Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ ĐỀ CAO "NGOẠI GIAO CÂY TRE" CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

     Truyền thông thế giới đưa tin đậm nét về Quốc tang Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đề cao chính sách "ngoại giao cây tre" được ông thúc đẩy!
Nhiều phái đoàn đại diện lãnh đạo các nước và tổ chức quốc tế đã đến viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong những ngày diễn ra Quốc tang cấp nhà nước. "Sự đa dạng của các phái đoàn đến viếng là minh chứng cho chính sách 'ngoại giao cây tre' cân bằng và linh hoạt mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thúc đẩy", Nikkei Asia bình luận trong bài viết ngày 26/7 về quốc tang Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Bài viết cho rằng chính sách "ngoại giao cây tre" đã giúp Việt Nam đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Xinhua đăng bài viết chi tiết về lễ viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào ngày 25/7 với sự có mặt của nhiều lãnh đạo và chính khách quốc tế, trong đó có Vương Hộ Ninh, Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc, đại diện đặc biệt của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Xinhua cho biết ông Vương đã bày tỏ "đau buồn sâu sắc về sự ra đi của đồng chí Nguyễn Phú Trọng", khẳng định "đảng và nhân dân Trung Quốc đoàn kết với đảng và nhân dân Việt Nam trong thời khắc đặc biệt này".

Ông nhấn mạnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà Marxist kiên định, lãnh đạo kiệt xuất của Việt Nam, là người đồng chí thân thiết, người bạn vĩ đại của Trung Quốc, đã có nhiều đóng góp to lớn, đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của quan hệ hai Đảng, hai nước.

Hãng thông tấn AP của Mỹ đăng bài tường thuật về tang lễ, cho biết hàng nghìn người, trong đó có nhiều người đến từ những tỉnh thành xa xôi, đã xếp hàng đến tận khuya tại Hà Nội vào ngày 25/7 để thắp hương tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Hãng tin Mỹ cũng đề cập đến chính sách đối ngoại "ngoại giao cây tre" mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ủng hộ xuyên suốt những năm qua, đồng thời giải thích về tinh thần của đường lối ngoại giao này "tương tự sự mềm dẻo của cây tre, nương theo chứ không gãy đổ trước những cơn gió ngược không ngừng biến động của bối cảnh địa chính trị".

AP nhắc lại rằng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "là lãnh đạo đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đến thăm Nhà Trắng" năm 2015. Hãng cũng dẫn lại điện chia buồn từ Tổng thống Mỹ Joe Biden gọi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là "người đi đầu trong xây dựng mối quan hệ sâu sắc giữa nhân dân Việt Nam và Mỹ". Tổng thống Nga Vladimir Putin trong điện chia buồn với Việt Nam đã ca ngợi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là "người bạn thật sự" của nước Nga, đã có những đóng góp to lớn trực tiếp cho phát triển quan hệ song phương.

Trong bài viết trên website Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á Gregory Poling nhận định Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo "điềm đạm, tài năng và quan trọng nhất là không thể sa ngã", là "chính trị gia quan trọng nhất Việt Nam trong thế hệ".

Ông đánh giá di sản có ý nghĩa to lớn mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại cho Việt Nam là củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, chiến dịch chống tham nhũng và thắt chặt kỷ luật Đảng, cùng với sự cân bằng quan hệ với mọi cường quốc.

Về chính sách đối ngoại, Poling nhận định Việt Nam sẽ nối tiếp di sản "vừa hợp tác khéo léo với Trung Quốc, cường quốc láng giềng, vừa duy trì quan hệ tốt đẹp với những nước khác như Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ" mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thúc đẩy những năm qua.

Hãng tin Reuters của Anh cũng ghi nhận sự có mặt của nhiều phái đoàn và chính khách quốc tế trong lễ viếng ngày 25/7 tại Hà Nội. "Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn dắt Việt Nam thúc đẩy quan hệ với mọi cường quốc, trong đó có Mỹ lẫn Trung Quốc, trong đường lối 'ngoại giao cây tre', lèo lái đất nước giữa những cạnh tranh toàn cầu gia tăng và duy trì tăng trưởng kinh tế", bản tin có đoạn.

Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 5,79%, một trong những mức tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á, theo Reuters.

Tạp chí TIME của Mỹ có bài viết về hai ngày Quốc tang của Việt Nam, trong đó điểm lại di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là "đưa Việt Nam trỗi dậy với vị thế nhà cung cấp điện tử toàn cầu và dẫn đầu chiến dịch chống tham nhũng những năm qua".

Hãng tin AFP của Pháp dẫn bình luận của chuyên gia Viện ISEAS-Yusof Ishak, tại Singapore, nhận định Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "đã duy trì chính sách đối ngoại cân bằng với mọi cường quốc". Nhờ chính sách này, Việt Nam đã đạt được "những bước phát triển kinh tế đáng chú ý và đang hướng đến trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao vào năm 2030".

Reuters và AFP đều phỏng vấn người dân đến dự lễ viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thể hiện tình cảm, tấm lòng của người dân dành cho cố lãnh đạo.

Hãng thông tấn ANI của Ấn Độ đưa tin phái đoàn do Cố vấn An ninh Quốc gia Ajit Doval dẫn đầu đã đến viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng thời ghi lại loạt thông điệp chia buồn từ lãnh đạo các cấp của Ấn Độ dành cho Việt Nam trước mất mát này.

Hãng thông tấn TASS của Nga có bài viết ca ngợi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người chiến sĩ Cộng sản kiên trung, cống hiến cuộc đời và sự nghiệp vì nhân dân lao động, bảo vệ chủ quyền, danh dự và lợi ích của tổ quốc, được yêu mến cả trong và ngoài nước.

Bài viết dẫn lời Gennady Ziuganov, chủ tịch đảng Cộng sản Nga, nhận định Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tận lực nhằm đảm bảo người dân Việt Nam "sống trong danh dự" và đất nước đạt được những kết quả xuất sắc.

"Tôi tin rằng với một nền tảng tốt và vững chắc đã được thiết lập, các lãnh đạo Việt Nam sẽ tiếp tục con đường vẻ vang mà đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã theo đuổi, đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa", ông Ziuganov bình luận.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần ngày 19/7 do tuổi cao bệnh nặng, hưởng thọ 80 tuổi. Tang lễ được tổ chức trọng thể theo nghi thức quốc tang trong ngày 25-26/7. Ông được an táng chiều 26/7 tại Nghĩa trang Mai Dịch./.
Ảnh: Ông Vương Hộ Ninh dẫn đầu đoàn đại biểu Trung Quốc vào viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Ảnh: Đoàn Liên minh châu Âu (EU) do ông Josep Borrell, Đại diện cấp cao EU về chính sách đối ngoại và an ninh, Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu, dẫn đầu vào viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Yêu nước ST.

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2024

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân. Cuộc đời của Tổng Bí thư vốn đã đầy ắp những sự kiện, nhưng càng trở nên phong phú, sinh động hơn bởi trong đó chứa đựng những dấu ấn trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
1. Trải qua gần 30 năm công tác tại Tạp chí Cộng sản, đồng chí Nguyễn Phú Trọng có nhiều bài viết về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó đề cập việc cần phải quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, qua đó trực tiếp góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tiếp đó, trong những năm trên cương vị Bí thư Thành ủy Hà Nội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Đảng bộ thành phố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ thành phố, kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố đối với nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thủ đô thời kỳ mới. Những chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy Hà Nội ban hành dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bí thư Thành ủy Nguyễn Phú Trọng luôn sâu sát thực tiễn, luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như chủ trương, chính sách của Đảng, qua đó góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng văn minh, giàu mạnh.
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011), đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nhiều cống hiến trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời trong việc đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, chỉ trong 10 năm (2011-2021), đã có nhiều nghị quyết, quy định quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được ban hành; trong đó tiêu biểu là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 08-QĐi/TƯ ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”...
Trong các nghị quyết, quy định trên, cùng với việc nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cấp bách về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã chỉ rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và những yêu cầu cấp bách đặt ra trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt, trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”. Quá trình này sẽ diễn ra nhanh hơn, nguy hiểm hơn khi nhiễm phải những luận điệu sai trái, những biện pháp dụ dỗ, mua chuộc, kích động của các thế lực thù địch, các đối tượng cơ hội chính trị, các phần tử bất mãn.
Hơn nữa, với quyết tâm chính trị và với tư duy biện chứng, tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết của Đảng, vào sự yêu thương, đùm bọc của nhân dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “ tự diễn biến” , “tự chuyển hóa” trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ ta.
Điều cần nhấn mạnh, một nội dung quan trọng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt quan tâm là vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng, trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" trong nội bộ. Do đó, trong hầu hết các bài phát biểu, bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương phải “thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, là một chủ trương chiến lược, một vấn đề cơ bản trong đường lối của Đảng ta”. Vì thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thường xuyên chỉ đạo phải động viên nhân dân tham gia thảo luận xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng; tham gia kiểm tra mọi hoạt động của tổ chức Đảng; giám sát, phê bình cán bộ, đảng viên và tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
2. Ngày 22-10-2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.
Theo Nghị quyết số 35-NQ/TƯ của Bộ Chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết là trong xây dựng đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động của toàn hệ thống chính trị… Khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc này trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh phải luôn: Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Có thể nói, là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn thấu triệt sâu sắc tư tưởng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng, hơn ai hết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận rõ tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái thù địch, để chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TƯ của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” sáng 12-6-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng ta và nhân dân ta, soi sáng sự nghiệp cách mạng, dẫn dắt mỗi bước đi lên và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm rất cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết là các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân.
3. Không chỉ là nhà lãnh đạo thực tiễn xuất sắc, luôn chỉ đạo sâu sát, hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn có nhiều bài viết, nhiều công trình xuất sắc về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, một trong số đó là cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022).
Trong cuốn sách này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ vạch ra những âm mưu, thủ đoạn chống phá các thế lực thù địch sử dụng mà còn nêu ra những biện pháp, lực lượng tham gia để đấu tranh có hiệu quả chống lại những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chúng nhằm hạ thấp, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Phương châm Tổng Bí thư đưa ra là chúng ta phải trực diện đấu tranh phản bác lại các luận điệu sai trái, thù địch. Đồng chí khẳng định phải “tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch”; “Chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phản động của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước…”.
Như vậy, phương châm đấu tranh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa ra là kiên quyết, thường xuyên, chủ động. Kẻ địch chống phá chúng ta thường xuyên, liên tục theo kiểu mưa dầm thấm lâu thì chúng ta cũng phải đấu tranh bền bỉ. Cuộc đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phải kiên quyết, không khoan nhượng; đồng thời, phải chủ động nắm rõ, thậm chí dự báo được những âm mưu, thủ đoạn của chúng để có những biện pháp hiệu quả, phù hợp, không để bị động, bất ngờ.
Đồng thời, Tổng Bí thư chỉ đạo một số biện pháp đấu tranh có hiệu quả chống âm mưu, thủ đoạn của chúng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết là công tác tuyên truyền. Về tuyên truyền, Tổng Bí thư cho rằng các cơ quan đều phải tích cực tham gia vào công tác tuyên truyền. Các tổ chức theo chức năng, nhiệm vụ của mình lựa chọn nội dung, hình thức, đối tượng tuyên truyền phù hợp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền cho các hội viên, trước hết, từ chức năng của Mặt trận tập trung tuyên truyền về âm mưu gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Theo đó, “Mặt trận phải là hạt nhân trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trong phòng, chống âm mưu, hoạt động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, phản động, cơ hội chính trị. Tăng cường tuyên truyền sâu rộng để các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch xuyên tạc lịch, sử, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Các tổ chức trong quân đội tuyên truyền trong toàn quân về âm mưu, thủ đoạn đòi phi chính trị hóa quân đội của các thế lực thù địch. Về vấn đề này, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Các cấp ủy, tổ chức Đảng trong toàn quân cần chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để bộ đội thấy rõ sự nguy hiểm của âm mưu chia rẽ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hoá quân đội”.
Đối với lực lượng công an phải có nhiệm vụ “vạch trần những âm mưu và hành động lợi dụng một số vụ án, vụ việc tiêu cực để làm tổn hại tới khối đại đoàn kết toàn dân, hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân”.
Tuy nhiên, Tổng Bí thư lưu ý, tuyên truyền ở đây có cả tuyên truyền về tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những thành tựu của đất nước và cả tuyên truyền về những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá trên các mặt để toàn dân, toàn quân đều biết và nhận thức rõ.
Cùng với tuyên truyền, theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, biện pháp có hiệu quả nhất để đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là nâng cao hiệu quả trong thực tiễn. Bởi thực tiễn chính là minh chứng có sức thuyết phục nhất về sự đúng đắn trong đường lối của Đảng, về việc Đảng là một Đảng vì dân, vì nước, đập tan mọi xuyên tạc nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư lấy ví dụ thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam chính là lời phản bác đanh thép nhất trước những luận điệu lợi dụng tham nhũng để chống phá của các thế lực thù địch: “Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành, tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; khiến cho mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười”.
Ngày 23-2-2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiến hành phiên họp đầu tiên. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban chủ trì Phiên họp, nhấn mạnh: Việc chuẩn bị các văn kiện cho Đại hội XIV, đặc biệt là Báo cáo chính trị là báo cáo trung tâm, có vai trò định hướng cho các văn kiện khác của Đại hội phải được tiến hành một cách khoa học, nghiêm túc, có đổi mới trong cách làm, phải bảo đảm thật sự có chất lượng, phản ánh đầy đủ thực tiễn mới của đất nước. Đây là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, bảo đảm sự thành công của Đại hội.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu cần quán triệt sâu sắc và thống nhất cao một số vấn đề về phương châm, phương pháp tư tưởng, hệ quan điểm chỉ đạo và cách làm, trong đó phải kiên định hệ quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cốt lõi của hệ quan điểm này là kết hợp một cách khoa học giữa nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, đường lối của Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới, sáng tạo, tuân theo quy luật khách quan. Điều đó cũng có nghĩa là kiên định phải đi đôi với đổi mới nhưng là sự đổi mới có nguyên tắc, không tuỳ tiện, nóng vội. Chỉ đạo này của Tổng Bí thư một lần nữa nhấn mạnh tới vị trí, vai trò của công tác xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Với tất thảy những gì để lại, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn là người đi đầu trong cuộc đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch, trực tiếp góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Về vấn đề này, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Sri Lanka Dr. G. Weerasinghe trong cuộc trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN tại Nam Á ngày 20-7-2024, nhấn mạnh: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng coi việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự lãnh đạo của Đảng, là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển thắng lợi của đất nước, đồng thời xác định đây là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài của toàn Đảng.
Những đóng góp, cống hiến của Tổng Bí thư đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng sẽ còn mãi, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho Đảng ta trong đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn mới, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam, để Đảng ta thực sự là “ĐẠO ĐỨC”, là “VĂN MINH” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời!./.
Báo Hà Nội mới

MỘT ĐỜI BÌNH DỊ🇻🇳

 Trong hơn 13 năm giữ trọng trách cao nhất của Đảng, Nhà nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại nhiều di sản lớn với tư tưởng nhất quán

Trong ký ức của nguyên Vụ trưởng Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Đức Hà, hình ảnh mỗi lần xuất hiện của vị lãnh đạo cao nhất đất nước gắn liền với chiếc xe Toyota Crown đời 1998. Chiếc ôtô này được cấp cho Văn phòng Quốc hội từ năm 1998. Khi nhậm chức Chủ tịch Quốc hội vào năm 2006, ông Trọng tiếp tục sử dụng dù xe này đã phục vụ lãnh đạo tiền nhiệm gần 8 năm.

5 năm sau, khi được bầu làm Tổng bí thư, chiếc xe tiếp tục theo ông đến trụ sở làm việc mới. Đến giữa nhiệm kỳ khóa 12, Văn phòng Trung ương Đảng đề xuất thay xe cho Tổng bí thư vì chiếc Toyota đã cũ, sử dụng nhiều năm. Thế nhưng, ông không đồng ý, nói rằng "xe vẫn đi tốt". Công tác xa đã có xe 7 chỗ gầm cao, xa nữa thì có máy bay. Chiếc Crown chỉ dùng để đi quanh Hà Nội nên không cần phải đổi.

"Thay xe sẽ phải thêm chi phí, thêm tiền của nhân dân", ông Hà thuật lại lời giải thích của Tổng bí thư. Kể từ đó, chuyện đổi xe không được văn phòng nhắc lại nữa.

Một kỷ niệm khác là lần đầu đến phòng làm việc của Tổng bí thư để báo cáo công việc vào 11 năm trước, ông Hà ấn tượng sâu sắc với hai chồng sách cao trên bàn làm việc của Tổng bí thư. Trong phòng chỉ có bộ bàn ghế màu nâu sẫm, dài, đặt liền với bàn làm việc, phía dưới là bộ sofa sờn cũ. Tổng bí thư tự tay rót nước mời khách, lúc ra về còn tiễn ông ra tận cầu thang.

"Sự thân thiện, gần gũi, không quan cách đó khiến tôi nhớ mãi", ông nói, thêm rằng trong những lần tiếp xúc khác "chưa bao giờ thấy Tổng bí thư nổi nóng, gắt gỏng với ai".

Không chỉ bình dị, gương mẫu trong lối sống và phong cách làm việc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng còn là người luôn hướng về nguồn cội. Dù bận rộn với công việc của Đảng và Nhà nước, hàng năm, ông luôn dành thời gian về thăm quê ở làng cổ Lại Đà (xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội), hay gặp lại thầy cô, bạn bè thuở còn đi học.

 Cô giáo Đặng Thị Phúc, giáo viên dạy ông thời tiểu học, kể đã nhiều lần được học trò tìm đến tận nhà thăm. Trong một bức thư tay gửi đến cô Phúc đầu năm 2019, Tổng bí thư đề "Học trò cũ của cô", kèm lời tri ân: "Em vẫn giữ mãi những kỷ niệm sâu sắc, không bao giờ phai mờ trong những năm tháng được cô dạy bảo". Cô Phúc xúc động viết tặng lại cho trò 4 câu thơ: "Ngờ đâu trò nhỏ năm nào/ Nay thành cán bộ cấp cao giúp đời/ Nhìn em như ngắm hoa tươi/ Bõ công chăm sóc từ thời ấu thơ".

Theo Chủ tịch nước Tô Lâm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thực sự là tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư, lối sống giản dị, phong cách làm việc dân chủ, tận tụy, khoa học, tôn trọng và yêu thương con người.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa thì đánh giá Tổng bí thư là một nhà chính trị, nhà tư tưởng đặc biệt xuất sắc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông "là một tấm gương mẫu mực" của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nhất quán giữa nói và làm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Trong những ngày cuối đời ở Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, dù sức khỏe yếu dần, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn duy trì lịch làm việc. 9h-9h30, ông nghe các trợ lý, thư ký báo cáo tình hình công việc. Sau 10h30 và buổi chiều, ông tiếp các lãnh đạo Đảng, Nhà nước; hoặc ngồi đọc và nghiên cứu tài liệu.

"Tổng bí thư làm việc đến hơi thở cuối cùng. Ngày 13/7, ông vẫn làm việc nhưng buổi chiều chúng tôi phải đặt ống thở máy", PGS Nguyễn Phương Đông, bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho Tổng bí thư nhiều năm qua ở Bệnh viện 108, cho biết.

Trong các bài phát biểu cũng như trò chuyện với cán bộ đảng viên, nhân dân lúc sinh thời, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thường dùng một câu trong tác phẩm nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy của nhà văn Liên Xô Nikolai Ostrovsky để nói hộ suy nghĩ của ông, cũng là lời căn dặn cho các thế hệ cán bộ, đảng viên, và nhân dân: "Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, vì đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí..."./.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, tư tưởng về xây dựng quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nội dung cốt lõi, có vai trò đặc biệt quan trọng trong suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội Việt Nam anh hùng. Cho đến nay, tư tưởng đó của Người vẫn còn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng quá trình xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong tình hình mới.

Kế thừa tư tưởng “dân là gốc” trong lịch sử dân tộc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, xuất phát từ thực tiễn cách mạng, trực tiếp là thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng và trực tiếp chăm lo xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là biểu hiện của tầm cao trí tuệ Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng Quân đội ta thành một đội quân cách mạng kiểu mới, mang bản chất của giai cấp công nhân và mang tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Người khẳng định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân”(1); đồng thời, Người luôn quan tâm chỉ bảo cán bộ, chiến sĩ phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng phẩm chất, đạo đức của người quân nhân cách mạng trong quan hệ, giao tiếp với nhân dân. Ngay từ tháng 3-1947, Người đã nêu ra những điều cần phổ biến ngay và thường xuyên tới bộ đội: “3. Không động đến một cái kim, một sợi chỉ của dân. 4. Khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ. 5. Nói năng cử động phải giữ lễ phép, phải kính người già, yêu trẻ con. 6. Mua bán phải công bình. 7. Mượn cái gì phải trả tử tế. 8. Hỏng cái gì phải bồi thường. 9. Phải giúp đỡ dân bất kỳ việc to, việc nhỏ...”(2). Đây là những nội dung cốt lõi để hình thành nên phẩm chất, đạo đức của người quân nhân cách mạng, xây dựng nên phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” và để Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức đan xen. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội, với những chiêu thức thâm độc hòng xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, kích động, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết, gắn bó mật thiết giữa Quân đội với nhân dân. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, chủ quyền biển, đảo đang đứng trước những yêu cầu mới. Trước tình hình đó, Quân đội càng phải thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Để hoàn thành trọng trách vẻ vang, nhiệm vụ thiêng liêng đó, chúng ta cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tư tưởng về quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là biểu hiện của tầm cao trí tuệ Hồ Chí Minh; là phương hướng để Đảng ta vận dụng vào lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi giai đoạn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “trọng dân” không chỉ là tôn trọng nhân dân, mà còn phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, tôn trọng, giúp đỡ các cấp ủy và chính quyền địa phương. Tại Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân (ngày 20-3-1958), Người nhấn mạnh: “Phải đoàn kết quân, chính, Đảng. Quân đội phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, phải giúp đỡ các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương”(3).

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào, cũng phải “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng”(4). Đây là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, quyết định bản chất cách mạng, phương hướng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, bảo đảm cho Quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định nhất, là phải thường xuyên “Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội... tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng”(5); thực hiện nghiêm tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Trong tình hình hiện nay, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cần tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội “vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(6); gương mẫu thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng, không để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Trước mắt, phải tích cực thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đảng bộ Quân đội phải làm gương, làm mẫu về mọi mặt trong toàn Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, phải luôn luôn “tự soi, tự sửa” để trong bất cứ hoàn cảnh nào, khó khăn, phức tạp đến đâu thì phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn được giữ vững; phải giữ mình và thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện; đấu tranh có hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, làm cho Quân đội ta ngày càng mạnh hơn, trưởng thành hơn, mãi mãi xứng đáng là “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân”(7).

Theo đó, phải làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chức năng, nhiệm vụ, bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phong trào thi đua “Quyết thắng”, cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực... Qua đó, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, toàn quân luôn đoàn kết, thống nhất, trung thành vô hạn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực sự “là Quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ về giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội với nhân dân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ và chiến đấu. Đây là quan điểm chỉ rõ bản chất và cội nguồn sức mạnh của Quân đội ta. Quân đội ta là quân đội cách mạng, là quân đội của nhân dân; mọi cán bộ, chiến sĩ đều là con em của nhân dân. Quân đội ra đời, trưởng thành và lớn mạnh đều bắt nguồn từ nhân dân; do nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, giúp đỡ và chiến đấu vì mục tiêu đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, trong tình hình mới hiện nay, cần giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân thấy rõ, nhân dân là nền tảng, là gốc rễ của Quân đội. Quân đội muốn vững mạnh thì phải biết dựa vào cái gốc, cái nền tảng ấy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Gốc có vững cây mới bền,/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(8). Đặc biệt, cần giáo dục để mọi cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân thấm nhuần lời căn dặn của Người: “Dân như nước, quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh thắng giặc”(9).

Tăng cường giáo dục để cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhận thức đúng và thực hiện tốt tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Quân đội phải “hiếu với dân”. Cần thấm nhuần lời căn dặn của Người: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân”(10). Mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội phải thấu hiểu, “hiếu với dân” là phải biết hết lòng vì Tổ quốc, vì chế độ xã hội chủ nghĩa, vì Đảng ta và vì nhân dân ta.

Cùng với đó, cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ luôn biết tôn trọng nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Tất cả các chú, cán bộ cũng như chiến sĩ, đều phải: ...Thương dân, trọng dân và tốt với dân”(11). Theo Người: “Phải biết trọng nhân dân. Tôn trọng có nhiều cách, không phải ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết tôn trọng dân”(12). Như vậy, theo Người, cán bộ, chiến sĩ quân đội có thực sự tôn trọng nhân dân thì nhân dân mới gắn bó chặt chẽ với Quân đội, và Quân đội mới làm tròn được chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động, sản xuất, mới thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong tình hình hiện nay.

Để Quân đội ta được dân tin, dân phục, dân yêu, cần tiếp tục giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ luôn có ý thức và trách nhiệm giúp đỡ nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Phải giúp đỡ nhân dân bất kỳ việc to, việc nhỏ, từ việc gặt hái, lấy củi, lấy nước, may vá, vệ sinh đường làng, ngõ xóm, đến những việc lớn hơn, như tăng gia sản xuất, dạy chữ quốc ngữ và những điều vệ sinh thường thức... Đặc biệt, trong quan hệ trực tiếp với nhân dân, phải làm thế nào để khi mình chưa đến thì dân mong, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Trong tình hình hiện nay, cán bộ, chiến sĩ quân đội còn phải tích cực tham gia bảo vệ, giữ gìn trật tự, an ninh, giữ yên cuộc sống bình yên cho nhân dân; giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, gieo “cái chữ”, đưa khoa học, kỹ thuật đến với người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; giúp nhân dân phòng, chống thiên tai, nhất là phòng, chống bão, lụt... Nếu tất cả cán bộ, chiến sĩ đều quán triệt và làm tốt những điều ấy trong tình hình hiện nay thì chắc chắn sẽ được dân tin, dân phục, dân yêu và thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới.

Để góp phần xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong tình hình hiện nay, công tác dân vận của Quân đội cần tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là: tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, đồng thời tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương; giữ vững và tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, nâng cao ý thức “vì nhân dân phục vụ” cho cán bộ, chiến sĩ. Để thực hiện chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ này, công tác dân vận của Quân đội cần hướng mạnh về cơ sở, quan tâm giải quyết những vấn đề thiết thực trong đời sống nhân dân; qua đó, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Cùng với đó, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng quê hương, đất nước.

Các đơn vị trong toàn quân đóng trên từng địa bàn cần tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đồng bào theo đạo về tình hình chính trị, an ninh, trật tự của đất nước và địa phương, cơ sở, nhất là về chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục của địa phương, cơ sở. Đồng thời, giúp nhân dân nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng chia rẽ Đảng với dân, quân với dân.

Thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Coi trọng và tập trung làm tốt công tác dân vận ở những địa bàn trọng yếu, những vùng kinh tế khó khăn, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo những nội dung, biện pháp công tác dân vận bảo đảm phù hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương. Kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, phản ánh của nhân dân ở cơ sở, qua đó tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, góp phần xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong tình hình hiện nay, cần chú trọng nâng cao trách nhiệm, trình độ, năng lực tiến hành công tác dân vận của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ dân vận ở cơ sở. Theo đó, cần quán triệt và vận dụng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”(13). Theo đó, tích cực, chủ động tổ chức bồi dưỡng kiến thức, năng lực, kinh nghiệm, phương pháp, tác phong công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác này. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ dân vận là con em đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ làm công tác dân vận phải luôn học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực, luôn “gần dân, học dân, nghe theo dân”(14), như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, để vừa là một công dân gương mẫu, vừa là một quân nhân kiểu mẫu, vừa là một cán bộ “dân vận khéo”, hết lòng vì nhân dân.

Cùng với đó, các đơn vị quân đội còn phải tích cực, chủ động phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương trong tiến hành công tác dân vận. Các đơn vị quân đội đóng quân, làm nhiệm vụ trên các địa bàn phải tích cực giúp đỡ chính quyền và nhân dân địa phương giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; “cán bộ cũng như chiến sĩ, đều phải: ... Thương dân, trọng dân và tốt với dân”(15), luôn là lực lượng đi đầu ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất; sát cánh cùng nhân dân trong phòng, chống bão, lũ, thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng, phát triển kinh tế. Tiếp tục phối hợp thực hiện tốt các cuộc vận động lớn, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, “Chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng thời, xây dựng và duy trì thường xuyên chế độ nắm tình hình thực hiện mối quan hệ đoàn kết quân - dân; chủ động, kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch trên địa bàn, có kế hoạch phù hợp và xử lý hiệu quả những tình huống xảy ra, nhất là những “điểm nóng” về các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Thường xuyên lắng nghe ý kiến góp ý của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân địa phương về thực hiện mối quan hệ đoàn kết giữa đơn vị và nhân dân; kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về sự phối hợp hoạt động giữa đơn vị và địa phương trong công tác dân vận.

Bốn là, phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân”, nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân.

Xây dựng, phát huy sức mạnh của “thế trận lòng dân” và xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại là một chủ trương chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Do vậy, cần giáo dục để cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vai trò của “thế trận lòng dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa”(16). “Nhân hòa” nghĩa là tất cả mọi người đều nhất trí, là sự đồng lòng của toàn dân. Nhờ “thế trận lòng dân” mà “đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc”(17), và “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”(18). Trên cơ sở nhận thức đó, phát huy cao độ vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân” và xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, bảo đảm Quân đội là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Để “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(19) theo chủ trương của Đảng, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự địa phương các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-2-2019, của Chính phủ, “Về khu vực phòng thủ” gắn với thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Luật Quốc phòng năm 2018, các chiến lược chuyên ngành và Luật Lực lượng dự bị động viên năm 2019... Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương và phối hợp với các lực lượng đẩy mạnh xây dựng “thế trận lòng dân” và nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Đặc biệt, tăng cường xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ, trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quân sự, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, chiến lược, biên giới, biển, đảo.

Các đơn vị quân đội cần thực hiện tốt chức năng quản lý về quốc phòng; đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng nhằm góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo nền tảng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, làm cho toàn dân trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, không ngừng lớn mạnh, là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho sự nghiệp xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ mới./. #HB

Tác giả: PGS, TS Nguyễn Văn Bạo - Trung tướng, GĐHVCTQS

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI VỀ RÈN LUYỆN, TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

 

Sinh thời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thấu hiểu “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn trăm bài diễn văn tuyên truyền” theo tinh thần mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Đồng chí đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên, nhất là những người chức vụ càng cao, quyền hạn càng lớn thì càng phải gương mẫu về mọi mặt và phải hết sức tránh tình trạng “chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người!”. Hơn thế, bản thân đồng chí đã nêu một tấm gương sáng ngời trọn vẹn về tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; xứng đáng là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong rèn luyện, tu dưỡng theo yêu cầu chuẩn mực đạo đức cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đưa ra, ở mọi lúc mọi nơi, đồng chí đã luôn “lấy chữ Liêm làm đầu” và thực hành chữ "Liêm" gắn liền với đấu tranh quyết liệt để đi đến “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nhất là tệ tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện đúng nguyên tắc hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra là nói đi đôi với làm và tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Từ khi làm cán bộ ở Tạp chí Cộng sản tới vị trí Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết và làm việc một cách thật sự tận tụy, tận tâm, tận lực, quên cả thời gian và tuổi tác vì lợi ích đó. Đối với đồng chí, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng là hai mặt luôn đi đôi với nhau và diễn ra thường xuyên liên tục cả trong tư tưởng và trong thực tế.
Những lời nói, những bài viết, bài phát biểu của đồng chí được cán bộ, đảng viên và nhân dân lắng nghe, tin tưởng và làm theo vì ở đó là những tư tưởng lớn, những quan điểm lý luận, những triết lý có giá trị sâu sắc, được toát ra từ một khối óc sáng suốt tinh tường và từ một trái tim thật sự chân thành. Các tầng lớp nhân dân ta đều rất quan tâm đến các hoạt động của Tổng Bí thư qua các phương tiện thông tin đại chúng và khi thấy trên hình ảnh sức khỏe của Tổng Bí thư có biểu hiện giảm sút ít nhiều, người dân tâm tư lo lắng, nguyện cầu cho Tổng Bí thư sớm hồi phục để làm phụng sự Đảng, nhân dân và đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Điều này không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà vì dân ta rất hiểu về một con người với nhân cách cao đẹp, tài năng đức độ hiếm có, đứng đầu Đảng ta gần trọn ba nhiệm kỳ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhà lý luận xuất sắc của Đảng, có đóng góp to lớn vào xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đáng nói là lý luận chính trị và đạo đức cách mạng của đồng chí gắn kết với nhau, tạo nên sức hấp dẫn, thuyết phục đối với mọi người. Đồng chí đã thực hiện lời căn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng “muốn giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin thì trước hết tự mình phải trong sáng” và “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”.
Mọi người dân đều hiểu đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã sống trọn một đời trong sáng, giản dị, khiêm tốn và rộng lượng; thương người, tôn trọng và hòa đồng với mọi người; không ham phú quý, không màng lợi danh mà trọng danh dự của bản thân và của cả gia đình, để khi mất đi rồi còn để lại “tiếng thơm”. Đồng chí đã nói và làm theo triết lý nhân sinh ở đời và làm người, rằng "Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho có ý nghĩa, để không phải xót xa ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!".
Sự thống nhất giữa đức và tài trong nhân cách, phẩm chất của TBT Nguyễn Phú Trọng đã tạo nên uy tín, danh dự trước Đảng, Tổ quốc, nhân dân và sẽ sống mãi với thời gian, tạo thêm sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ động viên, khích lệ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên con đường xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng mất đi, trong lòng mỗi con dân nước Việt đầy nỗi tiếc thương và thấy phần trống trải, thêm nghĩ suy về vận nước, về Đảng, về phía trước của con đường đi tới bến bờ vinh quang, hạnh phúc của dân tộc.
Uy tín của TBT Nguyễn Phú Trọng để lại là rất đáng trân trọng. Di sản để lại là hết sức to lớn có giá trị lâu bền. Chúng ta nguyện kế thừa và phát huy giá trị của di sản này để xứng đáng với lòng tin và hy vọng tốt đẹp của đồng chí vào Đảng vào nhân dân, vào con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.
QĐND

NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 

Không trực tiếp xuất bản những cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, song Nhà xuất bản Khoa học Xã hội cũng đã rất may mắn và vinh dự khi phối hợp cùng Hội Triết học và Viện Triết học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho ra mắt cuốn sách “Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng” (GS,TS Lê Hữu Nghĩa và PGS,TS Nguyễn Tài Đông đồng chủ biên), tập hợp các bài viết tham dự Hội thảo Khoa học quốc gia cùng tên.
Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại niềm tiếc thương trong lòng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Trong di sản lý luận đồ sộ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, thể hiện qua cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2022).
Cuốn sách “Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng” dày 304 trang, được cấu trúc thành 2 phần, tập hợp các bài viết của các học giả, nhà nghiên cứu, với nội dung phân tích thêm những luận điểm mới mẻ, sâu sắc liên quan các chủ đề liên quan đến cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Phần thứ nhất: “Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, có thể kể đến các bài viết về một số điểm mới về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bối cảnh thế giới và phác thảo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… Qua các bài viết trong phần này, bạn đọc có thể biết được những điểm mới trong mô hình xã hội chủ nghĩa, ngoài mô hình tổng quát như về chủ nghĩa xã hội, cũng như mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nói nhiều trong các Văn kiện của Đại hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói đến mô hình chính trị của Việt Nam. Đó là mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Ngoài ra, phần thứ nhất còn làm rõ cho bạn đọc hiểu giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người; là xã hội phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội; là một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm; là xã hội phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường… Những giá trị mang lại của các bài viết trong phần này góp phần giúp bạn đọc hiểu rõ và vững tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phần thứ hai: “Một số vấn đề thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, liên quan đến nội dung ở phần này có thể kể đến các bài viết về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng và phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng… Ở phần này xuyên suốt các bài viết là các vấn đề thực tiễn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là để xây dựng được chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc luôn là tiêu chí được đặt lên hàng đầu, cùng với đó, cần luôn đảm bảo được công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế; nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là vô cùng cần thiết, là nhiệm vụ then chốt để có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều quan trọng là cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có tâm, có tầm, vừa hồng vừa chuyên. Qua các bài viết này sẽ giúp cho bạn đọc thấy được thực trạng, những điểm mới và những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nội dung trong các bài viết của các học giả đều đưa ra những phân tích, luận giải sâu sắc, những trao đổi thảo luận về các vấn đề đặt ra trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, qua đó đề xuất những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm góp phần bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cuốn sách "Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng'' đã góp phần nghiên cứu sâu sắc và nâng cao nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời lan tỏa những giá trị của cuốn sách mà Tổng Bí thư để lại./.
QĐND

CUỐN SÁCH CỦA TỔNG BÍ THƯ - LÝ LUẬN SÂU SẮC, THỰC TIỄN SINH ĐỘNG


Kể từ khi ra mắt tháng 5/2021, bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận quốc tế.
Bài viết không chỉ lý giải thấu đáo, làm rõ bản chất của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một xã hội mà trong đó “sự phát triển là thực sự vì con người," mà còn làm phong phú thêm cơ sở lý luận về tư tưởng xã hội chủ nghĩa của thế giới.
Chùm 2 bài viết “Cuốn sách của Tổng Bí thư - Ngọn đuốc rọi sáng đường đi” là tập hợp những phân tích, đánh giá của giới chính khách, học giả quốc tế về tác phẩm có tính lý luận, giá trị thực tiễn và tầm vóc thời đại này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Bài 1: Lý luận sâu sắc, thực tiễn sinh động
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Sri Lanka Dr. G. Weerasinghe đã trân trọng gọi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là "nhà lý luận xuất sắc trong phong trào cộng sản quốc tế," người đang vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện của Việt Nam và qua đó góp phần phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin trong thời đại hiện nay.
Điều đó được thể hiện rõ nét qua bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" với những lập luận chặt chẽ, nội dung phân tích toàn diện, sâu sắc và việc tổng kết thực tiễn cụ thể về con đường mà Việt Nam đã lựa chọn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đây là kết quả một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng, có hệ thống, tầm nhìn biện chứng, đúng đắn, tư duy lý luận sắc sảo cùng nền tảng kiến thức uyên thâm và sự hiểu biết thực tế tường tận, kinh nghiệm thực tiễn phong phú của Tổng Bí thư.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải và chứng minh một cách khoa học rằng con đường đúng đắn duy nhất để phát triển đất nước Việt Nam là chủ nghĩa xã hội; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Theo đánh giá của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nghiên cứu rất có hệ thống về chủ nghĩa Marx-Lenin và đưa chủ nghĩa Marx-Lenin kết hợp hài hòa với Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ việc hiểu sâu, hiểu kỹ về lý luận song song với việc triển khai thực hiện trên thực tế bằng đường lối, chính sách trong việc lãnh đạo, chỉ đạo con đường phát triển của Việt Nam, những nội dung này đều được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết và đưa vào bài viết.
Giới chuyên gia nhận định qua bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam và định hướng chiến lược cho tương lai đất nước, điều này cũng là đóng góp vào kho lý luận về chủ nghĩa xã hội, gợi mở hướng đi cho các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhất là việc áp dụng chủ nghĩa Marx-Lenin phù hợp với điều kiện đất nước.
Giáo sư Vu Hướng Đông, Viện trưởng Viện nghiên cứu Việt Nam thuộc trường Đại học Trịnh Châu, nhận định bài viết cho thấy Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhà lý luận và chính trị gia kiên định theo chủ nghĩa Marx-Lenin, đã dẫn dắt Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Giáo sư Hứa Lợi Bình, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện nghiên cứu Chiến lược toàn cầu và châu Á-Thái Bình Dương (CASS), Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc đánh giá qua bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề ra những đổi mới lý luận trong lĩnh vực xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng lấy người dân làm trung tâm, xuất phát từ nhu cầu của người dân và phù hợp với điều kiện, tình hình của đất nước.
Trong khi đó, ông Stefano Bonilauri, Giám đốc Nhà xuất bản Anteo Edizion, đơn vị đã xuất bản bản dịch tiếng Italy tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam," nhấn mạnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp to lớn về lý luận chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chứng minh khả năng phát triển đất nước theo mô hình này.
Những ý tưởng và thực tiễn của mô hình này đã cung cấp cơ sở lý thuyết quan trọng mà các quốc gia khác có mong muốn phát triển một nền kinh tế bao trùm, bền vững trong khi vẫn duy trì các giá trị xã hội chủ nghĩa, có thể nghiên cứu và áp dụng.
Ông Hàn Phương Minh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Hội nghị Chính trị Hiệp thương nhân dân (Chính hiệp) toàn quốc Trung Quốc, Chủ tịch Học hội nghiên cứu Chahar, chia sẻ nhìn từ phạm trù lý luận xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có sự đột phá lý luận mang tính sáng tạo, là một tổ chức kinh tế không chỉ tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, mà còn vận hành dưới sự dẫn dắt và chi phối của các nguyên tắc và tính chất của chủ nghĩa xã hội.
Ông nhận định bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết kinh nghiệm phát triển xã hội chủ nghĩa của Việt Nam về quản trị, điều hành đất nước, rất hữu ích cho việc trao đổi lý luận và chia sẻ nhận thức giữa các chính đảng trên thế giới, cung cấp cho cộng đồng quốc tế tham khảo nhiều giải pháp quản trị hơn.
Chia sẻ ý kiến trên, Tổng biên tập báo Resumen Latinoamericano, tờ báo cánh tả có uy tín tại Mỹ Latinh và Tây Ban Nha, ông Carlos Aznánez đánh giá công trình lý luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về các vấn đề chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sự phát triển của các nước.
Ông nhấn mạnh những đóng góp về mặt lý luận, tư tưởng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ hữu ích và phục vụ cho sự phát triển của Việt Nam mà còn giúp hiểu rõ những khó khăn mà người dân các nước phương Tây gặp phải trong việc đưa ra quyền tự quyết.
Nêu rõ những lý luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với các vấn đề chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những đóng góp nổi bật đối với phong trào cộng sản và phong trào công nhân trên thế giới, nguyên Chủ tịch Đảng Cộng sản Séc-Morava Vojtech Filip lưu ý Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đưa ra những phân tích thú vị về thực trạng, sự phát triển thế giới cùng những biện pháp có thể giúp ngăn ngừa khủng hoảng.
Nghiên cứu những bài viết của Tổng Bí thư, giới chuyên gia nhận rõ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu, đang xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên những giá trị cơ bản bền vững.
Đó là một xã hội trong đó sự phát triển phải thực sự phục vụ con người, một xã hội trong đó phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Một xã hội đoàn kết và hỗ trợ, trong đó sự giúp đỡ lẫn nhau là mệnh lệnh hằng ngày, như chia sẻ của Tiến sỹ Sandra Scagliotti, nhà Việt Nam học, Lãnh sự danh dự Việt Nam tại 2 vùng Piemonte và Liguria, miền Bắc Italy.
Từ ý nghĩa đó, nhà nghiên cứu lịch sử và chính trị Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Anh (CPB), ông Kyril Whittaker khẳng định Tổng Bí thư sẽ được nhớ đến không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới với tinh thần phụng sự vì nước vì dân cũng như những cống hiến cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thế giới.
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Sri Lanka Dr. G. Weerasinghe khẳng định Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo cách mạng truyền cảm hứng, người đã phát huy tinh thần cách mạng Việt Nam và góp phần định hướng phát triển chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ hiện đại, vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Còn ông Philip Degenhardt, Giám đốc Trung tâm Đối thoại và Hợp tác Quốc tế của RLS (Đức) đã nhận định: những nghiên cứu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ngôi sao dẫn đường” đối với con đường phát triển vì con người trên thế giới./.
TTXVN

NHẬN DIỆN VÀ PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NÔNG DÂN

 

Xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây hoài nghi, kích động người nông dân hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Việt Nam luôn là mục đích của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Bài viết giúp nhận diện luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân Việt Nam; làm rõ thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã đưa lại cho nông dân Việt Nam sự đổi thay nhiều mặt; khẳng định vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
1. Luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân
Cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng luôn là vấn đề trung tâm trong các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Trong hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với những chủ trương, đường lối đúng đắn, giai cấp nông dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị bần cùng hóa do chế độ thực dân, phong kiến đã trở thành lực lượng nòng cốt, một lòng đi theo Đảng, vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng CNXH và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sự thay đổi, phát triển về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tinh thần của giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm kể từ khi nước Việt Nam giành được độc lập, nhất là trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước là không thể phủ nhận, được nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, đó lại là cái “gai” trong mắt các thế lực thù địch, chúng cố tình không thừa nhận những thành quả mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam mang lại cho giai cấp nông dân Việt Nam, mà trái lại còn xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân nhằm gieo rắc hoài nghi, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục đích cuối cùng là gây bất ổn chính trị, xã hội, tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, chúng rêu rao rằng, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thường mị dân bằng các khẩu hiệu: “Nông dân là lực lượng cách mạng”, “Phải biết ơn nông dân”, “Phải ưu tiên phát triển hợp lý nông nghiệp”… nhưng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam còn kém phát triển, bị lép vế; nông dân là người thua thiệt đủ bề, công cuộc đổi mới đất nước không đem lại lợi ích gì cho người nông dân, mà trái lại đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản và cơ chế, chính sách của Nhà nước Việt Nam đã bóc lột nông thôn, nông dân để dồn sức cho công nghiệp hóa và phát triển đô thị.
Thứ hai, chúng xuyên tạc bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở do Đảng Cộng sản Việt Nam dựng lên, chỉ phục vụ cho Đảng, người nông dân không được tham gia bất cứ việc gì của Đảng và Nhà nước; không được tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội…
Thứ ba, vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam cướp đất của nông dân, dồn sức cho phát triển công nghiệp theo kiểu “đại nhảy vọt” mà không đếm xỉa đến quyền lợi của người nông dân.
Thứ tư, xuyên tạc chủ trương phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn là làm cho người nông dân bị bần cùng hóa ngay trên quê hương và ngay chính trên mảnh đất của họ.
Thứ năm, nhằm gieo rắc hoài nghi cho người nông dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thế lực thù địch đưa ra dự báo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, giai cấp nông dân Việt Nam sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội.
2. Thực tế đời sống người nông dân Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới
Một là, công cuộc đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đem lại đổi thay toàn diện cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Trong công cuộc đổi mới, thực hiện CNH, HĐH hóa đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý để phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giải phóng sức sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân nói riêng và cư dân nông thôn nói chung. Những chủ trương, chính sách đó đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn; tạo cơ hội mới về phát triển kinh tế, điều kiện sống và hưởng thụ văn hóa tốt hơn cho cư dân nông thôn nói chung và người nông dân nói riêng.
Từ các chủ trương, chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng hệ thống điện, “cứng hóa giao thông nông thôn”, “bê tông hóa kênh mương thủy lợi”, “kiên cố hóa trường học, trạm xá” đến xác định, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia như: xây dựng nông thôn mới; xóa đói, giảm nghèo; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…Nhà nước đã bố trí nguồn lực, đồng thời phát động phong trào, huy động sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tạo được nguồn lực đầu tư to lớn, làm cho nông nghiệp, nông thôn thay đổi toàn diện; tạo điều kiện, tiền đề quan trọng để người nông dân khai thác, phát huy mọi nguồn lực đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển nhanh và chuyển dịch mạnh mẽ.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường nông thôn được tăng cường về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế và chất lượng đời sống cho người nông dân. Hệ thống giao thông khu vực nông thôn được xây dựng, nâng cấp, bảo đảm tính kết nối cao, đáp ứng cơ bản nhu cầu giao thông của người dân cũng như lưu thông hàng hóa. Hệ thống điện được bao phủ hầu khắp khu vực nông thôn, vươn tới các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và dân sinh. Hệ thống thủy nông được đầu tư kiên cố hóa, nâng cao năng lực tưới tiêu, phục vụ hiệu quả cho phát triển nông nghiệp. Việc phát triển giao thông, điện, thủy lợi khu vực nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân bố trí sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; nông sản hàng hóa được lưu thông thuận tiện hơn.
Hệ thống tín dụng ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, quỹ hỗ trợ nông dân và các quỹ phát triển khác bao phủ hầu khắp khu vực nông thôn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh của nông dân.
Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư được quan tâm đầu tư về nhân lực, vật lực; hoạt động tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh, giúp nông dân ngày càng tiếp cận tốt hơn với tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học cũng như cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và tiếp cận thị trường, giúp người nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hệ thống chợ phát triển thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ đã hỗ trợ sản xuất và dân sinh đa dạng, rộng khắp, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu vật tư hàng hóa cho sản xuất, cũng như tiêu thụ sản phẩm của nông dân.
Cơ sở sản xuất công nghiệp hình thành và phát triển ở khu vực nông thôn, nhất là cơ sở chế biến nông, lâm, thủy hải sản đã tạo việc làm mới, thu hút lực lượng lớn lao động, trong đó chủ yếu là nông dân; tạo liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và nông dân theo chuỗi giá trị.
Làng nghề được rà soát, quy hoạch lại cùng chính sách hỗ trợ, khôi phục, phát triển làng nghề được ban hành góp phần quan trọng làm cho sản phẩm hàng hóa làng nghề ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường, đem lại lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội cho khu vực nông thôn, tạo việc làm, thu nhập và sinh kế ngày càng bền vững cho người dân nông thôn.
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đạt kết quả quan trọng. Đặc biệt, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; 12 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, khu vực nông thôn Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét trên tất cả các lĩnh vực: nông thôn thay đổi toàn diện, kinh tế nông thôn phát triển và chuyển dịch nhanh chóng, thu nhập của người nông dân ngày càng tăng, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện rõ rệt đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. “Nông nghiệp… tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng,… góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(1).
Tư duy, cách nghĩ, cách làm của nông dân thay đổi, từng bước chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất hàng hóa lớn; từ kinh tế hộ đơn lẻ sang hợp tác, liên kết, liên doanh theo chuỗi; từ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống sang ứng dụng khoa học công nghệ; từ coi trọng năng suất sang coi trọng chất lượng sản phẩm; lợi nhuận gắn với an toàn thực phẩm và phát triển bền vững. Các mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại tổng hợp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị đã mang lại nhiều thuận lợi cho tổ chức sản xuất và hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Lòng tin của người nông dân đối với Đảng ngày càng được củng cố vững chắc.
Hai là, dân chủ cơ sở được phát huy, đời sống chính trị, văn hóa của cư dân nông thôn ngày càng được nâng cao; an sinh xã hội ngày càng được bảo đảm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững
Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm thực hiện quan điểm của Đảng về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Hiến pháp năm 2013 với tinh thần đề cao quyền làm chủ của nhân dân đã quy định các hình thức thực hiện quyền dân chủ như: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6); Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và yêu cầu thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2)…
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, để quyền làm chủ của người dân ngày càng được bảo đảm, phát huy trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở cơ sở, từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã ban hành và nhiều lần sửa đổi, bổ sung văn bản pháp quy về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như: Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và mới đây là Luật Thực hiện dân chủ cơ sở. Dân chủ đại diện được phát huy mạnh mẽ, dân chủ trực tiếp được mở rộng, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ngày càng được thực hiện đồng bộ, cụ thể và đạt hiệu quả thiết thực; vai trò, vị trí của người nông dân trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội được khẳng định mạnh mẽ.
Qua đó, góp phần quan trọng phát huy tinh thần đoàn kết, lòng yêu quê hương, đất nước; phát huy sức mạnh, sức sáng tạo của người dân nói chung, người nông dân nói riêng trong tham gia bàn bạc, quyết định những công việc của địa phương, của đất nước; người dân góp ý kiến xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý xây dựng Đảng, chính quyền; giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Bầu không khí dân chủ được rộng mở đã tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân nói chung, nông dân nói riêng đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Với quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần”, trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm nâng cao đời sống tinh thần nhân dân và để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hệ thống thiết chế văn hóa, thông tin được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thụ hưởng văn hóa và thông tin của cư dân nông thôn. Văn hóa truyền thống được khơi dậy, bảo tồn và phát huy, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hầu hết các loại hình sinh hoạt văn hóa phi vật thể của nhân dân ở các vùng, miền đều được Nhà nước và chính quyền các cấp tổ chức sưu tầm, công nhận và bảo tồn, trong đó có một số được Nhà nước đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Các lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc được khôi phục và được tổ chức hằng năm, các giá trị truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp được giữ gìn và tôn vinh… đã đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Loại hình du lịch cộng đồng được phát triển nhiều nơi đã mở ra hướng kinh doanh mới, tạo việc làm, thu nhập bền vững cho người nông dân, góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại, hiệu quả.
Lĩnh vực giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư và phát triển. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ngày càng được tăng cường; mạng lưới cơ sở giáo dục ngày càng được mở rộng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hệ thống trường lớp từ mầm non đến giáo dục phổ thông được xây dựng mới, nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu giáo dục của nhân dân nói chung và cư dân nông thôn nói riêng.
Hệ thống y tế cơ sở, trong đó nòng cốt là trạm y tế xã được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực. Công tác chăm sóc sức khỏe cho cư dân nông thôn được quan tâm; năng lực, chất lượng y tế dự phòng và khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân ngày càng tốt hơn; chính sách bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện tốt. Kết quả đó đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện các chỉ số sức khỏe, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng với chi phí hợp lý cho người nông dân, góp phần tăng cường và hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định rõ quan điểm: “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Với quan điểm đó, công tác xóa đói, giảm nghèo luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm. “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo” của Liên hợp quốc được Việt Nam thực hiện tốt với nhiều cách làm sáng tạo.
Chính phủ đã hỗ trợ toàn diện cho người nghèo, như: hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; bảo đảm mọi người trong hộ nghèo đều có cơ hội tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh thông qua bảo hiểm y tế; miễn giảm học phí cho học sinh nghèo; hỗ trợ về nhà ở, nước sạch và nước hợp vệ sinh; hỗ trợ dạy nghề và tìm kiếm việc làm; trợ giúp pháp lý, vay vốn tín dụng ưu đãi; giải quyết đất ở, đất sản xuất, giao rừng… Nhiều huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã được đầu tư cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh.
Đánh giá về thành công của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói giảm nghèo, bà Caitlin Wiesen - đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đánh giá: “Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất về xóa đói, giảm nghèo trên thế giới. Việt Nam được thế giới công nhận thành tựu xóa đói giảm nghèo phi thường về giảm tỷ lệ nghèo cùng cực, từ 49% dân số vào năm 1992 xuống chỉ còn 2% vào năm 2016. Việt Nam đã giảm đáng kể tỷ lệ nghèo đa chiều, từ 16% vào năm 2012 xuống còn 5% vào năm 2018. Hơn 6 triệu người thoát khỏi nghèo đói trong 6 năm, điều này thật phi thường. Khi so sánh với các nước khác, tỷ lệ nghèo đa chiều của Việt Nam thấp hơn 5% so với hầu hết các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”(3).
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được khơi dậy mạnh mẽ, hiệu quả, thiết thực. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã chỉ đạo, giải quyết ổn định các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai ngay tại cơ sở, không để hình thành các điểm nóng, phức tạp về an ninh, trật tự;… Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện nội dung Tiêu chí “Xã đạt chuẩn an toàn về an ninh, trật tự xã hội và bảo đảm bình yên” được quan tâm,… Giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện trong quá trình triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội, giải phóng mặt bằng liên quan đến an ninh nông thôn.
Ba là, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người nông dân
Việc thực hiện quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thu hồi đất để xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế, cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch được thực hiện công khai, dân chủ, được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ, đã đáp ứng ngày càng tốt cho phát triển sản xuất kinh doanh, đời sống dân sinh, cũng như nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giáo dục, y tế của nhân dân; thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm mới, tạo điều kiện để lao động nông nghiệp, nhất là lao động trẻ chuyển sang làm việc trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, qua đó tác động tích cực tới việc nâng cao chất lượng lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Bên cạnh những lợi ích đó, khi thu hồi đất, Nhà nước đã có các chính sách bồi thường, tái định cư hợp lý, được hầu hết những người có quyền, lợi ích liên quan đồng tình. Đồng thời, Nhà nước có chính sách đào tạo nghề cho những người trong độ tuổi có đất bị thu hồi để họ chuyển sang ngành nghề mới, ổn định cuộc sống. Với những chính sách đúng đắn đó, hầu hết người dân có đất bị thu hồi đều có nơi ở mới bằng hoặc hơn nơi ở cũ; có ngành nghề, việc làm mới phù hợp, thu nhập ổn định, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện.
Bốn là, xây dựng, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao đã nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa và tăng thu nhập cho người nông dân
Để phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, tạo vùng sản xuất chuyên canh, tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, Đảng và Nhà nước đã ban hành và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách khuyến khích “dồn điền, đổi thửa”, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, xây dựng cánh đồng mẫu lớn; khuyến khích phát triển kinh tế trang trại; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
Đại đa số nông dân đã nhận thức rõ về tính tất yếu trong liên kết, hợp tác sản xuất, sự cần thiết trong sản xuất hàng hóa quy mô lớn là xu hướng tất yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, với cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, người nông dân đã tích cực, chủ động thực hiện tích tụ, tập trung đất nông nghiệp; thực hiện “dồn điền, đổi thửa”; tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ; khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất đai, lao động, nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất; phát triển kinh tế tập thể, các tổ hợp tác, liên kết giữa các hộ nhằm tập trung đất đai, tiền vốn, năng lực quản lý để hình thành các mô hình chuyên canh, vùng sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao. Với chính sách khuyến khích đầu tư phát triển trang trại, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn nhận những vùng đất hoang hóa, xa, xấu, cằn cỗi để đầu tư phát triển trang trại, tạo ra việc làm cho gia đình và cho nhiều nông dân trong địa phương.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp sẽ là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định như: Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29-01-2010, phê duyệt “Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”; Quyết định số 1895/QĐ-TTg, ngày 17-12-2012, phê duyệt “Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020”. Để thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, trong đó chỉ rõ: “Hiện đại hóa, thương mại hóa nông nghiệp, chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, sản xuất lớn, dựa vào khoa học - công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng. Chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất lương thực là chủ yếu sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với lợi thế của từng vùng”(4)…
Nghị quyết là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Qua đó, lợi thế từng địa phương được khai thác hiệu quả hơn, cơ cấu sản xuất nông nghiệp được điều chỉnh theo hướng gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi và quy trình sản xuất tiên tiến được áp dụng, nhất là quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) đã tạo ra những sản phẩm an toàn, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
Năm là, nông dân Việt Nam là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới hướng tới văn minh, phát triển toàn diện, có thu nhập cao; là lực lượng quan trọng bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
Người nông dân từ miền ngược đến miền xuôi, từ ven biển, hải đảo đến miền núi, biên cương không chỉ là trung tâm của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà họ đã thực sự là chủ thể nắm bắt những cơ hội, điều kiện thuận lợi do cơ chế, chính sách mang lại, chủ động tiếp cận những thành quả chung và tận dụng, phát huy, tạo ra những đổi thay quan trọng trong suy nghĩ, trong cách làm về phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mình. Đồng thời, nông dân cũng thực hiện đầy đủ, tự giác trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp khắc phục nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của nông nghiệp, hiện đại của nông thôn và xây dựng người nông dân hướng tới văn minh, hội nhập, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: nông dân “là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội,... giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”(5), “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới... Mục tiêu cao nhất trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn. Chú trọng xây dựng nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, văn minh, yêu nước, đoàn kết,… có ý chí, khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc;… trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; được thụ hưởng những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước tiếp cận các dịch vụ của đô thị... Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ;... đời sống văn hoá lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm... Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nông thôn cần chú trọng phát triển hài hoà, đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, gắn với cơ cấu lại lao động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân và cư dân nông thôn, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả và bền vững(6). Từ quan điểm đó, Đảng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo và chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản để đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống như: Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28-7-2021 của Quốc hội về việc “phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22-2-2022 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 28-01-2022 về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025”; Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14-10-2021 “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025”. Phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2019 - 2025”;… Đồng thời, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách an sinh xã hội như: Trợ cấp cho người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và đang đề nghị thực hiện đối với người từ 75 đến dưới 80 tuổi; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng chính sách, người già, hộ nghèo, hộ cận nghèo; cho nông dân vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội, từ Quỹ hỗ trợ nông dân; thực hiện miễn, giảm thuế…
Với những thành quả, bài học kinh nghiệm trong những năm qua và việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện trong những năm tới, chắc chắn rằng nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành công mới. Người nông dân luôn là trung tâm, là chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; là người tham gia ý kiến, quyết định và hưởng lợi trực tiếp từ kết quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp, dịch vụ; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Như vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định mục tiêu cao nhất trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn, không phải như các luận điệu xuyên tạc, phản động của thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị. Do vậy, không có cơ sở khoa học, thực tiễn nào để nói rằng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 người nông dân Việt Nam bị bần cùng hóa và tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị, xã hội./.
Tạp chí Lý luận Chính trị