Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

VIỆT NAM -THẾ GIỚI: KHÁNH THÀNH TƯỢNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TẠI SAINT PETRBURG CỦA NGA!

     Ngày 30/6, chính quyền thành phố Saint Petersburg (Nga) phối hợp phía Việt Nam long trọng tổ chức lễ khánh thành bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đúng dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu đến Petrograd, nay là Saint Petersburg (30/6/1923-30/6/2023).
Tượng Bác cao 3m, bệ tượng cao 1,5m, hướng về phía đông, phía Việt Nam. (Ảnh: THANH THỂ)
Tượng Bác cao 3m, bệ tượng cao 1,5m, hướng về phía đông, phía Việt Nam. (Ảnh: THANH THỂ)

Dự buổi lễ, về phía Nga có Thống đốc Saint Petersburg Alexander Beglov, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Liên bang (Thượng viện) Nga Andrey Yatskin, lãnh đạo Ủy ban Đối ngoại Saint Petersburg và các cơ quan liên quan.

Về phía Việt Nam, có đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cùng nhiều đoàn đại biểu Bộ Ngoại giao, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại Nga, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Hữu nghị Việt-Nga, Hội người Việt Nam tại Nga.

Tại khuôn viên nơi giao nhau giữa con phố mang tên “Hồ Chí Minh” và đại lộ “Khai sáng”, trong không gian ngập cờ, hoa, trước sự chứng kiến của đông đảo người dân hai nước, tấm vải đỏ có ngôi sao vàng năm cánh phủ trên tượng Bác được kéo xuống, chính thức khánh thành bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh thứ năm tại Nga. Tượng Bác cao 3m, bệ tượng cao 1,5m, hướng về phía đông, phía Việt Nam.

Khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Saint Petersburg của Nga ảnh 1

Đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh dự lễ khánh thành bức tượng. (Ảnh: THANH THỂ)

Phát biểu ý kiến tại buổi lễ, Thống đốc Saint Petersburg Alexander Beglov nhấn mạnh, cách đây đúng 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân đến thành phố Petrograd, nay là Saint Petersburg, trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Người có một mong ước là đất nước Việt Nam giành được độc lập, nhân dân Việt Nam có cơm no, áo ấm, trẻ em được đến trường. Cùng với nhân dân Việt Nam anh hùng, Người đã làm tất cả để mong ước đó thành hiện thực.

Theo Thống đốc Saint Petersburg, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho mối quan hệ truyền thống Nga-Việt Nam, và các thế hệ người dân hai nước tiếp tục củng cố, phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống đáng quý nhất.

Cảm động tham dự buổi lễ long trọng khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên bày tỏ biết ơn lãnh đạo và nhân dân Nga vì tình cảm và sự yêu mến dành cho lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Văn Nên nhấn mạnh, người dân Việt Nam xem quyết định dựng tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh của phía Nga có ý nghĩa chính trị và nhân văn sâu sắc; đồng thời tin tưởng, bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Saint Petersburg sẽ trở thành địa điểm văn hóa mới cho người dân hai nước, nhắc nhớ các thế hệ nỗ lực hơn nữa nhằm vun đắp cho tình hữu nghị Việt Nam-Nga.

Khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Saint Petersburg của Nga ảnh 3

Buổi lễ khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra trang trọng. (Ảnh: THANH THỂ)

Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Liên bang (Thượng viện) Nga Andrey Yatskin khẳng định, Việt Nam luôn là đối tác tin cậy của Nga. Tình hữu nghị giữa hai đất nước đã được chứng minh qua thời gian, thử thách, và đang tiếp tục được củng cố, phát triển mạnh mẽ hiện nay trong nhiều lĩnh vực.

Việt Nam luôn là đối tác tin cậy của Nga. Tình hữu nghị giữa hai đất nước đã được chứng minh qua thời gian, thử thách, và đang tiếp tục được củng cố, phát triển mạnh mẽ hiện nay trong nhiều lĩnh vực.

Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Liên bang Nga Andrey Yatskin!

Thay mặt toàn thể cộng đồng người Việt Nam tại Nga, Đại sứ Việt Nam tại Nga Đặng Minh Khôi gửi lời cảm ơn chân thành đến các lãnh đạo hai nước, cũng như các tổ chức, cá nhân đã cùng chung tay thực hiện dự án dựng tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Saint Petersburg của Nga ảnh 4

Các đại biểu dâng hoa tưởng nhớ Người. (Ảnh: THANH THỂ)

Đại sứ nhấn mạnh, bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, góc bảo tàng về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ngôi trường 488 gần đó, cùng con phố mang tên “Hồ Chí Minh” và đại lộ “Khai sáng” sẽ tổng thể tạo nên biểu tượng mới cho tình hữu nghị Việt Nam-Nga.

Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam Nguyễn Phương Nga khẳng định, người dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ trong sáng, vô tư của nhân dân Liên Xô trước đây, nước Nga ngày nay, dành cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Người dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ trong sáng, vô tư của nhân dân Liên Xô trước đây, nước Nga ngày nay, dành cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam Nguyễn Phương Nga!

Theo bà Nguyễn Phương Nga, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành tại Saint Petersburg là sự kiện vô cùng trọng đại, biểu hiện của tình hữu nghị nhân dân hai nước, của tình cảm người dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

Khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Saint Petersburg của Nga ảnh 5

Tiết mục văn nghệ chào mừng lễ khánh thành. (Ảnh: THANH THỂ)

Tại buổi lễ, người dân hai nước không giấu nổi tự hào, xúc động, thành kính dâng lên Người những bông hoa tươi thắm; cùng nhau thưởng thức những điệu múa, tiết mục văn nghệ ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời tin tưởng bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ trở thành "địa chỉ đỏ" tại "thủ đô phương bắc" nước Nga.

Nhân dịp này, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên tham gia nghi thức bắn pháo tại Pháo đài Petropavlovsk, chào mừng kỷ niệm 100 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu đến Petrograd và chúc mừng lễ khánh thành tượng Bác tại Saint Petersburg diễn ra thành công tốt đẹp./.

Môi trường ST.

THÁNG 7.


Xin chào tháng 7 thân quen

Nắng hè se dịu cho sen nở hồng 

Tháng 7 Tổ quốc ghi công

Người nằm xuống giữ núi sông vẹn toàn.

Để cho đất nước khải hoàn 

Chiến công oanh liệt mãi còn vang xa.

Tháng 7 đến với chúng ta

Mừng vui đón nhận đóa hoa đồng tiền

Nhân niềm tin, bớt muộn phiền.

Cầu cho tất cả mọi miền bình yên.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: ĐỀ VĂN VIỆT NAM CÓ KÉM CỎI HƠN SO VỚI ĐỀ VĂN TRUNG QUỐC?

     Cứ mỗi năm đến dịp Kỳ thi Cao Khảo (Trung Quốc) và Kỳ thi THPT Quốc gia (Việt Nam) thì nhiều cư dân mạng Việt Nam bắt đầu đi so sánh, tự nhục rồi chê bai nước mình. Họ lấy các đề thi văn của Trung Quốc, rồi quay sang chỉ dạy rằng phải đề văn như thế này, như thế kia, phải triết học pha lẫn nho giáo, rồi vừa nhân sinh nhưng lại phải thời cuộc, vừa chính trị nhưng lại phải đậm tính thường nhật… 

Nhưng tính chất của Cao Khảo vào Kỳ thi THPT Quốc gia là hoàn toàn khác nhau.

Trước tiên, cần phải biết rằng Cao Khảo là cuộc thi tuyển sinh cạnh tranh gắt gao bậc nhất thế giới. Trong cả chục triệu học sinh ứng tuyển, chỉ có 0,5 - 1% học sinh trở thành sinh viên của những trường đại học hàng đầu Trung Quốc. Ngoại trừ các trường hợp tuyển thẳng, các trường ĐH đỉnh chóp của Trung Quốc như Bắc Đại, Thanh Hoa, Vũ Hán, Phúc Đán… đều dựa vào kỳ thi này để lấy điểm xét tuyển vào trường. Mức phân hóa, phân loại thí sinh, độ khó của Cao Khảo là cao hơn rất nhiều và thậm chí còn cao hơn Suneung (kỳ thi tương tự của Hàn Quốc). Vậy nên, các đề thi văn Cao Khảo của Trung Quốc bắt buộc phải có mức độ khó, phân loại.

Còn kỳ thi THPT Quốc gia của Việt Nam được tổ chức rút gọn hơn trước rất nhiều. Áp lực thi cử cũng giảm so với hồi còn duy trì thi riêng tách biệt giữa Kỳ thi tốt nghiệp THPT và Kỳ thi đại học, cao đẳng... Ví dụ như môn Văn trước là 180 phút đã giảm xuống còn 120 phút, môn Sử - Địa từng là đề tự luận 180 phút nhưng hiện tại đã là tổ hợp môn giảm xuống mỗi môn còn 50 phút… Mục tiêu của kỳ thi THPT Quốc Gia được ghi trong Quy chế thi có ghi rõ ràng mục tiêu là xét tốt nghiệp, sau đó là cung cấp dữ liệu cho việc tuyển sinh đại học. Thậm chí, các trường hàng đầu Việt Nam đều tổ chức nhiều phương án xét tuyển riêng như kỳ thi đánh giá năng lực riêng, xét tuyển qua học bạ, phỏng vấn… Vậy nên, các đề thi Văn trong kỳ thi THPT Quốc gia không thể mang độ khó cao được.

Hai cuộc thi với mục tiêu khác nhau, định hướng khác nhau, tính chất khác nhau… dẫn đến độ khó, tính phân loại cũng phải khác nhau. Vậy nên nếu so sánh, rồi hạ thấp một cái thì có đúng không? Có công bằng không? Nếu muốn so sánh độ tính chất, độ khó của Cao Khảo thì phải so với kỳ thi HSG cấp tỉnh thì có lẽ sẽ hợp lý hơn.

Tiếp nữa, nhiều người hay đọc được dăm ba cái đề thi Trung Quốc trên mạng, rồi ca ngợi là đề thi Trung Quốc không có phần phân tích, đọc hiểu văn bản rồi nào là giáo dục Việt Nam máy móc, chỉ biết đưa các tác phẩm văn học cho các em phân tích… Xin được nói thẳng, ai mà có tư tưởng này thì gần như chắc chắn là những con người chỉ biết hùa, ếch ngồi đáy giếng. 

Xin được ví dụ đề thi Toàn quốc B của Kỳ thi Cao Khảo 2023, có phần thực hành văn bản về đoạn trích trong cuốn Underland: A Deep Time Journey của tác giả Robert MacFarlane. Rồi đọc hiểu một tác phẩm của nhà văn đương đại Tào Duệ Dũng (một nhà văn cùng thời với nhà thơ Anh Ngọc trong đề văn năm nay). Hay viết nghị luận về bài báo của nhà văn Vương Phu Nhân.

Ngoài ra, còn cả phần đọc - hiểu thơ văn cổ của các tác giả như Hán Phi Tử Thập Công, Lữ Bạn. Rồi có cả phần đề về việc hoàn thành các câu trong các đoạn văn nổi tiếng, bắt buộc thí sinh phải học thuộc rất nhiều tác phẩm, tác giả để giải được. Còn đề thi Toàn quốc A lại đề cập đến các tác phẩm của các tác giả Tư Mã Thiên, Hector McDonald's, Trần Côn… 

Trung Quốc nổi bật về văn chương thời kỳ phong kiến. Lịch sử phong kiến Trung Quốc dày dặn và huy hoàng là điều không cần phải bàn cãi. Còn văn học Việt Nam lại mạnh về văn học cách mạng, gắn với bối cảnh lịch sử và các cuộc kháng chiến. Mỗi quốc gia có một thế mạnh khác nhau. Sở dĩ Trung Quốc không mạnh về thời kỳ văn học cách mạng vì đơn giản Trung Quốc có “cách mạng văn hóa”, rồi lịch sử cách mạng của Trung Quốc có rất nhiều điều tranh cãi mà chính quyền Trung Quốc không muốn phô ra một cách mạnh mẽ… Và văn học Trung Quốc thời kỳ này cũng phân hóa mạnh mẽ giữa những luồng tư tưởng đối nghịch giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản…. 

Đọc được dăm ba cái đề thi không đầy đủ của Trung Quốc rồi phán xét cứ như mình là thí sinh Cao Khảo. Biết được vài câu đề nghị luận xã hội mà cứ ngỡ như Trung Quốc không thèm đưa việc phân tích tác phẩm, tác giả vào không bằng. 

Và những đề Văn của Việt Nam, có thực kém cỏi, giáo điều, sáo rỗng hay không? 

Đề thi chọn học sinh giỏi văn của Hà Nội năm 2022 lấy ví dụ Steve Jobs bàn về chính mình và sự chuẩn bị cho hành trình của cuộc đời. Còn đề thi học sinh giỏi Trà Vinh năm 2023 bàn về “lòng tốt không chỉ giữ trong tim mà cần được bộc lộ qua bên ngoài”. Còn đề thi của tỉnh Quảng Trị từng khiến bao thí sinh rơi nước mắt khi tôn vinh ba người lính cứu hỏa đã hy sinh với bình luận “Những con người bình thường dám sống một cuộc đời phi thường”... Đề thi của Khánh Hòa thì mượn lời nhân vật Mirabel trong bộ phim hoạt hình Encanto: “Điều kì diệu không phải là phép màu mà bạn có được. Điều kì diệu chính là bạn”...

Đề thi học sinh giỏi lớp 9 của tỉnh Hà Tĩnh từng làm cộng đồng mạng bàn tán chỉ có 2 câu ngắn chưa đầy nửa trang A4, nhưng trong đó nổi cộm hai vấn đề. Vấn đề đầu tiên là "kết nối và chặn". Vấn đề thứ 2 là "văn chương có giá trị và tiếng nói cá nhân". 

Đọc những đề trên có "hại não" không? Có "ngầu" không? Có “bánh cuốn” không? Cả năm có khi chỉ đọc mỗi đề thi văn THPT Quốc gia, mà đọc có khi còn chả hiểu, nhưng lại bày trò phân tích, so sánh, chỉ trích… Đã bao giờ thử tìm kiếm đề thi văn học sinh giỏi của mỗi tỉnh chưa? Và làm thử chưa? 

Nhưng nhiều người cứ mải mê, ca ngợi những gì ở nước bạn. Mà chẳng bao giờ chịu tìm hiểu, đào sâu, phát huy hay khơi gợi những gì hay ho ở nước mình, rồi cứ tự nhục, cứ ca thán, cứ bâng quơ./.
Yêu nước ST.

Phản bác những luận điệu xuyên tạc về báo chí cách mạng Việt Nam

 Lợi dụng dịp kỷ niệm 98 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc đời sống báo chí tại Việt Nam. Vẫn những luận điệu cũ được rêu rao từ năm này qua năm khác, chúng “nhắm mắt nói liều” rằng “tự do báo chí tại Việt Nam bị chính quyền cấm cản”, “báo chí Việt Nam bị kiểm soát chặt”, “Việt Nam không có tự do báo chí”… Từ những thông tin sai lệch này, các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” đòi chính quyền phải thay đổi quy định về quản lý báo chí, “trả tự do cho báo chí” (?!).

Lâu nay, các tổ chức như Phóng viên không biên giới (RSF); các đài BBC, RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số tổ chức, cá nhân phản động luôn tìm cách xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Mới đây, RSF đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2023”. Trong bảng xếp hạng, RSF xếp ba nước đứng cuối bảng đều ở châu Á, trong đó xếp Việt Nam hạng 178.

Về bảng đánh giá tự do báo chí World Press Freedom Index hằng năm được RSF đưa ra, không khó để thấy căn cứ đánh giá, xếp hạng của RSF không thuyết phục. Riêng đối với Việt Nam, RSF không có một nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể nào về tình hình báo chí. Đồng thời, tổ chức này cũng không sử dụng bất kì báo cáo nào của Chính phủ Việt Nam để đưa ra đánh giá.

Trái lại việc RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam lại thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp, do đó thông tin không khách quan, sai thực tế về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Năm nay, RSF vẫn xếp Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đứng gần cuối trong “Bảng xếp hạng chỉ số tự do báo chí thường niên năm 2023”, tạo cớ để các tổ chức, cá nhân phản động triệt để sử dụng nhằm quy kết, chống phá Việt Nam.

Tại Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 3/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 nêu rõ quan điểm: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Những năm qua, cùng với sự bùng nổ của công nghệ truyền thông, nền báo chí nước ta cũng có sự phát triển nhanh chóng, góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa và con người Việt Nam.

Tự do báo chí, tự do ngôn luận là quyền cơ bản của mỗi công dân. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 của nước ta ghi nhận rõ: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đồng thời, Luật Báo chí cũng nghiêm cấm các hành vi cản trở việc in, phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí hợp pháp tới công chúng; đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên; phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo, phóng viên hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật. Với hành lang pháp lý như trên, hoạt động báo chí ở nước ta đã có sự phát triển toàn diện.

Xét trên phương diện số lượng, đến cuối năm 2022, nước ta có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (bao gồm 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học và 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Trong đó, có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực là Báo Nhân dân, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân và Báo Công an nhân dân. Số lượng nhân sự đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí là gần 41.000 người, với 19.356 nhà báo đã được cấp thẻ. Nhiều vấn đề bất cập, gây bức xúc trong dư luận đã được báo chí phản ánh và các cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời tiếp thu, giải quyết.

Đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng, vừa góp phần phát hiện các vụ việc vi phạm, vừa đóng góp những ý kiến, giải pháp để hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng. Cùng các cơ quan báo chí trong nước, trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhiều cơ quan báo chí nước ngoài đã đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú tại Việt Nam. Ngoài ra, hiện có khoảng 57 kênh truyền hình nước ngoài được cung cấp trên dịch vụ truyền hình của Việt Nam. Rõ ràng, đời sống báo chí ở Việt Nam đang diễn ra hết sức sôi nổi.

Ở nước ta đang tồn tại, phát triển đầy đủ các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Về cơ bản, các cơ quan báo chí đã thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong dòng chảy phát triển của khoa học, công nghệ, hoạt động báo chí ở nước ta cũng đang chuyển đổi theo hướng tích cực.

Với mục tiêu xây dựng các cơ quan báo chí ngày càng chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, làm tốt sứ mệnh thông tin, đổi mới hiệu quả trải nghiệm của độc giả, ngày 06/4/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 348/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược “Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Điều này cho thấy rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với sự phát triển của báo chí.

Cùng với các cơ quan báo chí, mạng xã hội tại Việt Nam cũng phát triển vô cùng mạnh mẽ. Theo Báo cáo Digital tại Việt Nam 2023 được We are social đưa ra, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77.93 triệu người sử dụng Internet, chiếm khoảng 79.1% tổng dân số, tăng thêm 5.3 triệu người so với năm 2022. Số lượng người đang dùng mạng xã hội là khoảng 70 triệu người. Trong đó, 5 ứng dụng mạng xã hội phổ biến là Facebook (91.6%), Zalo (90.1%), TikTok (77.5%), Facebook Messenger (77%) và Instagram (55.4%). Thông qua mạng xã hội, mỗi người dùng đều dễ dàng đăng tải, chia sẻ, bình luận thông tin liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng vào bảo đảm. Đồng thời, việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải tuân thủ nghiêm theo đúng quy định của pháp luật. Mọi trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để tiến hành các hoạt động chống phá chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc lịch sử, xúc phạm dân tộc, đe doạ đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; lợi dụng tự do báo chí để xúc phạm quyền, lợi ích  hợp pháp của cá nhân, tổ chức là vi phạm pháp luật và tùy mức độ, tính chất vi phạm mà bị xử lý chế tài tương ứng. Mọi hoạt động lợi dụng vỏ bọc báo chí để “bán nước cầu vinh”, chống phá nền hoà bình, ổn định của dân tộc đều phải bị lên án và xử lý nghiêm khắc.

Những thông tin sai trái về tình hình báo chí của Việt Nam được các đối tượng xấu đưa ra đang đi ngược lại thực tế, nằm trong mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam.

Đấu tranh phản bác thủ đoạn lợi dụng sửa đổi Luật Đất đai để chống phá

 Thời gian gần đây, lợi dụng việc sửa đổi Luật Đất đai, các thế lực thù địch và bọn phản động ráo riết tung ra các thông tin, luận điệu sai trái, tiêu cực nhằm chống phá Đảng và Nhà nước. Chúng đăng tải nhiều bài viết, thông tin mang tính chất xuyên tạc trắng trợn về chính sách đất đai, đưa ra luận điệu, cổ súy tư nhân hóa đất đai, cho rằng Nhà nước ta không đủ năng lực để quản lý đất đai.

Những luận điệu chúng đưa ra có vẻ quan tâm, lo cho quyền lợi cho người dân, nhưng những phát ngôn trên đều vô căn cứ, nhằm mưu đồ phá vỡ ổn định chính trị, làm chậm sự phát triển của đất nước.

Điều đầu tiên ta phải khẳng định, đất đai là thành quả của sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu dài của dân tộc ta, chế độ sở hữu như thế nào đi nữa cũng phải hướng tới mục đích tạo nguồn mưu sinh cho người dân và ổn định xã hội, không thể hy sinh lợi ích của số đông chỉ để có một chế độ sở hữu như các nước khác. Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân thể hiện đúng bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 dựa trên cơ sở lý luận về tính tất yếu khách quan của việc xã hội hóa đất đai. Từ đó tới nay, qua 05 lần sửa đổi Hiến pháp và 06 lần sửa đổi Luật Đất đai, Đảng ta luôn kiên định quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý và sử dụng hiệu quả. Tại Hiến pháp 2013 và Điều 4 Luật Đất đai 2013 tiếp tục quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về quản lý sử dụng đất và dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lấy ý kiến nhân dân góp ý từ 03/01-15/3/2023, đề cập rõ quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, việc quản lý đất đai và chế độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của công dân, người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này thể hiện Đảng ta đã nói đi đôi với làm, cụ thể hoá phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Tất cả đất đai đều thuộc quyền sở hữu của nhân dân, nhưng phải do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý chứ không phải bất cứ cá nhân nào.

Việc tư nhân hóa là chưa hợp lý, bởi thực tế lịch sử đã chứng minh, thời cải cách ruộng đất ở chế độ Mỹ - Diệm những năm của thế kỷ XX ở miền Nam nước ta, việc sở hữu tư nhân đất đai, người sở hữu đất có quyền sử dụng đất như đối với tài sản riêng, có quyền mua, bán, chuyển nhượng, thậm chí bỏ hoang không sử dụng. Không có ai có quyền thu hồi, sử dụng đất của người khác nếu không được chủ đất cho phép. Do đất là tài sản riêng nên người dân có quyền định đoạt như hàng hóa trên thị trường bất động sản, lợi dụng khó khăn hoặc sự kém hiểu biết của nông dân, một số bộ phận có tiền có thể thu gom đất đai để trở thành địa chủ. Thực tế cho thấy, đất ở và đất sản xuất chiếm hầu hết diện tích đất tự nhiên của quốc gia và nó cũng là đối tượng gây tranh chấp nhiều nhất, một đất nước có ổn định căn bản phải đảm bảo an ninh lương thực, phải sử dụng tổng quỹ đất theo quy hoạch chung hiệu quả. Khi đó, đất chỉ có thể giao dịch trong khuôn khổ mục đích sử dụng theo quy hoạch. Hơn nữa, nhiều diện tích đất đai phải được quy định trong luật là để sử dụng chung như đất làm đường, công viên, nơi tập kết tàu, thuyền của ngư dân, hồ nước, dòng chảy của sông… các cơ quan giám sát, thực thi pháp luật phải có đủ sức mạnh để không cho phép ai lấn chiếm, sử dụng những diện tích đất dùng chung một cách tùy tiện.

Việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất. Trên thực tế, Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của cá nhân. Người sử dụng đất có quyền được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuế, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại điện chủ sở hữu và thống nhất quản lý còn đảm bảo việc sử dụng đất một cách hợp lý, đúng định hướng phát triển của đất nước và từng địa phương. Hiện nay, việc sử dụng đất phải đảm bảo các nguyên tắc: đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất; người sử dụng đất thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Việc quy hoạch đất đai phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Việc sửa đổi Luật Đất đai là nhằm hoàn thiện thể chế về đất đai, đặt lợi ích của đất nước, của Nhân dân lên cao nhất, quan tâm đến lợi ích của người dân ngay trong từng chính sách cụ thể, giải quyết các vấn đề như đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm được quỹ đất cho các chương trình nhà ở xã hội, thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính đất đai cho vùng sâu, vùng xã, vùng đặc biệt khó khăn, giải quyết được những khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất tôn giáo. Việc sửa đổi là vô cùng hệ trọng và rất khó khăn, cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, trí tuệ của toàn dân, thực hiện kỹ lưỡng, bài bản, khoa học mới có thể đảm bảo xây dựng luật thiết thực, hiệu quả.

Chúng ta hãy đề cao cảnh giác với các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, lợi dụng sự cải cách, lấy ý kiến góp ý của nhân dân để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Không bao giờ có chuyện, Đảng, Nhà nước lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, rồi lấy đất của dân vì mục đích tư lợi như các thế lực thù địch và bọn phản động đang rêu rao trên mạng. Chúng ta hãy tỉnh táo khi tiếp cận thông tin trên không gian mạng, đừng để sự thiếu hiểu biết của mình mà mắc phải mưu đồ của bọn bán nước, hại dân.

Đấu tranh phản bác thủ đoạn xuyên tác, chống phá về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam

 Biển Đông có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trên nhiều lĩnh vực, cũng như tồn tại nhiều phức tạp, tạo sự quan tâm đối với các quốc gia trong khu vực và thế giới, trong đó có hệ thống hàng hải quốc tế cùng những “vấn đề” về chủ quyền, lãnh thổ, nên nơi đây đã, đang là tâm điểm cạnh tranh và gây ảnh hưởng của các quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Cũng chính vì lẽ đó, nhiều thập niên gần đây, vùng biển này luôn là “vấn đề nóng” trên bàn cờ chính trị của khu vực. Đối với nước ta, lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động đã tung ra không ít thông tin sai sự thật, hòng xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; trong đó, họ nêu những “đề xuất”, “kiến nghị” đòi thay đổi chính sách ngoại giao của Việt Nam về chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt, khi tình hình trên Biển Đông có “điểm nóng”, thì ngay lập tức, trên các tờ báo, đài phát thanh phản động ở nước ngoài, như: BBC, Đài châu Á tự do (RFA), các trang mạng xã hội, như: Facebook, YouTube, Twitter, Zalo,… tăng cường phát tán tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc về vấn đề này.

Luận điệu mà họ thường rêu rao là Đảng, Nhà nước Việt Nam “nhu nhược”, “làm ngơ” trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển; rằng, “chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc quân sự thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”; sức mạnh của Hải quân Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”, v.v. Do đó, Việt Nam cần liên minh quân sự với các nước lớn có tiềm lực quân sự, quốc phòng mạnh, mới bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo quốc gia (!).

Cần khẳng định rằng, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, bịa đặt; mục đích của họ nhằm gây mất ổn định tình hình an ninh, chính trị trong nước và làm tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với các nước. Bởi, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định: Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bằng đường lối, quan điểm nhất quán, đúng đắn, hợp quy luật, hiệu quả.

Về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ngay sau khi đất nước thống nhất, nắm bắt việc Liên hợp quốc đang trong quá trình thảo luận, xây dựng Công ước về Luật Biển và nội dung liên quan, ngày 12/5/1977, Việt Nam đã ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Tiếp đó, ngày 12/11/1982, Chính phủ ra tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Đây là những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để Việt Nam tiến hành đàm phán giải quyết vấn đề phân định vùng biển chồng lấn với các quốc gia có liên quan trong giai đoạn sau này. Cụ thể: Việt Nam đã ký Hiệp định về phân định ranh giới biển với Thái Lan vào ngày 09/8/1997 và hiệp định này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 26/02/1998. Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên mà Việt Nam ký kết với các quốc gia láng giềng và cũng là hiệp định phân định biển đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994. Cùng với hiệp định này, Việt Nam và Thái Lan cũng đã có thỏa thuận về việc tuần tra chung giữa hải quân hai nước vào năm 1998, góp phần quan trọng vào việc duy trì an ninh, trật tự, ổn định vùng biển giáp ranh giữa hai nước. Đối với Vịnh Bắc Bộ, ngày 25/12/2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ; theo đó, về diện tích tổng thể: Việt Nam đạt 53,23% diện tích Vịnh, Trung Quốc đạt 46,77% diện tích Vịnh. Ngày 26/6/2003, sau 25 năm đàm phán, Việt Nam và Inđônêxia đã ký Hiệp định phân định thềm lục địa chồng lấn giữa hai nước và hiệp định chính thức có hiệu lực từ ngày 29/5/2007. Những hiệp định trên mang ý nghĩa quan trọng, góp phần khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; đồng thời, tạo thuận lợi cho việc quản lý, khai thác các vùng biển và thúc đẩy hợp tác với các nước láng giềng. Đây là một minh chứng cho thấy, Đảng, Chính phủ, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, chủ động, kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Trong thực tế, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ngay lập tức thể hiện quan điểm kiên quyết phản đối những hành động xâm phạm của nước ngoài, quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đồng thời, thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao để lên án những hành vi vi phạm chủ quyền trên biển, đảo Việt Nam. Cùng với đó, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và kiên trì giải quyết từng bước những bất đồng tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước liên quan, nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hòa bình, an ninh khu vực; tăng cường vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Bằng trải nghiệm xương máu trong lịch sử về hậu quả của chiến tranh, chúng ta cực lực phản đối chiến tranh, xung đột dưới bất cứ hình thức nào. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng nói chung, liên quan đến biển, đảo nói riêng bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, pháp luật quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, sẵn sàng về lực lượng, phương án, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đây là biện pháp thể hiện sự khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, nhưng rất kiên quyết về nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta để đạt được mục tiêu đề ra, chứ không phải là “nhu nhược, hèn nhát”, “làm ngơ về Biển Đông” như những rêu rao xuyên tạc của các thế lực phản động, cơ hội chính trị.

Về vấn đề liên minh quân sự, trước hết, cần khẳng định quan điểm “bốn không” trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc không hề mâu thuẫn với chủ trương: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”1. Thực tế minh chứng, nhờ nhất quán và thực hiện đúng đường lối đối ngoại này, Việt Nam đã tạo được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đem lại lòng tin chiến lược - một nền tảng hết sức quan trọng cho các đối tác, các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè, nhân dân tiến bộ trên thế giới, nhưng chúng ta vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, chính nghĩa, nên đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và thời đại - một nhân tố quan trọng giúp chúng ta giành thắng lợi. Đây là một trong những bài học được rút ra trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Vì vậy, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc, phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ vào liên minh nào. Mặt khác, theo logic của vấn đề, lợi ích của việc liên minh quân sự chắc chắn phải đạt được từ hai phía: nước nhỏ có thể tránh được nguy cơ mất chủ quyền biển, đảo và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc mình trước một mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, nhưng cái giá phải trả đó là sự “thế chấp” nào đó để nhận được những “cam kết” bảo vệ từ đồng minh. Đó là “luật chơi” thường thấy trong quan hệ quốc tế hiện nay. Như vậy, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều khẳng định, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Việt Nam là phải tự lực, tự cường, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, dựa vào sức mình là chính, song luôn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế, nhân dân tiến bộ trên thế giới để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây cũng là sự khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta để đập lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Theo đó, chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại làm nòng cốt. Và từ năm 2010, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã xác định Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Vì thế, lực lượng Hải quân được ưu tiên đầu tư cả về vũ khí, trang thiết bị và con người. Với việc tiếp nhận, huấn luyện làm chủ và đưa vào khai thác sử dụng nhiều loại tàu, vũ khí trang thiết bị hiện đại, đến nay Hải quân nhân dân Việt Nam đã có đủ năm thành phần lực lượng: tàu mặt nước; tàu ngầm; không quân Hải quân; pháo binh - tên lửa bờ; hải quân đánh bộ, đặc công Hải quân và lực lượng phòng thủ đảo. Cùng với đó, với truyền thống xây dựng, chiến đấu, trưởng thành gần 70 năm qua và những chiến công oanh liệt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, Bộ đội Hải quân luôn vững vàng về lập trường, kiên định về lý tưởng, có tư duy sáng tạo, quyết đánh và quyết thắng, chắc chắn sẽ là những quả đấm thép, đủ sức cùng các lực lượng bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Điều này, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc về sức mạnh, ý chí chiến đấu của lực lượng Hải quân Việt Nam.

Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ thiêng liêng; trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị và phải tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp. Trong đó, cần nhận rõ, kiên trì, kiên quyết đấu tranh với những chiêu trò xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; góp phần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ, đúng; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Nhận diện, xử lý “nhà báo hai mặt” nhằm lành mạnh hóa, khẳng định bản chất và bản lĩnh người làm báo chân chính

 Ngày 14/12/2021, Tòa án Hà Nội xét xử đối với Phạm Thị Ðoan Trang về tội: "Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam" và "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam". Đoan Trang từng là nhà báo, làm việc ở cơ quan báo chí nhưng đã trượt dài, trở thành phần tử cá biệt: Từ một nhà báo trở thành kẻ phạm tội hết sức cực đoan dưới danh nghĩa “người làm báo”.

Một nhóm khác là “Hội Nhà báo Việt Nam độc lập” dưới cái tên như một cơ quan báo chí, nhưng lại là một tổ chức hoạt động chống đối có hệ thống. Vì động cơ chống Nhà nước, một số đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị hình thành ra tổ chức đối lập với hội nhà báo chính thống. Cầm đầu là Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và một số đối tượng với ý thức tư tưởng cực đoan, lợi dụng danh nghĩa của báo chí để hoạt động chống đối. Từ bất mãn chế độ về đãi ngộ và để có kinh phí nên nhóm này đã cấu kết với các tổ chức phản động bên ngoài hình thành tổ chức phản động hết sức manh động về tuyên truyền, kích động chống đối.     

Đó chỉ là một vài“ điển hình” dưới danh nghĩa “nhà báo” nhưng lại có những hành động đi ngược lại hoạt động báo chí hợp pháp. Chưa kể một số đối tượng tự xưng "nhà báo tự do", "nhà báo độc lập", "nhà báo công dân", “nhà báo chống tham nhũng”… nhưng hoạt động chỉ nhằm đưa ra “sản phẩm” trái với quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, có những người được gọi là “biết viết”, dù không xưng danh nhưng được gán mác thành những “bloger” chuyên viết bài, đăng tin sai sự thật hoặc nhằm vào mục đích bôi nhọ, xuyên tạc khi có những sự kiện lớn của đất nước. Một số lấy danh nghĩa chống tham nhũng tìm cách bới móc những vụ việc được cho là “nhạy cảm”, những thiếu sót trong xử lý của chính quyền để nâng “quan điểm”, tạo dư luận trái chiều trong xã hội.

Ðáng báo động gần đây đã xuất hiện tình trạng một số nhà báo đang công tác hay đã nghỉ cố tình thể hiện quan điểm có tính "hai mặt" qua bài viết, bình luận. Bằng tiếng nói được cho là góp ý, phản biện nhưng lại phê phán chế độ, đả kích đường lối của Đảng và bôi nhọ lãnh đạo cấp cao với những thông tin không đúng sự thật. Số này, một mặt vẫn tự xưng nhà báo, mặt khác lại chuyển tải nội dung không rõ nguồn gốc, thậm chí bịa đặt, lái dư luận theo chiều tiêu cực, tìm “tiếng nói” ủng hộ. Ở những mức độ khác nhau, họ tuyên truyền bóp méo nhằm kích động, tạo phản ứng không đồng thuận trong cộng đồng.

Một số nhà báo về hưu có lượng độc giả lớn trên mạng xã hội tiếp tục lan truyền những bài viết, bình luận có nội dung lệch lạc, tạo nên những quan điểm riêng về những “sự kiện chính trị”, hướng lái dư luận trái chiều. Đã có những bloger lập ra fanpage, tài khoản như một “nhà báo” được cho là "truyền thông sạch", "nhà báo công dân" liên tục viết bài xuyên tạc, kích động, đăng tải lại những bài trên báo chí lá cải ở nước ngoài. Nhiều “nhà báo” đã bị cơ quan chức năng cảnh báo, nhắc nhở nhưng dường như chưa đủ sức cảnh tỉnh.

“Nhà báo” cũng là công dân

Có không ít những “nhà báo” thực chất là “blocger đen” dựa vào sự “nổi tiếng” để liên lạc với bên ngoài dưới danh nghĩa “cộng tác viên”, tìm hậu thuẫn về kinh phí qua bài viết và được tôn làm “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền”. Khi số này bị xử lý thì bên ngoài nhảy lên la làng về Nhà nước “đàn áp nhà báo”, “vi phạm tự do ngôn luận”, “vi pham nhân quyền”. Thậm chí ngang ngược đòi “trả tự do không điều kiện”, “ngay lập tức”.

Pháp luật Việt Nam không cho phép bất cứ ai làm phương hại đến lợi ích của Nhân dân, đất nước, đứng trên Hiến pháp, đứng ngoài pháp luật. Cần khẳng định rằng, dù là “nhà báo” hay tự xưng là gì chăng nữa cũng là công dân nên đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Đó vừa là nguyên tắc vừa thể hiện ý thức với xã hội, ý thức công dân, nghĩa vụ với đất nước. Lợi dụng danh xưng nhà báo nhằm lập lờ 2 mặt tạo ra “tiếng nói” đi ngược lại lợi ích của đất nước, Nhân dân là không thể chấp nhận.

Những “nhà báo”, “blocger” có hành vi chống lại quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước, phá hoại đoàn kết dân tộc phải được phát hiện, xử lý kịp thời. Chúng ta đang trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, cho nên mọi công dân đều bình đẳng, có trách nhiệm và nghĩa vụ chấp hành pháp luật.

Những hành động vì dân, vì nước của đội ngũ nhà báo chân chính luôn được Đảng, Nhà nước ghi nhận. Những hành vi đi ngược kỷ cương xã hội, lợi dụng danh nghĩa nhà báo để phá rối đất nước cần phải nghiêm trị. Đó không phải là hạn chế quyền tự do báo chí, vi phạm tự do ngôn luận, càng không thể là vi phạm nhân quyền.

Những kẻ lợi dụng hoặc mạo nhận nhà báo chỉ là trò lợi dụng danh nghĩa và là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống đất nước. Họ không phải là những nhà báo chân chính, lại càng không thể là “nhà hoạt động nhân quyền”, “nhà hoạt động vì tự do ngôn luận” khi đã cố tình vi phạm pháp luật. Vì vậy, không thể chấp nhận một số đội lốt nhà báo cố tình làm trái, lập lờ với mục đích chống phá đất nước.

Cảnh giác với âm mưu lợi dụng vụ việc ở Đắk Lắk để kích động, chống phá

 

Ngay sau khi xảy ra vụ việc nhóm đối tượng dùng súng tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu, Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk vào rạng sáng 11/6 gây tổn thất nghiêm trọng về người và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, thì trên mạng xã hội và những trang báo tiếng Việt từ nước ngoài, những thông tin liên quan vụ việc này cũng xuất hiện, trong đó có nhiều thông tin sai lệch, cố tình bóp méo, suy diễn vụ việc.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc

Trên các trang tiếng Việt ở hải ngoại như BBC, RFA, VOA... đăng nhiều tin bài, trích dẫn nhiều ý kiến từ những đối tượng phản động, cơ hội chính trị hòng xuyên tạc bản chất vụ việc. Theo họ, nguyên nhân “châm ngòi” cho sự việc ngày 11/6 là tranh chấp đất đai và căng thẳng sắc tộc lâu nay dâng cao tại Tây Nguyên. Các trang này đăng tải các thông tin quy chụp rằng "người dân Tây Nguyên bị cướp đất", "bị cô lập"... nên "phải vùng dậy", và đưa ra các nhận định đổ lỗi cho chính quyền.

Trên BBC có hàng loạt bài như: “Vụ nổ súng ở Đắk Lắk: Có phải người Tây Nguyên thành bộ phận dân số nghèo nhất?”; “Vụ hai đồn công an ở Đắk Lắk bị tấn công: Tức nước vỡ bờ vì mâu thuẫn đất đai và tôn giáo?”; “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc của núi rừng trong lòng tôi”... BBC cho rằng: "Mất đất đai, trở thành thiểu số, không được thực hành niềm tin tôn giáo… và đa số cán bộ ở Tây Nguyên là người Kinh”. “Việc tấn công vào trụ sở công an tại hai xã vừa qua rất có thể là phản ứng của sự phẫn nộ, phản kháng khi người sắc tộc bị dồn vào đường cùng”... BBC còn dẫn lời của Phil Robertson, Phó Giám đốc HRW-một tổ chức luôn có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với Việt Nam để cho rằng, Việt Nam cô lập người dân sinh sống ở Tây Nguyên với cộng đồng quốc tế...

Trên RFA và VOA cũng đăng tải nhiều bài viết mang tích suy diễn, quy kết, đổ lỗi sự việc cho chính quyền, thậm chí xuyên tạc, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam, kiểu như: “Ngọn lửa Tây nguyên-Cháy tiếp hay sẽ bị dập tắt?”; “Người Thượng tấn công chính quyền vì tức nước vỡ bờ?”; “Bạo động ở Đắk Lắk: Nguyên nhân gốc rễ là xung đột văn hóa, ngược đãi?”; “Bạo động ở Đắk Lắk: Gốc rễ là người dân tộc không khuất phục, không quy thuận người Kinh?”...

Cùng với những sự can thiệp đầy ác ý của các trang tiếng Việt ở hải ngoại, mạng xã hội cũng xuất hiện những tin giả, tin không đúng sự thật. Nhiều hình ảnh, video được chỉnh sửa, cắt ghép xuất hiện với ý đồ rõ rệt là gây hoang mang dư luận và kích động người dân, hướng về chỉ trích chính quyền sở tại và Nhà nước. Nguyễn Văn Đài, một phần tử phản động đang tị nạn ở nước ngoài lên trang cá nhân trắng trợn bịa đặt, rằng “người dân Tây Nguyên đã đứng lên khởi nghĩa...”.

Nhưng xem lại vụ việc sáng ngày 11/6, chúng ta thấy những lập luận trên là không có căn cứ. Vụ dùng súng tấn công và trụ sở Công an ở Đắk Lắk là vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, làm chết nhiều người, phá hỏng nhiều tài sản của Nhà nước và của nhân dân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh trật tự, tính mạng, sức khỏe của người dân. 

Tại Hội nghị Cấp cao những người đứng đầu lực lượng chống khủng bố các nước, do Liên hợp quốc tổ chức tại New York (Mỹ), từ ngày 19-22/6, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an đã khẳng định, hoạt động của nhóm đối tượng tấn công trụ sở chính quyền và người dân tại tỉnh Đắk Lắk vào ngày 11/6 là hoạt động khủng bố có tổ chức. Theo đó, 2 nhóm đối tượng được trang bị súng và vũ khí tự chế đã tấn công trụ sở chính quyền và người dân trên đường đi. Vụ việc khiến 9 người chết, 2 người bị thương, 3 con tin bị bắt giữ.

Như vậy là đã rõ, đây là vụ phạm tội có tổ chức, có vũ trang và có sự giật dây từ các tổ chức phản động lưu vong... Hành vi gây án của các đối tựng rất manh động, thủ đoạn tàn độc, gặp ai giết người nấy, bất chấp thân phận của nạn nhân. Ngoài các tình tiết giết người bằng súng đạn và dao quắm thì nhóm tội phạm còn dùng vũ lực giết người, cướp, phá hủy tài sản (xe bán tải và xe tải chở hàng của người dân) và bắt con tin để làm lá bùa hộ mạng trên đường trốn chạy. Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng đó, cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã khởi tố vụ án "khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, che giấu tội phạm, không tố giác tội phạm và tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép". Theo đó, cơ quan điều tra đã khởi tố bị can 84 người, trong đó có 75 bị can bị bắt giam về tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”; 7 bị can bị khởi tố về tội “không tố giác tội phạm”; 1 bị can về tội che giấu tội phạm và 1 bị can về tội “tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép”.

Quan điểm nhất quán về vấn đề dân tộc

Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định: Vấn đề dân tộc luôn có vị trí chiến lược, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ trên tinh thần tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các tộc người, hướng tới mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 

Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta đề ra một hệ thống giải pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa giữa các tộc người, trong đó có sự quan tâm đến các tộc người thiểu số, giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích giữa các tộc người thiểu số, phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi tộc người, làm cho các tộc người đoàn kết, bình đẳng, tương trợ và giúp nhau cùng phát triển, tạo nên sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Điều 5, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng khẳng định: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.

Từ quan điểm, chủ trương nhất quán về vấn đề dân tộc, thông qua các chương trình phát triển kinh tế-xã hội và chính sách cụ thể đối với các vùng, các dân tộc để động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo. 

Riêng đối với vùng đất Tây Nguyên, nơi hiện diện của 52 dân tộc anh em, từ một cơ cấu lạc hậu và thiếu cân đối, kinh tế Tây Nguyên hiện nay đã có bước chuyển dịch mạnh mẽ cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả với mức tăng trưởng bình quân đạt gần 12%/năm; chênh lệch thu nhập quốc dân bình quân đầu người so với cả nước thu hẹp nhanh. Hạ tầng kinh tế-xã hội Tây Nguyên được tập trung đầu tư và đã có phát triển đáng kể. Văn hóa, xã hội được đặc biệt quan tâm và có chuyển biến rõ nét. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc đã đạt bước tiến triển mới; hơn một nửa số buôn làng từ nghèo đói đã đạt mức sống trung bình và khá, nhiều hộ gia đình đã giàu có, trở thành mô hình sáng về phát triển kinh tế trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 

Cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên cũng đã có những người được tín nhiệm giao phó những vị trí lãnh đạo Đảng, chính quyền một số tỉnh như Bí thư của tỉnh Đắk Lắk cả 4 nhiệm kì là các ông Y Luyện Niê Kdăm, Niê Thuật, Êban Y Phu đều là người dân tộc Ê Đê; Phó Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai Ksor H’Bơ Khăp hiện nay là người dân tộc Gia Rai… Trong đời sống văn hóa, Tây Nguyên cũng còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị thẩm mỹ độc đáo như: Nhà rông, nhà dài, đàn đá, tượng nhà mồ, các lễ hội và kho tàng văn học dân gian với những bản trường ca, truyện cổ, truyện ngụ ngôn, lời nói vần, những làn điệu dân ca đậm đà bản sắc lưu truyền qua nhiều thế hệ. Một trong những di sản nổi tiếng là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại...

Mới đây nhất, Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lần thứ 8 năm 2023 với chủ đề “Buôn Ma Thuột, thành phố cà phê-Nơi khởi nguồn sáng tạo”, thu hút hàng chục nghìn du khách trong nước và quốc tế. Hoa hậu người dân tộc thiểu số đầu tiên H’Henie là nguồn cảm hứng rất lớn đối với bạn bè quốc tế về những giá trị truyền thống ở Tây Nguyên. Và hiện tại Tây Nguyên cũng là điểm đến yêu thích của du khách nước ngoài.

Thực tiễn sinh động đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đồng bào Tây Nguyên đã khẳng định quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, đó là bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển; đó cũng là minh chứng hùng hồn phản bác lại luận điệu xuyên tạc, vu khống về cái gọi là "người dân Tây Nguyên bị cướp đất", "bị cô lập" của các thế lực thù địch.

Nhận diện "nhà hoạt động" núp bóng bảo vệ môi trường để chống phá

 

Trong những ngày qua, tổ chức CHANGE và người sáng lập tổ chức là bà Hoàng Thị Minh Hồng là cái tên nổi bật với việc được một số tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao, đài báo hải ngoại chống phá Việt Nam bênh vực khi bị cơ quan Công an Việt Nam cáo buộc và bắt giữ với hành vi “trốn thuế” cùng nhiều hoạt động vi phạm pháp luật khác.

Trước hết cần khẳng định, không riêng Việt Nam mà các quốc gia khác trên thế giới cũng có những quy định hết sức chặt chẽ liên quan đến thuế. Tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm thì người phạm tội sẽ phải chịu những chế tài tương ứng. Trên thế giới, những người nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực bị bắt, bị phạt về tội trốn thuế không phải là chuyện hiếm gặp. Trong lĩnh vực giải trí, nhiều sao Hollywood đã bị cáo buộc trốn thuế. Năm 2007, nam ca sĩ Marc Anthony bị buộc tội trốn thuế trong suốt 4 năm với giá trị lên đến 2,5 triệu USD. Nam diễn viên từng đoạt giải Oscar Nicolas Cage thậm chí phải ngồi tù 3 năm vì không khai khoản thu nhập từ năm 1994-2004. Cầu thủ bóng đá Lionel Messi cũng bị kết án 21 tháng tù treo do 3 lần trốn thuế từ khoản thu nhập 4,1 triệu euro bản quyền hình ảnh từ năm 2007 đến 2009... Điều đó cho thấy rằng, bất kể ở quốc gia nào, nếu trốn thuế, phạm pháp thì phải chịu các biện pháp xử lý tương ứng.

Đối với Việt Nam, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, đồng thời là công cụ quan trọng trong điều tiến nền kinh tế, vì vậy, để ổn định phát triển đất nước, đấu tranh phòng chống tội phạm trốn thuế là nhiệm vụ rất quan trọng. Trốn thuế là hành vi khai báo gian dối trong sản xuất, kinh doanh để không phải đóng thuế hoặc đóng mức thuế thấp hơn nhiều so với mức phải đóng. Tội trốn thuế đã được sửa đổi về số tiền trốn thuế trong Bộ luật Hình sự với hình phạt cao nhất là 7 năm tù và phạt tiền có thể lên tới 4,5 tỷ đồng. Việc khởi tố, bắt giữ đối với bà Hoàng Thị Minh Hồng về tội danh trốn thuế là việc làm hoàn toàn bình thường của cơ quan chức năng để đảm bảo an ninh trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng, giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Quá trình bắt giữ, điều tra được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.

Vậy nhưng, ngay sau đó, trên các trang tiếng Việt của các cơ quan truyền thống thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFA, VOA,... một số cá nhân, tổ chức thù địch, chống đối đã tung ra nhiều bài viết với thông tin không chính xác, bẻ lái theo hướng tiêu cực, tạo cớ can thiệp vào công việc của các cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam. Chúng xuyên tạc, suy diễn khi cho rằng “chính quyền bỏ tù các nhà hoạt động môi trường” và cho rằng: “Việt Nam có thể gặp nhiều thách thức trong việc nhận gói hỗ trợ trị giá 15,5 tỷ đô la để chuyển đổi từ điện than sang năng lượng sạch khi gần đây hàng loạt các tổ chức xã hội dân sự lên tiếng kêu gọi các nhà tài trợ buộc Hà Nội phải cải thiện nhân quyền, giảm bắt bớ các nhà hoạt động môi trường”.

Trước đó, cũng trên các trang tiếng Việt ở hải ngoại, các tổ chức, cá nhân phản động cũng gửi cái gọi là “thỉnh nguyên thư” kêu gọi trả tự do cho Đặng Đình Bách, người được chúng gọi với những tên mĩ miều như “luật sư môi trường”, “nhà hoạt động về khí hậu”, “nhà hoạt động vì môi trường”... Bất chấp thực tế rằng, từ năm 2016 đến 2020, Trung tâm LPSD do Bách đứng đầu đã nhiều lần không nộp hồ sơ khai thuế, trốn thuế, bỏ ngoài sổ sách các khoản tiền nhận từ nước ngoài. Tổng số tiền trốn thuế được xác định là hơn 1,3 tỷ đồng.

Núp bóng “bảo vệ môi trường” để chống phá

Trên thực tế, trong nhiều năm qua, các đối tượng xấu, phần tử cơ hội đã ráo riết thực hiện chiêu trò "xã hội dân sự" để chống phá đất nước. Lợi dụng quyền tự do lập hội được quy định trong Hiến pháp, các đối tượng thực hiện tuyên truyền đánh lận bản chất vấn đề nhằm hình thành các tổ chức tự phát, không theo quy định của pháp luật. Thông thường khi mới thành lập, các tổ chức này sẽ núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”, rêu rao “hoạt động phi lợi nhuận”, “thúc đẩy sự phát triển của xã hội”… để đánh bóng tên tuổi, tìm mọi phương thức tập hợp lực lượng chống đối từ bên trong và móc nối với các tổ chức phản động ở nước ngoài. Sau khi có đủ khả năng về nhân lực và vật lực, số tổ chức, cá nhân này sẽ “thay màu”, lộ rõ bộ mặt thật không chỉ dừng lại ở vấn đề dân sự mà tìm cách “thò tay” can thiệp, lấn sâu tập trung đả phá vấn đề chính trị.

Với thủ đoạn “nội công ngoại kích”, mục đích của số đối tượng trên nhằm gây phân tâm dư luận, tìm mọi cách gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống phá cơ quan công quyền, tìm kiếm những tác động từ bên ngoài hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; cố tình đánh lận, dựng chuyện hòng làm giảm vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. 

Trong đó, tổ chức CHANGE của Hoàng Thị Minh Hồng hay Trung tâm LPSD do Đặng Đình Bách đứng đầu là những tổ chức như vậy. Qua những thông tin bước đầu của cơ quan công an có thể hình dung được, mục đích thực sự của tổ chức CHANGE hay Trung tâm LPSD không đơn giản là “đấu tranh bảo vệ môi trường” như cách slogan của các tổ chức này hô hào, đó là “chống biến đổi khí hậu, buôn bán trái phép động vật hoang dã và tình trạng ô nhiễm”. 

Thực chất, nhiều năm qua Hoàng Thị Minh Hồng hay Đặng Đình Bách đã lợi dụng vỏ bọc là một người hoạt động vì môi trường để chỉ đạo các đối tượng trong tổ chức của mình tụ tập, tham gia nhiều cuộc biểu tình ở Hà Nội gây rối an ninh trật tự. Cũng chính vì lý do đó mà khi cơ quan chức năng của Việt Nam xử lý các đối tượng này theo quy định của pháp luật thì một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam, các phẩn tử phản động, cơ hội chính trị liền đăng đàn phản đối, xuyên tạc rằng Việt nam đàn áp những người hoạt động vì môi trường.

Bảo vệ môi trường là chủ trương nhất quán

Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn nhất quán quan điểm, phát triển kinh tế phải hài hòa với thiên nhiên, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Điều này được thể hiện ở nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.

Cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các bộ luật, chỉ thị, nghị định, thông tư… nhằm tạo sự thống nhất, xuyên suốt thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ môi trường với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu COP 26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; giảm 30% lượng phát thải khí methane gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030; tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang điện sạch và Tuyên bố các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất.

Cùng với đó, Việt Nam còn ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế về môi trường như: Công ước đa dạng sinh học và Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học; Công ước các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt, như nơi cư trú của các loài chim nước (Công ước Ramstar); Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (Công ước POPs); Công ước Vienna về bảo vệ tầng Ozon (1985) và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng Ozon 1987; Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (1992) và Nghị định thư Kyoto (1997) của Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu.

Bên cạnh việc tham gia các công ước, điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Việt Nam còn không ngừng đẩy mạnh hợp tác song phương và hợp tác quốc tế trong khu vực về bảo vệ môi trường, như hợp tác quốc tế giữa Việt Nam-Nhật Bản, Việt Nam-Hàn Quốc, Việt Nam-Hoa Kỳ… Đồng thời, Việt Nam cũng luôn là thành viên tích cực trong ASEAN về bảo vệ môi trường.

Đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc

 

Trong báo cáo mới nhất công bố tháng 6/2023, USCIRF tiếp tục lặp lại những đánh giá sai lệch, một chiều và vô căn cứ về vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam khi cho rằng Việt Nam "vi phạm tự do tôn giáo", các yêu cầu đăng ký tổ chức tôn giáo ở Việt Nam "phức tạp và hà khắc”. USCIRF cũng kiến nghị chính phủ Mỹ gây sức ép với Việt Nam về tự do tôn giáo,…

Đáng ngạc nhiên là báo cáo của USCIRF được đưa ra sau chuyến khảo sát của phái đoàn USCIRF tại Việt Nam cuối tháng 5/2023, trong đó lãnh đạo Bộ Công an Việt Nam đã tiếp, trao đổi thẳng thắn, cởi mở, tạo điều kiện cho đoàn nắm rõ hơn về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, tạo điều kiện có các buổi làm việc với chính quyền, các chức sắc tôn giáo, được cung cấp tài liệu cụ thể, chính xác, được khảo sát trực tiếp tại các địa phương... Bởi vậy, có thể khẳng định USCIRF đã cố tình phớt lờ thực tế rằng việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là chính sách nhất quán xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta.

Theo thống kê, đến năm 2022, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với khoảng 27 triệu tín đồ, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc, trên 29 nghìn cơ sở thờ tự… Hằng năm, có trên 8.000 lễ hội về tín ngưỡng, tôn giáo với hàng vạn tín đồ tham gia và trong 10 năm thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm hécta đất để xây dựng cơ sở thờ tự.

Vụ tấn công trụ sở ủy ban nhân dân xã và người dân bằng súng và vũ khí tự chế tại tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6 vừa qua đã trở thành tâm điểm để các thế lực thù địch “nhảy vào” mổ xẻ, “chụp mũ” lý do tôn giáo, dân tộc. Đài RFA liên tục phát phỏng vấn những đối tượng tự xưng là người dân tộc H’mong, người Thượng tự nhận là “nạn nhân bị đàn áp tôn giáo” phải bỏ chạy lưu vong hoặc dẫn lời những nhân vật không tên tuổi với những chức danh như “nhà thầu xây dựng ở Tây Nguyên”...

Những đối tượng này cho rằng vụ việc ở Đắk Lắk là “hành động phản kháng của người Tây Nguyên theo đạo Tin lành bị áp bức về đức tin", là "mâu thuẫn sắc tộc" âm ỉ từ lâu; xuyên tạc bản chất vấn đề bằng chiêu bài “người Kinh áp bức người Thượng”, “người Kinh chiếm đất của người Thượng” hay lợi dụng những khó khăn kinh tế ở Tây Nguyên cũng như một số thiếu sót trong chỉ đạo, điều hành của chính quyền địa phương để dựng tạo dựng câu chuyện về "sự phân biệt đối xử giữa các tôn giáo, dân tộc ở Việt Nam". Đài VOA dẫn lời Nguyễn Đình Thắng, đối tượng cầm đầu Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) - một tổ chức phản động lưu vong có trụ sở ở bang Virginia (Mỹ) đứng sau vụ tấn công ở Đắk Lắk - rêu rao rằng chính quyền buộc người Thượng ở Tây Nguyên "phải bỏ đạo", “người thiểu số không quy thuận người Kinh”...

Đây không phải lần đầu tiên cơ quan chức năng Việt Nam lật tẩy và làm thất bại âm mưu của những tổ chức phản động đội lốt tôn giáo như “Tin lành Đề ga”, "Tin lành đấng Christ", "Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”... do các đối tượng Fulro lưu vong ở Mỹ lập ra, móc nối với các phần tử phản động trong nước chuyên kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin gây ra các vụ biểu tình, bạo loạn chính trị. Đặc biệt, hàng loạt vụ việc lợi dụng niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào ở Tây Nguyên để kích động, chống phá có "bàn tay đạo diễn" của tổ chức phản động lưu vong như BPSOS. Nhiều năm nay, BPSOS đã móc nối với các tổ chức phản động như  “Người Thượng đứng lên vì công lý”, "Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên" tổ chức huấn luyện cho một số đối tượng có tư tưởng chống đối ở trong nước với âm mưu hình thành các hội, nhóm tôn giáo bất hợp pháp, làm công cụ để tập hợp lực lượng cho những mưu đồ chống phá Việt Nam. 

Tại Hội nghị cấp cao những người đứng đầu lực lượng chống khủng bố các nước do Liên hợp quốc tổ chức tại New York (Mỹ) từ ngày 19 - 22/6, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh nội địa Bộ Công an Việt Nam khẳng định, một trong những nguy cơ khủng bố từ bên ngoài gây hại cho an ninh quốc gia là việc các tổ chức phản động lưu vong người Việt, các phần tử theo chủ nghĩa cực đoan lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo trú chân tại một số quốc gia thiết lập cơ sở, chân rết, tổ chức huấn luyện cho số đối tượng trong nước và cử người xâm nhập Việt Nam chỉ đạo thực hiện hành động khủng bố ở Việt Nam. Những vụ việc như vừa xảy ra ở Đắk Lắk cho thấy rõ mối đe dọa này và việc các tổ chức phản động, thù địch tung ra những luận điệu xuyên tạc, lợi dụng chiêu bài tôn giáo, dân tộc để kích động bạo loạn là hành vi “tiếp tay” cho khủng bố.

Thực tế cho thấy những hành động của người dân Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung sau vụ việc vừa qua chính là câu trả lời đanh thép vạch trần và bác bỏ những luận điệu phản động, xảo trá nói trên. Đồng bào đã trở thành “thành lũy vững chắc” hỗ trợ tích cực lực lượng công an trong tố giác, vây bắt các đối tượng, vận động người thân ra đầu thú để hưởng chính sách khoan hồng. Nhiều người dân quyên góp lương thực, thực phẩm, nước uống, nấu hàng trăm suất ăn mỗi ngày để gửi đến các cán bộ, chiến sĩ đang căng mình ngày đêm làm nhiệm vụ. Những việc làm cụ thể, thiết thực của người dân Đắk Lắk đã khẳng định tinh thần đoàn kết, tình cảm quân dân một lòng, quyết tâm đấu tranh với những âm mưu chống phá của những thế lực thù địch, bảo vệ bình yên cho buôn làng.

Có thể khẳng định rằng, trong những năm gần đây, tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên đã đạt nhiều kết quả khá toàn diện, với quy mô nền kinh tế năm 2020 gấp khoảng 14 lần năm 2002. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giai đoạn 2002 - 2020 đạt 7,98%, cao nhất trong các vùng, trong khi thu nhập bình quân đầu người gấp 10,6 lần. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt; khoảng 2,3 triệu tín đồ theo các tôn giáo khác nhau ở Tây Nguyên được đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; được giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp; các tôn giáo được khuyến khích và tạo điều kiện tham gia quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Những thập niên gần đây, tôn giáo du nhập và phát triển mạnh trong các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Các giá trị văn hóa, đạo đức, nhân văn tôn giáo có những tác động tích cực, làm phong phú đời sống văn hóa ở Tây Nguyên. Các tôn giáo tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, khôi phục không gian văn hóa truyền thống, bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết của đồng bào Tây Nguyên. Những giá trị văn hóa tôn giáo được một bộ phận đồng bào ở Tây Nguyên tiếp nhận và thực hành trong cuộc sống, từ đó góp phần đẩy lùi những hủ tục, tập quán lạc hậu. Cùng với quá trình mở rộng ảnh hưởng, các tổ chức tôn giáo cũng từng bước hội nhập, tiếp nhận trở lại những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc. Xu thế hội nhập văn hóa dân tộc đã mang lại cho tôn giáo ở Tây Nguyên một diện mạo riêng, góp phần bảo tồn, gìn giữ giá trị văn hóa Tây Nguyên, làm phong phú văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, đời sống tôn giáo ở Tây Nguyên cũng có những tác động bị các thế lực thù địch lợi dụng gây biến động phức tạp về chính trị, xã hội. Vì thế, việc thực hiện hiệu quả chính sách tôn giáo, dân tộc ở Tây Nguyên góp phần khơi dậy và nâng cao ý thức đoàn kết của đồng bào, từ đó làm thất bại âm mưu chia rẽ, kích động của các thế lực thù địch.

Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật, đồng thời nghiêm cấm hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Những luận điệu vu khống, bóp méo về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam càng làm lộ rõ bản chất xảo trá, âm mưu thâm độc của các tổ chức phản động, thù địch như BPSOS, Việt Tân…, lợi dụng tôn giáo để kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là những thủ đoạn cần phải vạch trần, lên án và ngăn chặn kịp thời. Việc USCIRF và một số hãng truyền thông phương Tây đưa ra đánh giá sai lệch, xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo của Việt Nam chẳng khác nào hành động “hà hơi”, "tiếp sức" cho những đối tượng phản động núp dưới vỏ bọc "tự do tôn giáo” để thực hiện hành vi chống phá, khủng bố.