Thứ Tư, 30 tháng 9, 2020

MÙA MƯA BÃO – MÙA NHỮNG CƠN ĐAU

Mùa mưa bão lại tràn về, những cơn mưa như trút nước cứ xối xả suốt ngày đêm. Và ở đâu đó trên mảnh đất nhỏ bé của đất nước mình đang oằn mình lên chống chọi với những cơn mưa ấy. Những cơn mưa ấy có thể sẽ lại làm nên một đợt lũ lớn để lại nhiều đau thương mất mát cho đồng bào miền Trung hay bất kỳ đâu trên trái đất.

Tháng 9-2009, cả Quảng Trị bị nhấn chìm trong biển nước. Hồi đó mưa to, lại thuộc vùng đất trũng nên nước dâng cao rất nhanh. Theo thông báo, sông Thạch Hãn có thời điểm nước dâng lên tận 9, 10m. Chưa nói đến tài sản, tính mạng của hàng nghìn người dân đang bị đe dọa. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy quân sự thị xã Quảng Trị đã huy động các phương tiện và lực lượng cán bộ lên đường ứng cứu nhân dân, quyết tâm hạn chế mọi tổn thất về tính mạng và tài sản của bà con. Trung tá Lê Văn Phượng – Trợ lý chính trị viên, Ban Chỉ huy quân sự thị xã Quảng Trị được phân về ứng cứu nhân dân thuộc thường 2, thị xã Quảng Trị cùng với hai đồng đội nữa. Vật lộn suốt cả đêm 29/9 đội của anh Phượng đã ứng cứu kịp thời cho 7 người dân ở xã Triệu Thành (huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).

Liệt sĩ Lê Văn Phượng

Trở về đơn vị khi đã hơn 7h sáng, anh cùng đồng đội đang ăn giở miếng lương khô lót dạ thì nghe còi báo động. Dù được ưu tiên nghỉ vì đã trực và làm việc suốt đêm nhưng anh vẫn xung phong lên đường ứng cứu nhân dân. Anh nhận nhiệm vụ trực và ứng cứu người nhân ở khu phố 1, 2, 3 và xã Hải Lệ (thị xã Quảng Trị). Thế nhưng, khi ca nô của anh và đồng đội vừa đến vùng nước chảy xiết ở chân cầu Thạch Hãn thì ca nô bị nước đẩy mắc vào chân cầu. Ngay lúc đó, anh Phượng và đồng đội đã nhảy xuống, tìm mọi cách buộc chặt dây nhằm giữ cho chiếc ca nô không bị lật.  Tuy nhiên, khi ca nô vừa ổn định được một lúc, các chiến sĩ cũng vừa bám được thành cầu thì sóng lớn kéo đến, ca nô có khả năng bị cuốn đi. Anh Phượng động viên các đồng đội, nhất quyết giữ ca nô cho đến phút chót. Anh còn nhảy xuống dòng nước, cố gắng giữ và đẩy chiếc ca nô đến nơi an toàn. Thế nhưng, dòng nước càng ngày càng chảy mạnh làm lật úp chiếc thuyền và cuốn trôi anh Phượng. Mọi người nhanh chóng huy động người tìm anh trong dòng nước lũ. Khi vớt được anh lên, trong túi áo anh vẫn còn một miếng lương khô ăn giở vào buổi sáng hôm ấy. Cả đơn vị nghẹn đắng.

Anh đi, bỏ lại mẹ già, vợ và 3 đứa con còn nhỏ dại. Một mình chị Hương – vợ anh cố  gượng dậy chèo chống căn nhà xập xệ và nuôi con ăn học. Những ngày đó, quê anh – vùng đất Thanh Chương cũng đang mùa mưa lũ, anh hẹn ngày về để cùng vợ con chạy lũ… vậy mà cuối cùng, anh đã mãi mãi không về nữa. Những năm sau đó, khi nhắc lại tên anh, khi đến nhà thăm chị Hương cùng các cháu, vô tình nhìn lại chiếc tủ đựng quân trang của anh, tim của chúng tôi vẫn còn nhói lên.

Chưa dừng lại ở đó, năm 2017, toàn dân lại nhận tin 2 cán bộ ở Đồn biên phòng Yên Khương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa bị lũ cuốn trôi khi đang trên đường đến hỗ trợ nhân dân phòng chống lũ lụt. Ngay khi nhận tin, hàng trăm cán bộ, nhân dân được huy động để tìm kiếm hai đồng chí.

Đó là ngày 10/10/2017, trên địa bàn xã Yên Khương, Lang Chánh, Thanh Hóa xảy ra mưa to, gió lớn. Nước lũ đang càng ngày càng lên cao, đe dọa đến tính mạng và tài sản của nhân dân trên địa bàn xã. Đại úy Nguyễn Thành Chủng – Đội trưởng tổng hợp Đồn biên phòng Yên Khương cùng với Thượng tá Cao Đăng Cường – Chính trị viên Đồn Biên phòng Yên Khương trực tiếp điều khiển xe ô tô xuống vùng cơ sở kiểm tra, chỉ đạo bộ đội biên phòng trên địa bàn sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân ứng phó với mưa lũ. Khi đã xong nhiệm vụ, hai đồng chí lái xe từ chốt biên phòng Bản Mè, xã yên Khương trở về Đồn Biên phòng Yên Khương. Tuy nhiên, đến đoạn đường tràn bản Bôn, chiếc xe chở 2 đồng chí bất ngờ bị nước lũ cuốn trôi. Ngay sau khi nhận được thông tin, Thường trực Huyện ủy, UBND huyện, Ban chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn huyện đã nhanh chóng huy động mọi lực lượng để tiến hành việc tìm kiếm Thượng tá Cao Đăng Cường và Đại úy Nguyễn Thành Chủng.

Lễ Truy điệu 2 đồng chí

Sau một thời gian dài nỗ lực tìm kiếm trên phạm vi rộng nhưng các lực lượng chức năng mới chỉ tìm thấy thi thể của Thượng tá Cao Đăng Cường, còn Đại úy Nguyễn Thành Chủng vẫn chưa tìm thấy. Thời gian gần đây, một người dân đi làm trên địa bàn suối Bôn phát hiện những dấu tích của chiếc ô tô chở hai cán bộ Đồn Biên phòng Yên Khương bị mất tích năm đó. Nhận được thông tin, lực lượng chức năng đã dùng máy xúc lớn đưa chiếc ô tô ra khỏi vị trí bị vùi lấp với hi vọng có thể tìm thấy Đại úy Nguyễn Thành Chủng. Tuy nhiên, sau khi đã đưa chiếc ô tô ra khỏi vị trí bị vùi lấp, các lực lượng chức năng cũng mới chỉ tìm được một mảnh áo quân phục.

Ngoài các đồng chí ấy ra, còn rất rất nhiều đồng đội nữa đã hi sinh trên đường làm nhiệm vụ hỗ trợ và ứng cứu nhân dân trong việc khắc phục thiên tai, bão lũ. Đó là tình yêu, cũng là nỗi đau không chỉ của người thân họ mà còn là nỗi đau chung của đồng đội, của nhân dân cả nước. Những mất mát đau thương này là rất lớn nhưng cũng là rất nhỏ so với những mất mát do động đất sóng thần và cũng chỉ khi đứng trước những thảm họa của thiên tai gây ra, đứng trước những mất mát, chúng ta mới thực sự ý thức một cách sâu sắc những vấn đề về môi trường. Mẹ thiên nhiên đã vì cuộc sống của chúng ta mà cống hiến rất nhiều. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chúng ta đã hiểu, đã biết cách trân trọng và nâng niu sự hi sinh lớn lao đó. Chúng ta đang ngày ngày khai thác, ngày ngày bòn rút cạn kiệt nguồn tài nguyên của thiên nhiên. Chúng ta mới chỉ có lấy đi mà bù đắp và tôn tạo thì hạn chế. Do vậy, những hệ quả khủng khiếp như bây giờ: lũ lụt, hạn hán, sạt lở đất, động đất, sóng thần… chính là lời nhắc nhở, lời cảnh báo, sự răn đe khiêm khắc của mẹ thiên nhiên đối với con người. Vì vậy, hãy tỉnh ngộ, hãy ý thức thật sâu về vấn đề này. Hãy hành động vì chính cuộc sống của chúng ta. Người nhỏ làm việc nhỏ, cá nhân làm việc cá nhân, tập thể làm nhiệm vụ của tập thể. Hãy chung tay, cùng nhau bảo vệ môi trường, tân tạo lại trái đất, tân tạo lại thế giới xanh của chúng ta và tạo nên màu xanh của sự sống, màu xanh của hi vọng. Hãy hạn chế sử dụng bao bì, túi ni lông; không xả rác bừa bãi vào môi trường, ao hồ, cống rãnh; không khai thác một cách tàn bạo tài nguyên thiên nhiên ...; lên án mạnh mẽ, xử lý nghiêm khắc các nhà máy xả rác không qua xử lí…. Đồng thời, tích cực trồng và chăm sóc cây xanh, bảo vệ rừng, củng cố lại đê điều, đường sá … để hạn chế tối đa những rủi ro do thiên tai gây nên. Nếu không làm được những việc này đến một lúc nào đấy quả đất của chúng ta bị “rỗng ruột” thì hậu quả sẽ là VÔ CÙNG thảm khốc.

Nguyễn Quang Tuấn

THƯ CỦA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI LẦN THỨ XI, NHIỆM KỲ 2020-2025


Thân ái gửi cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ cả nước!
Các đồng chí thân mến!
Trong không khí phấn khởi cùng cả nước đẩy mạnh thi đua chào mừng đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, từ ngày 27-9 đến ngày 30-9-2020, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội (ĐBQĐ) lần thứ XI được tổ chức trọng thể tại Thủ đô Hà Nội và đã thành công tốt đẹp.
Đại hội vinh dự được đón các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; đại biểu các ban, bộ, ngành Trung ương, TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; về dự Đại hội có 450 đại biểu, đại diện cho trí tuệ, tinh thần đoàn kết, đổi mới và trách nhiệm của hơn 26 vạn đảng viên trong ĐBQĐ.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phát biểu chỉ đạo, ghi nhận, biểu dương những kết quả và thành tích nổi bật về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong nhiệm kỳ 2015-2020; đồng thời, giao nhiệm vụ cho ĐBQĐ và toàn quân tiếp tục phát huy truyền thống hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; tạo tiền đề vững chắc để từ năm 2030 phấn đấu xây dựng Quân đội hiện đại, làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh, dân chủ và kỷ cương, Đại hội đã đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào Dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII trình Đại hội XIII của Đảng; thông qua Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương trình Đại hội Đại biểu ĐBQĐ lần thứ XI, lựa chọn và bầu 43 đại biểu chính thức, cùng với 18 đại biểu đương nhiên, tiêu biểu cho ĐBQĐ dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đại hội khẳng định, nhiệm kỳ vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã triển khai thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội ĐBQĐ lần thứ X đề ra; tích cực xây dựng ĐBQĐ vững mạnh tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân, gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, nhất là trong phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn...; thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng; chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố bất lợi có thể gây đột biến.
Đại hội ghi nhận và đánh giá cao cán bộ, đảng viên, quần chúng toàn quân đã chủ động khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu, có nhiều đổi mới, sáng tạo, phát huy vai trò xung kích thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội ĐBQĐ lần thứ X, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu ĐBQĐ lần thứ XI, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức mạnh, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại hội kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ cả nước phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng và phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ; kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, giữ vững bản chất cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết thương yêu đồng chí, đồng đội, giữ nghiêm kỷ luật; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; có đạo đức trong sáng, lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hăng hái thi đua huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao, lao động sản xuất, học tập, công tác tốt; xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, giữ vững “kỷ luật, kỷ cương”, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng. Là lực lượng đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội. Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhạy bén về chính trị, nhận thức đúng đối tác và đối tượng, kịp thời xử lý thắng lợi các tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội hội nghĩa.
Đại hội tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, với bề dày truyền thống hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo và ý chí quyết tâm cao của cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ cả nước, Quân đội ta nhất định hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nhiều chiến công trong thời kỳ mới, luôn xứng đáng với sự tin cậy, niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân và bạn bè quốc tế.
Chào thi đua Quyết thắng!

Những biến tướng nguy hại của sự tha hóa quyền lực


Trước đây, khi nói về thể chế chính trị XHCN, có ý kiến từng cho rằng, khó có thể có sự tha hóa quyền lực bởi chính quyền cách mạng được xác lập, thực thi là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tuy nhiên, những năm qua, mặt trái của kinh tế thị trường như một “cơn lốc dữ” đã khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên bị chao đảo, thậm chí bị “nhấn chìm” trong “dòng xoáy” của quyền lực. Từ người nắm giữ, thực thi quyền lực, không ít cán bộ, đảng viên đã bị quyền lực quyến rũ, mê hoặc đến mức u mê để rồi trượt dài vào “vũng lầy” tha hóa quyền lực. Đây chính là nguy cơ mà nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn đến hậu quả làm mọt ruỗng thể chế chính trị từ bên trong, làm lung lay bộ máy công quyền từ gốc rễ.
Không ngẫu nhiên mà mới đây Đảng ta đã chính thức đề cập vấn đề phòng, chống tha hóa quyền lực trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Vì những năm gần đây, tình trạng tha hóa quyền lực trở thành một trong những vấn đề nhức nhối, nóng bỏng, ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng và chế độ ta.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên ngộ nhận về “màu hồng” của quyền lực
“Tha hóa” được hiểu là trở nên khác đi cái ban đầu, biến thành cái khác theo chiều hướng tiêu cực. “Tha hóa quyền lực” thực chất là hành vi lợi dụng, lạm dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước để làm những việc sai trái, khuất tất nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân hay lợi ích một nhóm người, làm tổn hại đến lợi ích chung của tập thể, lợi ích của quốc gia dân tộc.
Những năm gần đây, trong khi phần lớn cán bộ, đảng viên làm tròn bổn phận, trách nhiệm, quyền hạn của mình đối với tổ chức, cơ quan, đơn vị; thì vẫn còn không ít người nắm giữ, thực thi công quyền đã bị cám dỗ bởi “màu hồng” của quyền lực. Khi đã có quyền lực, nhiều người nhận thức không đúng đắn, thấu đáo về tính hai mặt của quyền lực, chỉ nhăm nhăm khai thác, phát huy triệt để ưu thế, quyền lợi, bổng lộc nhờ quyền lực mang lại mà không chú trọng tự giác khép mình vào khuôn khổ tổ chức, quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Theo nhận định của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương, hầu hết các vụ việc cán bộ, đảng viên bị thi hành kỷ luật từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đều có chung hành vi vi phạm nguyên tắc dân chủ, vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy. Trong tổng số gần 40 cuộc kiểm tra của UBKT Trung ương đối với các trường hợp khi có dấu hiệu vi phạm, số cuộc kiểm tra phát hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ chiếm 61%, vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy chiếm 66%. Số tổ chức đảng, đảng viên bị thi hành kỷ luật do vi phạm quy chế làm việc, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng chiếm 74% tổng số tổ chức đảng và chiếm 56% tổng số đảng viên, hầu hết có trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương, đơn vị.
Bản chất của sự vi phạm này là xa rời những quy định, chế định căn cốt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành; thực hiện dân chủ hình thức, dân chủ giả tạo để lấy tập thể làm “bình phong” che chắn, lấp liếm nhằm “ý chí hóa" cá nhân người lãnh đạo; thậm chí không ít người đứng đầu cấp ủy đã tìm mọi cách để lèo lái, thậm chí áp đặt các thành viên cấp ủy phải tuân theo, chấp hành ý kiến chỉ đạo của mình.
Bấy lâu nay, dư luận vẫn râm ran câu chuyện: “Thủ trưởng bảo nguyên tắc tập trung dân chủ là gì? Là cứ cho tập thể bàn bạc dân chủ thoải mái đi, nhưng người có quyền quyết định cao nhất, duy nhất là tôi!”. “Tôi” ở trong câu chuyện này là bí thư, chủ tịch, giám đốc, thủ trưởng, tức là người có quyền hành tối cao ở một tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương.
Đây là sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng câu chuyện tưởng vui mà lại có thật ở không ít nơi như trên phản ánh phần nào sự tha hóa quyền lực bắt đầu từ nhận thức khi người trong cuộc coi quyền lực công như quyền lực tư, coi quyền lực tập thể như quyền lực của riêng mình rồi tự phán, tự quyết, thậm chí có cả biểu hiện “anh hùng nhất khoảnh”, thái độ khệnh khạng mà Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng có lần cảnh báo nghiêm khắc: “Một số người có chức có quyền giữ tác phong quan cách, gia trưởng, phụ trách địa phương nào, đơn vị nào, thì như một “ông vua con” ở đấy!”.
Ông Lê Như Tiến, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội: “Nhiều người có quyền lực thường có xu hướng lạm quyền, lộng quyền, thậm chí có trường hợp tham vọng, say sưa quyền lực đến mức mù quáng nên đã tìm mọi cách để tạo ra quyền lực tối đa, tối thượng cho mình và áp đặt, bắt buộc cấp dưới phải nhất mực tuân theo. Nhận thức, thái độ, tác phong độc đoán, chuyên quyền đó là biểu hiện của sự biến thái, tha hóa quyền lực, tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân vào thể chế chính trị và bộ máy Nhà nước”.
Sự tha hóa quyền lực diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp, nguy hại
Theo nhận định của các chuyên gia chính trị học, sự tha hóa quyền lực biểu hiện dưới rất nhiều dạng, như: Lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền, tiếm quyền, tùy tiện, vô trách nhiệm, quan liêu, độc đoán... Thời gian qua, hầu hết các vụ việc bị phát giác, xử lý, truy tố, xét xử đều gắn với những người có chức, có quyền vì đã dính dáng vào các biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nêu trên. Trong đó, sự tha hóa quyền lực thông qua biểu hiện lạm quyền, lợi dụng quyền để vụ lợi, trục lợi diễn ra phổ biến.
Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp trong toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần 2.400 cán bộ, đảng viên về hành vi tham nhũng và cố ý làm trái. Các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã khởi tố, xét xử 10.970 bị cáo về các tội tham nhũng, quản lý kinh tế và tội phạm khác về chức vụ. Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc xử lý kỷ luật Đảng, xử lý hình sự đối với hơn 13.000 đối tượng nắm giữ chức vụ, quyền hạn thực chất nhằm ngăn chặn kịp thời “một tổ mối” đang “đục khoét”, mọt ruỗng thể chế chính trị và làm tha hóa quyền lực nhà nước.
Đáng nói hơn, nếu như trước đây, sự tha hóa quyền lực thường xảy ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức ở cấp cơ sở, cấp huyện, thì những năm gần đây, sự tha hóa quyền lực xảy ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ nắm giữ quyền lực lớn như bộ trưởng, thứ trưởng, tổng cục trưởng; bí thư, chủ tịch tỉnh, thành phố và nhiều cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Hơn 4 năm qua, đã có gần 100 cán bộ cao cấp bị kỷ luật Đảng và xử lý hình sự, trong đó có 3 Ủy viên Bộ Chính trị và nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, 21 Ủy viên Trung ương Đảng và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 24 sĩ quan cấp tướng.
Cán bộ có chức vụ càng cao khi tha hóa quyền lực cũng để lại nhiều tai tiếng cho Đảng, Nhà nước và chế độ. Sau khi ông Đinh La Thăng, bị khởi tố, bắt giam ngày 8-12-2017, chỉ ít phút sau đã có hàng loạt cơ quan thông tấn, báo chí ở trong và ngoài nước đưa tin, gây “chấn động” dư luận xã hội, vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, một người nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị bị truy tố, bắt giam. Hay thông tin ông Nguyễn Bắc Son, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông bị khởi tố, bắt giam vì tội nhận hối lộ 3 triệu đô la Mỹ cũng khiến người dân bàng hoàng, bức xúc vì số tiền nhận hối lộ lớn chưa từng thấy ở nước ta.
Điều đáng báo động là tình trạng tha hóa quyền lực không những xảy ra ở những cá nhân cụ thể mà còn lan ra nhiều người và cả tập thể thường vụ cấp ủy. Một số bộ, như: Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, không chỉ Ban cán sự đảng của ba bộ này nhiệm kỳ 2011-2016 đã bị Ban Bí thư xử lý kỷ luật, mà 3 người nguyên là bộ trưởng, 1 người nguyên là thứ trưởng cũng đã bị xử lý hình sự.
Nghiêm trọng hơn, có những vụ việc mà tính chất tha hóa quyền lực tập thể đã trở nên điển hình, gây nhức nhối xã hội vì kéo theo hàng loạt quan chức cấp cao, tướng lĩnh “nhúng chàm” như vụ án Đinh Ngọc Hệ, vụ án bảo kê “đánh bạc nghìn tỷ” ở tỉnh Phú Thọ... Đặc biệt nổi cộm là một số vụ án liên quan đến Phan Văn Anh Vũ, cựu thượng tá công an, đối tượng đã “khuynh đảo” quyền lực đối với hàng loạt quan chức cấp cao và tướng lĩnh khiến họ bị tha hóa và rơi vào vòng lao lý, trong đó có 2 cựu thứ trưởng và 1 cựu phó tổng cục trưởng của Bộ Công an, 2 cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, 1 cựu Phó chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh...
Chưa dừng lại ở đó, biểu hiện tha hóa quyền lực tập thể còn kéo dài từ nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác. Vì đã có những thường vụ cấp ủy cả hai nhiệm kỳ liên tiếp (2010-2015, 2015-2020) đều bị xử lý kỷ luật do “sai chồng sai”, như: Ban Thường vụ Đảng ủy Công an tỉnh Đồng Nai; Ban Thường vụ Huyện ủy Ba Vì (Hà Nội); Ban Thường vụ Thành ủy Trà Vinh (tỉnh Trà Vinh)... Thậm chí có cả những cán bộ thuộc diện huyết thống cha-con, anh-em ruột thịt cũng rơi vào tình trạng tha hóa quyền lực đến mức cha bị khởi tố, con bị mất chức; anh bị cách chức, em bị tạm giam...
Càng thêm day dứt khi có những cán bộ một thời vào sinh ra tử, không bị gục ngã bởi đạn bom, bởi muôn vàn gian khó và từng được xã hội ngợi ca, được Nhà nước tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân, Anh hùng Lao động do lập công đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, lao động, công tác; nhưng sau khi đứng trên đỉnh cao quyền lực lại bị đồng tiền “đánh gục” rồi tha hóa đến mức mất cả công danh sự nghiệp lẫy lừng, sa chân vào thảm cảnh lao lý.
Ông Cao Văn Thống, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương: “Không những cán bộ lãnh đạo, quản lý tha hóa quyền lực mà cả những công chức, viên chức, trợ lý tham mưu, giúp việc, thư ký riêng của lãnh đạo... cũng lợi dụng vị trí công tác được phân công để vụ lợi, trục lợi. Đặc biệt, sự tha hóa quyền lực vừa trắng trợn, vừa tinh vi, có sự cấu kết chặt chẽ “trên-dưới”, “trong-ngoài” bằng một thứ “luật ngầm” đã xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều ngành. Thậm chí đã có dấu hiệu tha hóa quyền lực của một số cán bộ, đảng viên gắn với tội phạm có tổ chức”.
QĐND

Giải phóng Thủ đô – mốc son trên chặng đường hành quân lịch sử của quân và dân Hà Nội

 Giải phóng Thủ đô – mốc son trên chặng đường hành quân lịch sử của quân và dân Hà Nội


Đoàn quân chiến thắng tiến về giải phóng Thủ đô 10-10-1954 (Ảnh tư liệu)

Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay trong đêm 19-12-1946, quân và dân Hà Nội đồng loạt nổ súng vào các vị trí đóng quân của thực dân Pháp trong Thành phố, chính thức mở đầu cuộc kháng chiến trường kỳ bảo vệ độc lập, tự do của quân và dân ta trên phạm vi cả nước. Với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, sau 60 ngày đêm chiến đấu ngoan cường trong lòng Thủ đô Hà Nội, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ huy Chiến khu XI và được sự chi viện, tiếp tế của quân và dân ngoại thành, lực lượng vũ trang Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chặn đứng ý định của thực dân Pháp đánh chiếm và làm chủ Thành phố trong vòng 24 giờ, bước đầu đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng.

Đêm 17-12-1947, Trung đoàn Thủ đô đã tổ chức cuộc rút lui an toàn qua sông Hồng, sông Đuống trước sự bao vây gắt gao của địch, bảo toàn lực lượng để tiếp tục chiến đấu lâu dài. Tính từ thời điểm này, Thủ đô bị thực dân Pháp chiếm đóng, song quân và dân Hà Nội (những người ở lại) đã kiên cường bám trụ, tiến hành chiến tranh nhân dân trên toàn địa bàn Thành phố. Mặc dù, tương quan lực lượng hoàn toàn bất lợi cho ta, có lợi cho địch, nhưng với sự kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc “Lấy ít thắng nhiều, lấy yếu chống mạnh” của cha ông với niềm tin tất thắng vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, người Hà Nội đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh nuôi giấu cán bộ kháng chiến, phát triển lực lượng tự vệ ở nội thành, du kích ở ngoại thành, tiến hành tổng phá tề, trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ làm tay sai cho địch, v.v. Thấu triệt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và kinh tế của địch. Du kích Thủ đô và Vệ Quốc quân cần phải thường khuấy rối quả tim của địch cho đến ngày tổng phản công”1, Đảng bộ Hà Nội đã lãnh đạo quân và dân Thủ đô đẩy mạnh xây dựng cơ sở đảng, xây dựng lực lượng kháng chiến sâu rộng khắp cả trong nội và ngoại thành; từng bước củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, sẵn sàng phối hợp với chiến trường toàn quốc Tổng phản công quân địch.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, quân và dân Hà Nội đã tích cực đẩy mạnh kết hợp đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự,… nhằm đánh địch ở ngay hậu cứ - nơi được xem là an toàn nhất của chúng. Các phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị, nhất là việc chống bắt lính đã diễn ra sôi nổi ở nhiều nơi và trong mọi tầng lớp nhân dân Hà Nội. Không dừng lại ở đó, để phối hợp với tiền tuyến trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, biệt động ta đã tổ chức tập kích sân bay Gia Lâm, phá hủy 18 máy bay, đốt một kho xăng, diệt 16 tên địch. Cuối tháng 04-1954, giữa lúc Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp đang bị vây hãm nguy ngập, lực lượng trông, giữ kho quân nhu của địch được giác ngộ cách mạng ở trong Thành phố đã bí mật phá kho dù - một phương tiện duy nhất để tiếp tế bằng máy bay cho quân địch ở Điện Biên Phủ, v.v.

Tin chiến thắng từ Điện Biên Phủ liên tiếp được báo về là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với quân và dân Thủ đô, tuy nhiên, đó chưa phải là thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Đảng bộ Hà Nội chủ trương: tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân, gắn liền phong trào đấu tranh đòi hòa bình với phong trào bảo vệ quyền lợi thiết thân của quần chúng. Thực hiện Chỉ thị vận động nhân dân trong vùng tạm chiếm đấu tranh mạnh mẽ chống chiến tranh xâm lược, ủng hộ lập trường của Phái đoàn ta tại Hội nghị Giơ-ne-vơ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân Hà Nội đã phát động phong trào đòi hòa bình, đòi Chính phủ Pháp phải thành thật thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh.

Ngày 20-7-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ kết thúc, đồng nghĩa với việc thực dân Pháp phải rút hết quân khỏi Đông Dương. Mặc dù vậy, Hà Nội vẫn còn nằm trong khu vực tập kết của quân đội Pháp trong 80 ngày. Lợi dụng thời gian này, quân Pháp ráo riết tổ chức các hoạt động phá hoại Thủ đô về mọi mặt. Trước tình hình mới, Đảng bộ và chính quyền Hà Nội đã dựa vào dân, chủ trương lãnh đạo nhân dân Thủ đô đoàn kết đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, bảo vệ Thành phố, bảo vệ xí nghiệp, công sở, tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ quyền lợi của công nhân, viên chức, chống địch phá hoại; đồng thời, đẩy mạnh phát triển lực lượng cách mạng trong Thành phố, phối hợp với các lực lượng từ chiến khu trở về tiếp quản Thủ đô.

Trước sức mạnh đấu tranh của quân và dân Hà Nội, cuối tháng 9-1954, Bộ Chỉ huy quân chiếm đóng Pháp chấp nhận rút khỏi Thành phố đúng thời hạn. Ngày 08-10-1954, Ban Tiếp nhận Quân sự của ta triển khai ở 06 khu vực nội thành và huyện Gia Lâm, tiếp nhận bàn giao cơ quan và các vị trí quân sự. Bộ đội ta tiến vào Đê La Thành, Vĩnh Tuy, Ngã Tư Sở, Cầu Giấy, Nhật Tân và bố trí canh gác cùng lính Pháp ở những vị trí cần thiết. Lực lượng tự vệ nhà máy cùng nhiều công nhân đến canh gác bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp của mình. Trên các đường phố, cờ đỏ sao vàng, cổng chào và khẩu hiệu xuất hiện, hoan nghênh bộ đội và chính quyền cách mạng trở về Thủ đô. Địch rút đến đâu, ta tiếp quản đến đó. Đến 16 giờ ngày 09-10-1954, tốp lính Pháp cuối cùng rút khỏi cầu Long Biên sang Gia Lâm.

Sáng ngày 10-10-1954, Đại đoàn 308, dẫn đầu là Trung đoàn Thủ đô tiến vào nội thành Hà Nội. Từ sáng sớm nhân dân Thủ đô đã tưng bừng mang theo cờ, hoa, ảnh Bác Hồ ra khắp các ngả đường chào đón bộ đội hành quân vào tiếp quản Thủ đô. Đúng 08 giờ sáng, cánh quân phía Tây xuất phát từ Quần Ngựa (nay là Cung Thể thao Hà Nội, phố Quần Ngựa). Đó là những chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn Thủ đô, mang trên ngực huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ”, trở về với thành phố quê hương - nơi sinh ra Trung đoàn. Đoàn đi qua Kim Mã, Nguyễn Thái Học, Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang,… đến 09 giờ 45 phút tiến vào Cửa Đông. Khoảng 08 giờ 45 phút, cánh quân phía Nam thuộc hai trung đoàn 88 và 36 xuất phát từ Việt Nam Học xá (nay thuộc Trường Đại học bách khoa) đi qua Bạch Mai, phố Huế, vòng quanh Hồ Gươm rồi vòng lại vào đóng ở khu vực Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Quân y 108) và khu Đấu Xảo (nay là Cung Văn hóa hữu nghị). Riêng Đoàn Chỉ huy tiếp quản, gồm: cơ giới, pháo binh do Chủ tịch Ủy ban Quân chính Vương Thừa Vũ và Phó Chủ tịch Trần Duy Hưng dẫn đầu, lúc 09 giờ 30 phút từ sân bay Bạch Mai đến Ngã Tư Vọng sang Ngã tư Trung Hiền rồi theo đường Bạch Mai lên phố Huế, Hàng Bài, Đồng Xuân, vào Cửa Bắc. Vào lúc 15 giờ, còi Nhà hát Lớn thành phố nổi một hồi dài, mấy chục vạn nhân dân Hà Nội và các đơn vị quân đội trang nghiêm dự Lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức tại Sân vận động Cột Cờ. Sau Lễ chào cờ, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ trân trọng đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng.

Trên chặng đường hành quân lịch sử từ ngày Toàn quốc kháng chiến đến Ngày trở về giải phóng Thủ đô, vượt qua biết bao gian khổ, hy sinh, quân và dân Hà Nội đã lập nên mốc son chói lọi làm nức lòng quân và dân cả nước, để lại những bài học quý cho những chặng hành quân tiếp theo trên con đường độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”  mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài học về xác định rõ vai trò của Thủ đô trong tiến trình kháng chiến chống thực dân Pháp, xâm lược và mối quan hệ giữa Thủ đô với cả nước. Hà Nội là “trái tim” của cả nước, là địa bàn chiến lược quan trọng. Chọn Hà Nội là địa phương mở đầu Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ Hai là một quyết định đúng đắn, sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ. Quán triệt phương châm vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng, trong quá trình kháng chiến, Hà Nội đã phát huy cao độ khả năng và tinh thần tự lực, tự cường, độc lập chiến đấu cao; đồng thời, luôn phối hợp với chiến trường cả nước, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung với tinh thần “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội”. Hà Nội vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, cùng cả nước vừa chiến đấu, vừa sản xuất, thực hành tiết kiệm, ủng hộ kháng chiến. Hiểu rõ sức mạnh của hậu phương luôn luôn chuyển hóa trong quá trình chiến tranh, với nhiệt tình cách mạng cao, nhân dân Hà Nội đã biết khai thác cơ sở vật chất hiện có để làm ra nhiều sản phẩm phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Bài học về chuẩn bị tốt mọi mặt khi thời cơ đến, thực hành tiếp quản thắng lợi, hoàn thành sự nghiệp giải phóng Thủ đô. Không phải đánh vào Hà Nội mà vẫn giải phóng Thủ đô một cách nguyên vẹn, đó là kết quả của sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Hồ Chủ tịch, tài thao lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Việc tiếp quản Thủ đô, giải phóng hoàn toàn Hà Nội có một ý nghĩa hết sức trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân cả nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Thành ủy Hà Nội đã chuẩn bị kế hoạch tiếp quản Thành phố hết sức tỷ mỷ và chu đáo. Ngày 17-9-1954, theo quyết định của Chính phủ, Ủy ban Quân chính Hà Nội được thành lập, bộ máy tiếp quản được tổ chức. Trung ương ban hành và phổ biến cho cán bộ tiếp quản các chỉ thị: “Bảo vệ thành phố mới được giải phóng” cùng “08 chính sách đối với thành phố mới được giải phóng” và “10 điều kỷ luật của bộ đội, nhân viên công tác khi vào thành phố mới được giải phóng”. Ủy ban Quân chính đã chuẩn bị một lực lượng quân - dân - chính đủ mạnh để phòng và khắc phục mọi hậu quả âm mưu phá hoại của địch gây ra. Để khắc phục những khó khăn, nhất là về đời sống vật chất của nhân dân trong những ngày mới giải phóng, Ủy ban Quân chính thống nhất ban hành chủ trương: ngoài nhiệm vụ chính là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thành phố, lực lượng vũ trang nhân dân Thủ đô cần tích cực tham gia mọi hoạt động giúp đỡ nhân dân dân, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống, góp phần khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tăng cường mối đoàn kết quân dân - cá nước.

Kỷ niệm 65 năm Ngày giải phóng Thủ đô, quân và dân Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền Thành phố tiếp tục kế thừa và phát huy những kinh nghiệm quý có được trên những chặng đường đã qua, quyết tâm xây dựng Thủ đô giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của cả nước - Thành phố vì hòa bình.

"ST"
_________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 647.

ĐOÀN KẾT - LỜI CĂN DẶN THIẾT THA CỦA BÁC HỒ


Ngày nay mỗi lần đọc lại Di chúc của Bác ta càng thấy ý nghĩa to lớn và cách vận dụng tài tình khi Bác nói về đoàn kết.

“Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng ta”. Bác căn dặn “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Bác dặn đoàn kết không có nghĩa là xuôi chiều, dễ người dễ ta. Để trong Đảng đoàn kết, trở thành một khối thống nhất phải thật sự nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, và phải chỉnh đốn lại Đảng. Bác không coi đó là một biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động của bản thân Đảng trong quá trình phát triển của cách mạng. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng ý chí kiên định, tránh tình trạng dao động, bi quan.

Khi cách mạng thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn. Khi Đảng cầm quyền chỉnh đốn để tránh những sa ngã, thoái hoá biến chất, tự đánh mất mình, “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”. Coi trọng chỉnh đốn Đảng là tạo nên sức mạnh đoàn kết theo lời dặn của Bác “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình thương yêu lẫn nhau”. Đây là quan điểm đoàn kết rất nhân văn của Bác Hồ. Đấu tranh phê bình để nâng cao sự đoàn kết, đoàn kết chặt chẽ hơn nữa. Đấu tranh không phải là bới móc, chì chiết, vạch lá tìm sâu, dậu đổ bìm leo, hạ bệ người khác, tranh giành địa vị, quyền lợi, lợi dụng đấu tranh phê bình để cấu kết bè cánh, lợi ích nhóm. Nên trong mọi hoạt động của Đảng, mỗi đảng viên phải thật sự thương yêu lẫn nhau. Cán bộ phải thương yêu đảng viên. Khi giao nhiệm vụ cho đảng viên phải tìm hiểu rõ hoàn cảnh của người nhận nhiệm vụ. Khi có khó khăn phải tận tình giúp đỡ để đảng viên hay cấp dưới hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khi nhắc tới đoàn kết quốc tế, Bác căn dặn phải trên nền tảng tư tưởng và “có lí có tình”.

Đảng ta xác định: “Đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, mà hạt nhân là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”. “Đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta”.

Những nội dung về đoàn kết đã được xác định trong nhiều nghị quyết của Đảng, để không phải chỉ là khẩu hiệu, cần có chiến lược thực hiện, tổ chức chặt chẽ, phải trở thành hành động và động lực của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng cụ thể, thành phong trào cụ thể trong mặt trận thống nhất toàn dân tộc.

 

 

Bắt ông Trịnh Bá Phương và 3 người khác

Bắt ông Trịnh Bá Phương và 3 người khác về tội làm, tàng trữ, phát tán tuyên truyền chống phá nhà nước.

TTO - Cả bốn bị can bị bắt tạm giam để điều tra về tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Bắt ông Trịnh Bá Phương và 3 người khác về tội tuyên truyền chống phá nhà nước - Ảnh 1.

Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hòa Bình đọc lệnh bắt, khám xét bị can Trịnh Bá Tư - Ảnh: CA

Ngày 25-6, thông tin từ Bộ Công an cho biết Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội vừa tống đạt quyết định khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với các ông, bà: Trịnh Bá Phương và Nguyễn Thị Tâm cùng trú tại phường Dương Nội, quận Hà Đông, Hà Nội. Bị can Tâm có 1 tiền án về tội "Chống người thi hành công vụ".

Đồng thời Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hòa Bình cũng đã ra quyết định khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam, đối với 2 người gồm: Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư cùng trú tại xã Ngọc Lương, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. Bị can Thêu có 2 tiền án về tội "Chống người thi hành công vụ" và "Gây rối trật tự công cộng".

Cả bốn bị can bị điều tra về tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" theo Điều 117 Bộ luật hình sự năm 2015.

Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, khám xét của Cơ quan điều tra đã được Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn.

Theo Bộ Công an, kết quả điều tra ban đầu xác định 4 bị can có hoạt động soạn thảo, đăng tải, phát tán các video clip, bài viết có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân nhằm mục đích chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hành vi của các bị can đã phạm vào tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Quá trình khám xét cơ quan An ninh điều tra đã thu được một số cuốn sách, một số tài liệu viết tay, đĩa CD, DVD... có nội dung liên quan đến hoạt động tuyên truyền chống Nhà nước.

Theo báo Tuổi trẻ online.

 

NHẬN DIỆN VỀ: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức”.

Kính thưa Hội Thảo!

Trong thời kỳ mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã và đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, đưa nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Những thành tựu Đảng và nhân dân ta đạt được trong suốt mấy trục năm qua là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, đất nước vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhất là CNĐQ và các thế lực thù đich triệt để lợi dụng những yếu kém, bất cập, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “DBHB”. Đặc biệt, chúng tập trung thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức, như Đại hội XI của Đảng cảnh báo: "Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có diễn biến phức tạp"[1]. Hiện nay, các thế lự thù địch đang ra sức lợi dụng việc tự phê bình, phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI nhằm chia rẽ nội bộ, làm mất uy tín của Đảng, đẩy mạnh "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức, đó là vấn đề không thể xem thường; cần phải phân tích làm rõ và có giải pháp phòng, chống kịp thời.  

Để nhận diện rõ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức; trước hết chúng ta phải nhận diện được "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nói chung là sản phẩm và là biểu hiện cụ thể của “DBHB”, do sức ép và áp lực từ “DBHB” tạo nên. Như vậy, “DBHB” là hoạt động tấn công từ phía kẻ thù, còn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nói về quá trình diễn ra trong chính nội bộ ta.

“Tự diễn biến” nói chung là một khái niệm chỉ sự vận động bên trong của mọi sự vật, hiện tượng. Quá trình tự diễn biến chịu sự tác động và chi phối của cả nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan là quan trọng. “Tự diễn biến" trong trường hợp này là khái niệm nói lên quá trình tự tan rã, biến chất của một thể chế chính trị - xã hội xét trên tất cả các lĩnh vực: chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa - tinh thần, diễn ra một cách hòa bình, không bằng các biện pháp bạo lực. Nói cách khác, “Tự diễn biến” là một thủ đoạn cực kỳ nguy hiểm nhưng khó nhận diện của chiến lược “DBHB” của kẻ thù. Dưới góc độ quân sự học, đó là mối quan hệ giữa chủ thể chiến tranh với đối tượng chiến tranh, giữa thế lực xâm lược và lực lượng bị xâm lược, giữa tấn công và bị tấn công… Tương tự như thế, ở tầng bản chất sâu hơn, đó là mối quan hệ giữa toàn cục và cục bộ, giữa chiến lược và chiến thuật, giữa nguyên nhân và kết quả, giữa chiến tranh và chiến trường… Sự thành bại của chúng ta trong cuộc chiến chống chiến lược “DBHB” một phần cơ bản và quyết định tùy thuộc vào phương lược xử lý mối quan hệ đa chiều, phức tạp, biến ảo và không ngừng chuyển hóa lẫn nhau giữa chiến tranh và chiến trường… nhằm không để xảy ra “chiến trường” “tự diễn biến”, góp phần quyết định kết liễu cuộc chiến tranh chống “DBHB” của kẻ thù đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.

“Tự diễn biến”, “tự chuển hóa” trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức thể hiện tập trung trước hết là ở sự dao động về chính trị, mất định hướng, khủng hoảng niềm tin, đường lối chiến lược và lý luận. Ở Việt Nam, trước sự tấn công của kẻ thù bằng “DBHB”, đã làm xuất hiện bệnh cơ hội, thực dụng, thiếu trung thực gia tăng, thái độ thờ ơ, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng.

Thực tế cho thấy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trước hết và chủ yếu là về tư tưởng chính trị, tổ chức. Khi tư tưởng có vấn đề thì trong hoạt động thực tiễn dễ nảy sinh tiêu cực; nếu lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức bất ổn thì các lĩnh vực khác như: Kinh tế, văn hóa, giáo dục, thậm chí cả quốc phòng - an ninh khó có khả năng và điều kiện phát triển lành mạnh. Một khi tư tưởng chính trị chệch hướng, thì sẽ làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước bị chia rẽ và nguy cơ tự sụp đổ của thể chế chính trị là điều khó tránh khỏi.

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng vấn đề “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức diễn ra rất phức tạp, đa dạng, nhiều cấp độ, trong đó cấp độ cao nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị trên các vấn đề, như: phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thiếu niềm tin, hoài nghi, thậm chí phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xa rời các nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới, đòi Đảng từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và cổ suý cho tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử thiếu khách quan, toàn diện; đòi xét lại con đường đi lên CNXH ở nước ta, kêu gọi thay bằng chế độ TBCN; xuyên tạc, bôi đen hình ảnh lãnh tụ và các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta... Khi tư tưởng chính trị chệch hướng sẽ làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước bị chia rẽ và nguy cơ tự sụp đổ của chế độ chính trị là khó tránh khỏi. Vì vậy, trong những năm qua, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm thúc đẩy "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, tổ chức; trước hết nhằm vào các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, là nơi hoạch định, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách của đất nước. Tùy theo từng đối tượng và phạm vi tác động mà các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn, nội dung, hình thức và phương pháp thúc đẩy "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức khác nhau.

Vấn đề trên đã được thực tiễn chứng minh một cách sống động: lịch sử CNXH hiện thực trên thế giới đã có nhiều bài học cay đắng, nhất là những bài học nóng hổi ở Liên Xô và Đông Âu; nơi mà Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân, chế độ XHCN đã từng chiến thắng trước mọi thử thách cam go, ác liệt của chiến tranh, nhưng lại gục ngã trong hoà bình, trước sự tấn công nham hiểm, ác độc của chiến lược "DBHB" do CNĐQ và các thế lực thù địch phát động. Trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, có nguyên nhân "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, CNĐQ và các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” đối với các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam, vì chúng cho rằng: trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại, giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường sẽ có "khoảng trống" và mặt trái để chúng dễ tiếp cận, lợi dụng chống phá. Bên cạnh đó, lợi dụng chủ trương, chính sách tự do ngôn luận, tự do báo chí của Đảng, Nhà nước; những vấn đề nhạy cảm về nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; đặc biệt là những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, những yếu kém, tiêu cực của một số đảng viên là cán bộ chủ trì trong giải quyết chính sách kinh tế, xã hội... chúng xuyên tạc, bịa đặt, nhằm tạo ra mâu thuẫn xã hội, thông qua đó, thúc đẩy "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta...

Trên thực tế, bên cạnh sự ổn định, vững vàng về tư tưởng chính trị, tổ chức, nội bộ chúng ta cũng đã xuất hiện những dấu hiệu "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" rất đáng lo ngại. “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”[2]; thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tuy chưa công khai từ bỏ CNXH, song cho rằng, CNXH là mục tiêu cao cả nhưng xa vời, trước mắt nên tập trung phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh là đủ.

"Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức xuất hiện do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, trong đó có sự tác động bởi thủ đoạn "DBDH"  của các thế lực thù địch. Hiện nay, thủ đoạn đó ngày càng thâm độc, xảo quyệt; quyết liệt hơn về cường độ, mở rộng hơn về nội dung, đối tượng, phạm vi hình thức, cũng như phương pháp tấn công. Tuy nhiên, mảnh đất "màu mỡ" của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trước hết là ở tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đó là tình trạng tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước, tệ nạn tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước và trong xã hội còn nhiều mặt bị buông lỏng; công tác lý luận chưa khắc phục được sự lạc hậu so với phát triển của thực tiễn; lý luận chưa giải đáp có căn cứ khoa học, thuyết phục những vấn đề thực tiễn đặt ra, làm chậm việc hoàn thiện đường lối đổi mới, ảnh hưởng tới sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế.

Đối với Quân đội, trong những năm qua đã được Đảng, Nhà nước chăm lo xây dựng về mọi mặt, trước hết là xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nhờ đó chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu không ngừng được nâng lên. Quân đội đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh, nhất là đã làm tốt vai trò nòng cốt, phối hợp với các ngành, các lực lượng, chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "DBHB" của các thế lực thù địch; là lực lượng quan trọng trong phòng, chống dịch COVID -19 của đất nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nội bộ Quân đội không có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Tuy nhiên, Quân đội cũng là một bộ phận của xã hội; là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tin cậy và trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Bởi vậy, để chống phá Đảng, chuyển hóa chế độ ta, CNĐQ và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện "phi chính trị hóa" Quân đội, thực hiện âm mưu chia rẽ Quân đội với Đảng, Quân đội với Công an và tìm cách làm "méo mó" hình ảnh của Quân đội trong lòng nhân dân. Những hạn chế yếu kém như Báo cáo Chính trị của Đảng ủy QSTW tại ĐHĐB Đảng bộ Quân đội lần thứ IX đã chỉ ra: “Một số cán bộ, đảng viên còn chủ quan, mơ hồ, sa sút về phẩm chất đạo đức và lối sống…”; hiện tượng vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội của một số đảng viên, cán bộ, chiến sĩ hiện nay, nếu không có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục kịp thời sẽ là nguyên nhân nảy sinh "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, tổ chức. Vì vậy, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên  lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức trong quân đội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách và thường xuyên của công tác tư tưởng chính trị, tổ chức. Để phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, tổ chức trong Quân đội đạt hiệu quả cao, đảm bảo cho Quân đội thật sự là đội quân chiến đấu tin cậy và trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

VM.

[1] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG - ST, Hà Nội -2011, tr. 29.

[2] . Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb CTQG - ST, Hà Nội - 2012, tr. 22.

[3]. ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCH TW khóa XI, Nxb CTQG - ST, Hà Nội - 2012, tr. 37.

 

 

Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950: 70 năm vẹn nguyên giá trị lịch sử

Ngày đăng: 16/09/2020   04:20
Mặc địnhCỡ chữ 
Kỷ niệm 70 năm Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 là dịp để chúng ta cùng ôn lại một dấu mốc lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, qua đó khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cả dân tộc, đặc biệt trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới, mở đường giao lưu với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Phương châm tác chiến của chiến dịch là “đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát trận đánh mở màn của bộ đội ở Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới (1950).

Quyết tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn

Sau Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, lực lượng kháng chiến của ta phát triển về mọi mặt; chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch; lực lượng vũ trang ba thứ quân hình thành tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực phát triển nhanh, phương thức tác chiến phát triển từ đánh du kích lên đánh tập trung, với nhiều chiến dịch quy mô nhỏ trên chiến trường. Thời điểm này, được Mỹ giúp sức, thực dân Pháp ráo riết thực hiện Kế hoạch Rơ-ve, tập trung lực lượng mở rộng chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ; ra sức phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam; bao vây, cô lập căn cứ địa Việt Bắc.

Trước tình hình đó, để đẩy mạnh kháng chiến tiến lên một bước mới, tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt - Trung với mục đích: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Cân nhắc giữa hai hướng Tây Bắc và Đông Bắc, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định tiến công địch, giải phóng biên giới ở hướng Cao Bằng - Lạng Sơn.

Thực hiện nhiệm vụ Trung ương giao, ngày 07/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong II, tiến công phòng tuyến của địch trên Đường số 4, tập trung vào khu vực Cao Bằng - Thất Khê.

Với quyết tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng này, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghiên cứu tình hình, phê chuẩn kế hoạch tác chiến, chỉ đạo các ngành ở Trung ương và địa phương đem hết sức mình phục vụ tiền tuyến và thực hiện sự phối hợp chiến trường trên toàn quốc để bảo đảm cho chiến dịch toàn thắng. Liên khu Việt Bắc là địa phương chính động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch. Để bảo đảm chắc thắng, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định sử dụng nhiều đơn vị mạnh tham gia chiến dịch. Với tổng số lực lượng tương đương hai đại đoàn, Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 đã vượt tất cả các chiến dịch trước đây về quy mô sử dụng lực lượng.

Hạ tuần tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Sáng sớm ngày 16/9/1950, ta bắt đầu nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch. Mặc dù địch chống cự hết sức quyết liệt và tình huống chiến đấu diễn ra rất gay go, phức tạp, song bộ đội ta vẫn dũng cảm chiến đấu, tổ chức nhiều đợt xung phong, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Sau 54 giờ chiến đấu, sáng ngày 18/9, bộ đội ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê. Chiến thắng oanh liệt của trận mở màn ở Đông Khê đã cổ vũ khí thế giết giặc lập công trên khắp các mặt trận và đặc biệt quan trọng là tạo thế rất thuận lợi cho sự phát triển tiếp theo của toàn bộ chiến dịch.

Sau thất bại Đông Khê, Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương vội vàng thực hiện kế hoạch rút quân khỏi thị xã Cao Bằng theo đường số 4, nhằm tránh nguy cơ bị tiêu diệt. Theo kế hoạch này, binh đoàn Lơ Pa-giơ ở Thất Khê (gồm 4 tiểu đoàn, do Trung tá Lơ Pa-giơ chỉ huy), có nhiệm vụ hành quân tiến lên chiếm lại Đông Khê để đón binh đoàn Sác-tông (gồm 3 tiểu đoàn do Trung tá Sác-tông chỉ huy) từ Cao Bằng rút về. Ngoài ra, Bộ chỉ huy quân Pháp còn mở cuộc hành quân Phô-cơ đánh lên vùng tự do Thái Nguyên, nhằm thu hút chủ lực của ta, giải tỏa cho hướng biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn. Nhờ phán đoán từ trước và đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó, ta vẫn tập trung lực lượng tại biên giới, kiên quyết tiến hành kế hoạch chiến dịch như đã xác định.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt địch ở Đông Khê, Bộ Chỉ huy chiến dịch tập trung gần như toàn bộ lực lượng để đánh quân địch đi tiếp viện, lấy đó là đòn đánh then chốt quyết định giành toàn thắng. Từ ngày 01 đến ngày 05/10 đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt ở khu vực phía nam và tây Đông Khê. Lơ Pa-giơ chẳng những không thực hiện được ý định chiếm Đông Khê mà còn bị ta tiêu diệt một bộ phận, cuối cùng phải chạy dồn vào khu núi đá Cốc Xá, nơi có địa hình hiểm trở, dựa vào đó cố thủ và lấy đó làm địa điểm đón quân Sác-tông. Từ chiều ngày 05 đến sáng ngày 07/10, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, 4 tiểu đoàn của ta đã liên tục công kích địch ở Cốc Xá, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch. Lơ Pa-giơ cùng ban tham mưu và một bộ phận tàn quân chạy thoát, nhưng đến chiều hôm sau (08/10) toàn bộ bị bắt gọn.

Ngày 08/10, một tiểu đoàn do Đờ-la Bôm chỉ huy từ Thất Khê tiến lên định ứng cứu cho Lơ Pa giơ và Sác-tông cũng bị ta đánh tan. Địch liên tiếp rút chạy khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lạng Giang, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu. Bộ đội ta tiếp tục tổ chức truy kích địch, nhưng do sức đã giảm sút, thời tiết diễn biến không thuận lợi nên chỉ đánh được vài trận nhỏ, tiêu hao thêm một số binh lực địch. Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 kết thúc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950.

Một bước nhảy vọt của Quân đội ta về nghệ thuật chiến dịch

Với chiến thắng của Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, đây là lần đầu tiên sau bốn năm kháng chiến ta mở một chiến dịch tiến công lớn, đánh vào tuyến phòng thủ mạnh của địch, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược quan trọng. Đồng thời, mở ra một bước ngoặt chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn. Làm phá sản kế hoạch quân sự chính trị của thực dân Pháp, gây nên thất bại chưa từng có trong chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp tính đến thời điểm lúc bấy giờ.

Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950 cũng đánh dấu một bước tiến nhảy vọt của Quân đội ta về nghệ thuật chiến dịch. Lần đầu tiên ta mở một chiến dịch quy mô lớn, đánh tập trung chính quy, hiệp đồng binh chủng với lực lượng gần ba vạn cán bộ, chiến sĩ, huy động hàng vạn dân công, tiến công vào một hệ thống phòng ngự mạnh của địch trên tuyến dài hàng trăm ki-lô-mét, đánh liên tục cả tháng. Qua đó, chứng tỏ trình độ chỉ huy và trình độ chiến thuật, kỹ thuật của bộ đội ta có bước trưởng thành vượt bậc; trở thành nguồn động viên to lớn đối với quân và dân ta.

Với thắng lợi vừa giành được, quân và dân ta càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào sức mạnh của chính mình và càng hăng hái quyết tâm đẩy mạnh kháng chiến. Sau Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950, quân và dân ta tiếp tục giữ vững quyền chủ động, phát huy thế tiến công chiến lược trong những năm 1951 - 1953; tiến tới giành thắng lợi liên tiếp trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc thực dân pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới cũng đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến. Kỷ niệm 70 năm Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 (16/9/1950 - 16/9/2020) là dịp để chúng ta cùng ôn lại một dấu mốc lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, qua đó khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cả dân tộc, đặc biệt trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng./.

ST Báo ĐCS VN