũng như
một loại dịch bệnh nguy hiểm có thể phá vỡ bất kỳ thể chế chính trị nào. Một
đảng cầm quyền còn để xảy ra tham nhũng thì nguy cơ đánh mất quyền lực là hiện
hữu. Đây là bài học xương máu đã được lịch sử đúc rút, kể cả những nước đã từng
là thành trì của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng
là một tất yếu, là vấn đề sinh tử, sống còn, cấp bách của bất kỳ một đảng cầm
quyền nào nếu không muốn từ bỏ vị trí lãnh đạo của mình. Với tinh thần ấy, đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực càng không phải là “đấu tranh phe cánh”
hay “đấu đá nội bộ” như một số người xuyên tạc, mà nhằm: “góp phần quan trọng
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc
phòng, an ninh và đối ngoại, đặc biệt là góp phần lấy lại và củng cố niềm tin
của nhân dân, bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống
đối…”.
Như vậy, mục đích chống
tham nhũng, tiêu cực, thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên là rất rõ
ràng. Bởi tham nhũng thường diễn ra ở những người có chức, có quyền, do tha hóa
quyền lực mà gây tổn hại nhiều mặt đến đời sống xã hội, thậm chí vi phạm quyền
con người. Vì vậy, thái độ trong chống tham nhũng là phải “thật kiên quyết,
không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt, cụ thể, hiệu quả”.
Để công tác phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực ngày càng triệt để, hiệu quả, trong thời gian tới, trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên
cơ sở truyền thống văn hóa của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của nước ngoài, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cần phải thực hiện
đồng bộ với nhiều giải pháp.
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công
tác giáo dục, tuyên truyền, sâu rộng các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải
pháp, quy định của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; về sự
nguy hại của tham nhũng, tiêu cực. Thúc đẩy sự tự giác, thống nhất cao về nhận
thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực. Nêu cao tinh thần gương mẫu của người đứng đầu cấp uỷ, cơ
quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kiên trì, thường xuyên giáo dục, rèn luyện
đức tính liêm khiết; trung thực. Xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng
phí trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tư tưởng này cần phải được
quán triệt, phổ biến rộng rãi đến mọi cấp, mọi ngành và toàn thể nhân dân, tạo
bước chuyển biến tích cực, căn bản về nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, là cơ sở cho sự thống nhất trong hành động.
Hai là, gắn công tác phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực với việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; gắn
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chống suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến,” “tự chuyển hoá” trong
nội bộ; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ
làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có bản lĩnh vững vàng, có dũng
khí đấu tranh; phải trung thực, liêm chính, “chí công vô tư,” thực sự là “thanh
bảo kiếm” sắc bén, là những cán bộ “rường cột” của Đảng và Nhà nước, những “Bao
Công” của thời đại ngày nay. Cán bộ phòng, chống tham nhũng cần “nêu cao tinh
thần trách nhiệm trước nhân dân và đất nước, gương mẫu, đi đầu trong lãnh đạo,
chỉ đạo, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực”. Đồng thời, việc kiểm soát quyền lực và thực hành liêm chính, trước
hết phải được tiến hành có hiệu quả trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng.
Phải chống tham nhũng trước hết trong cơ quan chống tham nhũng. Bên cạnh đó,
cần có chính sách đãi ngộ hợp lý, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nỗ lực phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công
việc.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa
tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những
hành vi tham nhũng, tiêu cực, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can
thiệp, cản trở việc xử lý tham nhũng, tiêu cực; nghiêm túc thực hiện phương
châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và sử dụng đồng bộ các biện pháp
chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự. Chỉ có tiến hành
triệt để, kiên quyết, đồng bộ với nhiều giải pháp thì công tác phòng, chống
tham nhũng mới đạt kết quả cuối cùng và đảm bảo tính răn đe trong thực tế.
Năm là, tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế-xã hội và
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín
những “khoảng trống,” “kẽ hở” để “không thể tham nhũng, tiêu cực”. Đây là giải
pháp rất căn cơ nhằm hình thành những cơ chế, thể chế để cán bộ không thể tham
nhũng, như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “phải xây dựng cho được một cơ chế
phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng””; “một cơ chế răn đe, trừng trị
nghiêm khắc để “không dám tham nhũng”; và một cơ chế bảo đảm để “không cần tham
nhũng”[12]. Đây là nhiệm vụ bức thiết, cần sớm được đầu tư, hoàn thiện để
công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sớm đi vào chiều sâu, hiệu quả.
Sáu là, tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kiểm tra, giám sát và
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Mặt khác, cần tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử một cách hiệu quả,
đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạc. Phát hiện sớm, xử lý nghiêm các
vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng góp
phần khắc phục, hạn chế hậu quả của tham nhũng, đồng thời thể hiện tính răn đe
của pháp luật. Xử lý kịp thời và thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có
biểu hiện xách nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, tạo
sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực.
Bảy là, tiếp tục hoàn thiện và
thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm soát có hiệu quả tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, thể
chế, đảm bảo công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình là điều kiện
đầu tiên để kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn,
không bị “tha hoá”, lạm dụng. Mặt khác, cần có các biện pháp để công dân thực hiện
đầy đủ quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật để có ý kiến phản
hồi chính xác, kịp thời. Đồng thời, phát huy vai trò giám sát việc thực thi
quyền lực thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; thanh tra, kiểm toán
của Nhà nước; giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử, của cơ quan tư
pháp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, nhân dân và xã hội.
Tám là, cần xây dựng cơ chế bảo
vệ, khen thưởng, động viên kịp thời những người làm báo tích cực, dũng cảm phát
giác, đấu tranh chống tham nhũng; đồng thời kiên quyết vạch trần, phê phán, bác
bỏ các luận điệu xuyên tạc, lợi dụng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để kích
động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Xử lý nghiêm việc đưa tin sai sự
thật, vu cáo, bịa đặt, gây hậu quả xấu. Tăng cường phối hợp, kịp thời cung cấp
thông tin, định hướng tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng; đồng thời chú
trọng thông tin, tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt; khắc phục tình
trạng thông tin một chiều, thông tin không chính xác, mang tính kích động, gây
hoang mang.
Có thể nói, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân, chúng
ta tin tưởng rằng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần
“Cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cái cây” như Bác Hồ đã từng chỉ dạy,
sẽ không những không làm ảnh hưởng mà còn tạo sinh khí mới, quyết tâm cao, hành
động mạnh mẽ để đánh thắng “giặc nội xâm” và Đảng ngày càng vững vàng, bản
lĩnh, tiếp tục lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta giành thắng lợi trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố niềm tin yêu của nhân dân đối với
Đảng, với chế độ.
Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người luôn coi đạo đức là “gốc của người cách mạng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức
của người cán bộ, đảng viên được biểu hiện cụ thể ở các nội dung, như trung với
nước, trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những nội dung của đạo đức
cách mạng có mối quan hệ biện chứng với nhau, chỉ cần thiếu một nội dung thì
người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân
dân giao phó.
Hiện nay, trước
những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế, sự chống phá của các thế lực thù địch, sự cám dỗ của lợi ích vật chất, cùng
với sự buông lỏng trong quản lý, kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy các cấp
và việc thiếu ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên, đã làm cho một bộ phận
không nhỏ đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ các cương vị chủ chốt, là
lãnh đạo, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị, thậm chí có cả những đảng viên là cán
bộ cấp cao, là tướng lĩnh có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng,
ích kỷ, chạy theo danh lợi cá nhân, cục bộ, lãng phí..., dẫn đến vi phạm phải
xử lý kỷ luật. Bên cạnh đó, do tính chất đặc thù của yêu cầu nhiệm vụ, phải
thường xuyên công tác xa gia đình, điều kiện sống, sinh hoạt gặp nhiều khó
khăn, khắc nghiệt, gian khổ, thậm chí cả hy sinh tính mạng..., cho nên trong
một bộ phận đảng viên quân đội dễ nảy sinh tâm lý so sánh thiệt hơn, ngại tu
dưỡng, rèn luyện phấn đấu, thậm chí dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc, hành động
tiêu cực.
Từ thực trạng
trên, việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng để mỗi
đảng viên trong quân đội thấy được niềm vinh dự, tự hào và nghĩa vụ thiêng
liêng của mình đối với Tổ quốc, với Đảng và với nhân dân là nhiệm vụ có ý nghĩa
vô cùng quan trọng và cấp thiết. Để làm tốt công tác bồi dưỡng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội cần tập trung thực hiện có hiệu quả
những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức cho đội ngũ đảng viên
trong quân đội về tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng về tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Để
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong quân đội, vấn đề quan
trọng hàng đầu là phải tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, làm cho toàn thể đội
ngũ đảng viên thấm nhuần những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và về
đạo đức cách mạng; phải làm cho các chủ thể, các đối tượng và lực lượng tham
gia xây dựng đội ngũ đảng viên nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò, bản chất
của đạo đức cách mạng. Trên cơ sở đó, cấp ủy các cấp, cơ quan chính trị, đội
ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội cần cụ thể hóa những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đề ra phương hướng, mục
tiêu, nội dung, giải pháp để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đặc điểm,
tình hình nhiệm vụ của từng đơn vị. Kết hợp tuyên truyền, giáo dục với tạo điều
kiện cho đảng viên tự học, tự rèn, tự soi, tự sửa để hoàn thiện bản thân, đối
chiếu với những chuẩn mực đạo đức của người đảng viên trong quân đội theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đề cao tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của
người đảng viên; coi trọng việc tự giáo dục, tự rèn luyện.
Tự
giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi đảng viên là biện pháp có ý
nghĩa quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc tự giác hóa quá
trình hình thành, phát triển đạo đức cách mạng. Tự giáo dục đạo đức cách
mạng, một mặt, phải gắn liền với học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức, quản lý; mặt khác,
phải gắn liền giáo dục đạo đức với giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục pháp
luật, kết hợp giữa nâng cao nhận thức về đạo đức cách mạng với rèn luyện đạo
đức cách mạng thông qua hoạt động thực tiễn.
Do
đó, để nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng giáo dục đạo đức cách mạng cho
đội ngũ đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định
trực tiếp chính là hình thành sự tự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của từng đảng
viên trong thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, trong công tác và trong
sinh hoạt đời thường. Thực tiễn cho thấy, đơn vị nào đề cao vai trò tiền phong
gương mẫu, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thì ở đó
chất lượng tư tưởng chính trị của người đảng viên được giữ vững, tổ chức đảng
trong sạch, vững mạnh và đơn vị vững mạnh toàn diện.
Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng,
thực hiện tự phê bình và phê bình, tăng cường kỷ luật, xây dựng môi trường dân
chủ lành mạnh trong đơn vị.
Các
cấp ủy trong quân đội cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ
chức đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; trong đó, tự
phê bình và phê bình phải trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên với tinh thần
nghiêm túc, thẳng thắn và đi đôi với thực hiện dân chủ rộng rãi; giữ vững
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng
viên. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chính trị các cấp trong việc xây
dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ là yêu cầu cấp
thiết. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và của nhân dân
trong quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát, phê bình, phát hiện, đấu tranh,
ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,
qua đó, giúp đội ngũ này được rèn luyện về quan điểm, lập trường tư tưởng, tác
phong, lối sống và đạo đức cách mạng.
Bốn là, kết hợp giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng với đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn
ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
“Xây”
đi đôi với “chống” là nguyên tắc trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách
của người cán bộ, đảng viên nói chung và đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng
viên quân đội nói riêng, nhằm đạt được kết quả cao nhất.
Thực
tiễn cho thấy, đội ngũ đảng viên quân đội được Đảng, Nhà nước, quân đội giao
cho nhiều cương vị, chức trách khác nhau; trong đó, nhiều đồng chí được giao
quản lý khối lượng cơ sở vật chất, tài sản… có giá trị kinh tế cao, nên nếu
không nghiêm khắc với bản thân, cũng như thiếu chế độ kiểm tra, giám sát nghiêm
ngặt sẽ dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, vẫn
còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chưa
nêu cao đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không dám đấu tranh
với những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị và trong xã hội; thậm
chí, còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân... Thực trạng này đòi
hỏi công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên quân
đội trên thực tế cần phải kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng,
chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng
phí và ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Kiên định mục tiêu lý tưởng, giữ vững lòng
trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; luôn là lực lượng tiên
phong trên mọi mặt trận, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vinh dự, trách nhiệm và nghĩa vụ
thiêng liêng của toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt
Nam. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, đội ngũ đảng viên luôn phải là lực lượng
nòng cốt, gương mẫu, đi đầu, chịu trách nhiệm trước tiên và cao nhất trong thực
hiện nhiệm vụ được giao. Do đó, việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ đảng viên quân đội là nhiệm vụ quan trọng, cấp
thiết, để đội ngũ này thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và
nhân dân tin tưởng giao phó.
Vốn được học hành đầy đủ, từng là cựu sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân nhưng Phan Đình Sang (SN 1967, quê quán xã Hương Long, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) không lấy đó làm động lực để phấn đấu, trở thành một công dân có ích cho xã hội mà ngày càng lún sâu vào ảo vọng và trở thành “kẻ hoang tưởng về chính trị” dưới sự hậu thuẫn, giật dây của những đối tượng bất hảo, chống Đảng và Nhà nước.
Sau khi thủ đoạn tung những video clip dàn dựng,
cắt ghép, sưu tầm từ nhiều năm trước về cảnh “đi bộ đội bị lính cũ bắt nạt hoặc
phải làm việc cực nhọc” bị bạn đọc bóc mẽ, vạch trần, một số trang mạng phản
động, trong đó có Việt Tân tiếp tục dùng chiêu trò khác nhằm kêu gọi thanh niên
trốn tránh nhập ngũ để thực hiện âm mưu chống phá đất nước ta.
Hoạt động
tín ngưỡng và tôn giáo của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn được tôn trọng và bảo đảm bằng hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, các thế
lực thù địch có âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn luôn dùng
những luận điệu đã cũ, lạc lõng, không ngừng vu cáo và xuyên tạc như “Việt Nam
kìm hãm, đàn áp tự do tôn giáo của nhân dân”…. Âm mưu sâu xa của chúng là muốn
xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, tiến tới xoá bỏ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn Dân ta đang nỗ lực xây dựng.
Cuốn sách thể hiện tư duy nhất quán của Đảng ta và
người đứng đầu Đảng ta về xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
được minh chứng qua việc chỉ đạo rất sâu sát, cụ thể của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đối với từng giai cấp, tầng lớp, các tổ chức, nhân dân Việt Nam trong nước
và người Việt Nam ở nước ngoài.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và Nhà nước Việt Nam hướng đến là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đólà một kiểu kinh tế
thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ
chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên
cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Về nền kinh tế thị trường, đã được hình thành và phát triển từ lâu
trong lịch sử nhân loại. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, kinh tế thị
trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh
tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát
triển; và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường phát
triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh
tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Danh dự làm nên phẩm
hạnh con người, là thước đo giá trị của mỗi người trong xã hội. Với một người
bình thường, danh dự đã là cao quý. Là cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, quản
lý, danh dự càng cao quý, thiêng liêng. Bác Hồ vẫn thường xuyên nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải luôn giữ gìn, bồi đắp đạo đức, nhân cách. Người căn dặn:
"Hạnh dục phương", nghĩa là đức hạnh, đạo đức phải vuông vắn, ngay
thẳng, không làm điều gì khuất tất. Phải tránh xa những thói xấu “lười biếng,
gian giảo, tham ô”. Phải biết sống “ngay thẳng, không có việc gì phải giấu
Đảng”, “không tham địa vị. Không tham tiền tài”... Đó là phẩm chất, đức hạnh,
danh dự của người cộng sản. Cán bộ, đảng viên phải biết giữ “thanh danh của
Đảng” và “danh giá của mình”.
Để nhằm chống phá và đi đến xoá bỏ
các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đã dùng chiến lược “diễn biến hoà bình”. Đây là chiến lược
được tiến hành trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị tư tưởng, văn hoá;
tấn công vào nhiều lực lượng, tổ chức chính trị-xã hội, trong đó quân đội được
xác định là đối tượng trọng điểm. Thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với quân
đội các nước XHCN, chúng thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định con đường
cách mạng Việt Nam: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Đường lối đó biểu hiện sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, là con đường đúng
đắn mà Đảng Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Vì thế, phòng, chống và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân trong mỗi cán bộ, đảng viên, trong từng cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa thường xuyên, liên tục để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng và Nhân dân, nên không chỉ coi chủ nghĩa cá nhân là "trái ngược với đạo đức cách mạng", mà còn khẳng định đó là kẻ thù của cách mạng; là nguồn gốc của những căn bệnh/những biểu hiện suy thoái làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên và làm tha hóa Đảng.
Vì thế, khi nhấn mạnh: "Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm"[1], Người cũng đồng thời khẳng định "thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân"[2].
Luôn chú trọng việc phòng, chống, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu, mong mỏi "mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng"[3], mà còn gương mẫu thực hành đạo đức cách mạng trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh.
Theo Người, chủ nghĩa cá nhân hay cá nhân chủ nghĩa chính là những biểu hiện tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân; là coi thường lợi ích chung của tập thể, cộng đồng, xã hội; là sẵn sàng đặt lợi ích riêng của cá nhân, gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của quốc gia - dân tộc và đó cũng chính là những căn bệnh cận thị, hẹp hòi, quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền, coi khinh quần chúng, tự cao, tự đại, địa phương chủ nghĩa, cánh hẩu, a dua, xu nịnh,v.v.. Những biểu hiện, căn bệnh đó đều nguy hiểm khôn lường; đều dẫn đến nguy cơ làm xói mòn lòng tin của quần chúng Nhân dân vào Đảng cầm quyền và chế độ.
Vì có nhiều biểu hiện đa dạng, biến hóa khôn lường, lại "ẩn nấp" trong mỗi con người, nên chủ nghĩa cá nhân/kẻ địch "nội xâm" như Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi tên là thứ virus độc hại, tồn tại trong suy nghĩ và hành động của mỗi con người trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sự nguy hại của nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác lãnh đạo, tổ chức và quản lý; đến việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng; đến sự ứng xử với đồng chí, đồng nghiệp và quần chúng Nhân dân. Chính "chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí…
Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của Nhân dân"[4] như Người đã nhấn mạnh trong tác phẩm "Đạo đức cách mạng" (đăng trên Tạp chí Học tập tháng 12/1958). Vì thế, nó ngăn trở sự tu dưỡng, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc; thúc đẩy sự tự do toan tính, tính thiếu tổ chức, thiếu kỷ luật, thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ cũng như thúc đẩy sự suy thoái về đạo đức, lối sống, sự tự diễn biến, tự chuyển hóa trong mỗi người, mỗi tổ chức, nên không chỉ làm giảm sức chiến đấu, mà còn chia rẽ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Chủ nghĩa cá nhân hay "cá nhân chủ nghĩa" là: "Ít nghĩ đến lợi ích chung của cách mạng, của Nhân dân, mà thường lo cho lợi ích riêng của mình. Tham danh lợi, hay suy tị. Có chút thành tích thì tự cao, tự đại, kiêu ngạo, công thần, gây lủng củng trong nội bộ" nên đã sinh ra các bệnh tự do chủ nghĩa, quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, lười biếng.
Những người sa vào chủ nghĩa cá nhân thường "tự cho mình là đúng, hành động theo ý riêng, phát biểu theo ý riêng", nên trở thành người "thiếu đạo đức cách mạng, thiếu tinh thần trách nhiệm mà đâm ra hư hỏng, ăn cắp của công… làm hại đến việc phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống của nhân dân"[5] như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong bài "Đoàn kết tiến lên giành thắng lợi mới" (đăng trên Báo Nhân Dân ngày 3/2/1963).
Và do "mang nặng chủ nghĩa cá nhân", nên "việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ"[6], dẫn đến "không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của Nhân dân" như Người đã nhấn mạnh trong tác phẩm "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (đăng trên Báo Nhân Dân ngày 3/2/1969)…
Những người, những tập thể mang trong mình những biểu hiện, căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân là đã rơi vào sự "thoái bộ", mất dần tính cách mạng, tiền phong. Bởi rằng, không phải mỗi cán bộ, đảng viên cứ viết hai chữ "cộng sản" trên trán của mình là được Nhân dân yêu mến, tin tưởng, mà điều căn cốt chính là mỗi người đều phải thường xuyên tu dưỡng, thực hành đạo đức cách mạng để phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân/trừ bỏ kẻ địch hung ác luôn ẩn nấp trong mỗi con người. Bởi rằng, không phải "một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"[7], nên mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng không chỉ cần phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, mà còn phải trong sạch về đạo đức, lối sống để góp phần làm cho Đảng ta thật sự "là đạo đức, là văn minh", xứng đáng với vai trò lãnh đạo, tiền phong.
Tấm gương mẫu mực của người cách mạng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng "cuộc đời gương mẫu và nếp sống giản dị của Người đã khắc sâu trong tâm trí chúng tôi. Quyết tâm của Người được thể hiện qua những câu nói ngắn gọn, giản dị và trong sáng, chứa đựng lòng dũng cảm và ý chí quật cường của các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những điều Chủ tịch nói với chúng tôi, và những điều Người nhấn mạnh nói lên quyết tâm của cả một dân tộc, làm chúng tôi hiểu rõ vì sao dân tộc này chiến thắng"[8] vẫn vẹn nguyên trong trái tim nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Vì thế, "những gì thuộc về Người, từ phẩm chất đến hành động, vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam, Nhân dân các dân tộc yêu độc lập, tự do, hòa bình, công lý và những người tiến bộ trên trái đất. Tấm gương anh hùng và tấm gương đạo đức sống tràn đầy tình yêu Tổ quốc và nhân dân một cách tự nguyện đó đã được truyền lại cho các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam ngày nay"[9].
Một Hồ Chí Minh - tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, xa lạ với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa nên cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là minh chứng sinh động nhất cho thấy "điều mà Người đã truyền bá, đó cũng là hình ảnh một con người mới, vì mọi người mà phục vụ; điều mà Người khắc sâu trong cả một dân tộc, đó là nền đạo đức trong sáng, một nền đạo đức cao quý mà không có nó thì mọi cuộc cách mạng đều sẽ không thành"[10] đúng như nhận định trong bài viết "Một nhà cách mạng triệt để" (đăng báo Annát, xuất bản ở miền Đông Angiêri, ngày 5/9/1969). Bởi thế, dù đã đi xa, song những trăn trở, tâm huyết và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, về rèn luyện đạo đức cách mạng trong mỗi cán bộ, đảng viên, trong từng cấp ủy, từng tổ chức cơ sở Đảng; về phòng, chống và đấu tranh để quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong các bài viết/nhất là tác phẩm "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" cách đây tròn 55 mùa Xuân vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự.
Thực tế, việc một bộ phận cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân/chọn lối sống thực dụng, suy nghĩ và hành động chỉ chú trọng lợi ích của cá nhân mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể; từng bước suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống/xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức và nhân cách… hiện nay không những chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn ngày càng trở thành vấn nạn. Thực trạng này không chỉ gây chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ, mà còn tạo cớ cho các thế lực thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ cũng như bôi nhọ, bẻ cong sự thật về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Vì thế, học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là trong phòng, chống và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quét sạch chủ nghĩa cá nhân chính là một cách thiết thực nhất, hiệu quả nhất "để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng"; để làm cho Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Theo đó, mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức cơ sở Đảng cần phải chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, ý chí phòng, chống và đấu tranh đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân từ sớm, từ xa cho cán bộ, đảng viên gắn liền với việc vừa tuyên truyền, giáo dục vừa tích cực đấu tranh, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, thái độ đến hành động trong từng tập thể, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân gắn liền với việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh... để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm của mỗi cán bộ, đảng viên - coi đó là vũ khí sắc bén, cần thiết để phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn, căn dặn và mẫu mực thực hiện.
Đồng thời, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ cần phải tiếp tục nhận diện rõ những biểu hiện suy thoái, tiêu cực; những căn bệnh cá nhân chủ nghĩa/27 biểu hiện suy thoái đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; trong Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", mà còn phải gắn thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Quy định số 37-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm… để phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân; để bản lĩnh vượt qua những cám dỗ của lối sống "vị tiền", "lụy vật chất" đang dần trở thành vấn nạn đã khiến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức "sa vào", "mắc lưới" dẫn đến vi phạm Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật.
Cùng với đó, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng/"xây", mà còn phải tự soi, tự sửa, tự mình phòng, chống và đấu tranh để trừ bỏ, quét sạch, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân/"chống". Đó chính là một quá trình vừa "xây" vừa "chống"; trong "chống" có "xây", trong "xây" có "chống"; gắn "xây" với "chống" theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà mỗi người đều phải thấu triệt, thực hành để loại trừ những biểu hiện, căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân. Đó chính là một quá trình nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện để kiên định lý tưởng cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên trì vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cám dỗ, sống giản dị, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; là suy nghĩ và hành động vì mọi người chứ không chỉ vì riêng cá nhân mình và dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của tập thể, của Tổ quốc, của Nhân dân để xứng đáng với niềm tin yêu, kính trọng và sự kỳ vọng của Nhân dân.
____________________
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.295
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.609
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.290- 291
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.611
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.29
[6]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 547
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 672
[8] Chủ tịch Hồ Chí Minh với các chính khách quốc tế, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2006, tr. 235
[9]Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.49
[10] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, t.III, tr.90