Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

Nhìn nhận tác động phán quyết Biển Đông sau bốn năm

Ngày 12/7/2016, Tòa trọng tài quốc tế thành lập theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) đã ra phán quyết cho vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Tòa kết luận rằng các quyền và nghĩa vụ của các thành viên UNCLOS (trong vụ này là Philippines và Trung Quốc) đều được điều chỉnh bằng Công ước và vì vậy mọi yêu sách biển không phù hợp với Công ước đều bị bác bỏ, trong đó yêu sách biển của Trung Quốc dựa trên đường 9 đoạn hoàn toàn bị bác bỏ.

Sau phán quyết trên, Trung Quốc đã thực hiện chính sách 3 không (không chấp nhận thẩm quyền của Tòa, không công nhận phán quyết và không thi hành phán quyết), áp dụng mọi biện pháp để giảm thiểu ảnh hưởng của phán quyết: Từ đe dọa, vận động các nước không ra tuyên bố ủng hộ tới mở cuộc chiến pháp lý bác bỏ các luận điểm của phán quyết qua các tuyên bố ngoại giao và nghiên cứu hơn 500 trang của Hội luật quốc tế Trung Quốc. Quan chức ngoại giao Trung Quốc còn gọi phán quyết là tờ giấy - “just a piece of paper” được vứt vào thùng rác của lịch sử. Đồng thời, Bắc Kinh sử dụng chiến lược cây gậy và củ cà rốt trong quan hệ với các nước trong khu vực, song song thực hiện sáng kiến Một vành đai Một con đường và các công cụ kinh tế là các hành động đe nẹt, cưỡng chế.

Từ thời điểm phán quyết có hiệu lực đến nay, Trung Quốc đã có nhiều hoạt động ngang ngược, gây bất ổn tình hình trên khu vực Biển Đông. Điển hình là vụ ngăn cản hoạt động dầu khí của Việt Nam tại lô 136/03 khu vực Tư Chính tháng 7/2017 và vụ bao vây cắt đường tiếp tế cho quân đồn trú trên đảo Thị Tứ đang do Philippines kiểm soát tháng 8/2017. Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng cường các hoạt động trên đảo nhân tạo xây dựng trái phép, tiếp tục áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá, và các hoạt động khác nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng của Biển Đông. Năm 2019, tàu Trung Quốc bỏ mặc 22 ngư dân Philippines bị đâm chìm trên biển, tàu Hải dương địa chất 8 xâm nhập vào lô 06.01 gây áp lực với Việt Nam. Năm 2020, Trung Quốc còn sử dụng thường xuyên sức mạnh áp chế, với tần suất cao hơn và phạm vi bao trùm toàn bộ các vùng biển trong phạm vi đường 9 đoạn. Tàu cá Việt Nam bị đâm chìm, tàu Philippines bị tàu Trung Quốc khóa mục tiêu, Indonesia phát hiện tàu Trung Quốc quanh biển Natura, West Capella bị quấy nhiễu trong vùng thềm lục địa Malaysia. Một số tập đoàn nước ngoài ngừng hợp đồng thăm dò, thẩm lượng dầu khí do có bóng dáng của sự đe nẹt từ Trung Quốc. Cao điểm là việc Trung Quốc ngang ngược tuyên bố thiết lập 2 quận hành chính Nam Sa và Tây Sa trong tháng 4/2020. Đó là chưa kể hoạt động đặt tên các thực thể chìm trên thềm lục địa Việt Nam, lập các trạm nghiên cứu khoa học trên các đảo nhân tạo, đưa chiến đấu cơ ra Trường Sa, Hoàng Sa, tăng tập trận tại Biển Đông, duy trì cấm đánh bắt cá và tuyên bố cấm các hoạt động đáy biển theo chiến dịch Biển Xanh (Blue Sea Code) khởi động tháng 4/2020. 

Phản ứng của Trung Quốc có thể nói là rất “cùn” khi bất chấp luật pháp quốc tế. Mặc dù vậy, các phán quyết của Tòa án và trọng tài quốc tế đã có tác động rất lớn đến nhận thức và hành xử của các nước có quyền lợi trực tiếp liên quan đến Biển Đông, làm sáng tỏ những câu hỏi đặc thù và vì vậy có một sức thuyết phục pháp lý đáng kể. Phán quyết là chất xúc tác cho Malaysia đệ trình thềm lục địa mở rộng về phía Bắc tháng 12/2019 khi các thực thể ở Trường Sa được cho là không có thềm lục địa riêng để chồng lấn lên thềm lục địa mở rộng này. Hành động của Malaysia là dịp để các nước làm sáng tỏ lập trường của mình về Biển Đông sau phán quyết. Công hàm Philippines gửi Trung Quốc ngày 6/3/2020 lần đầu tiên khẳng định các kết luận của phán quyết tại diễn đàn Liên hợp quốc. Công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam khẳng định UNCLOS là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Indonesia, gửi 2 công hàm ngày 26/5/2020 và 12/6/2020, ủng hộ phán quyết trọng tài Biển Đông năm 2016 rằng không một thực thể biển nào trong quần đảo Trường Sa được có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và bản đồ đường 9 đoạn rõ ràng thiếu cơ sở luật quốc tế, hoàn toàn ngược lại với Công ước Luật biển 1982. Mỹ cũng tham gia vào cuộc chiến này với công thư ngày 1/6/2020 và tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo ngày 14/7/2020 về chính sách của Mỹ ở Biển Đông với lập trường nhất quán, trung lập trong vấn đề chủ quyền nhưng lên án mọi yêu sách biển phi pháp, không phù hợp với luật biển quốc tế. Tiếp theo là một loạt sự ủng hộ từ các nước khác như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, EU... đều đòi hỏi thực thi phán quyết để bảo đảm quyền tự do biển cả. Hội nghị cấp cao ASEAN36 ngày 26/6/2020 khẳng định UNCLOS là cơ sở để xác định các danh nghĩa biển, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp trên các vùng biển và UNCLOS xác định khung pháp lý cho việc tiến hành tất cả các hoạt động đại dương và biển.

Những gì thực tế lịch sử 4 năm qua sau phán quyết Biển Đông cho thấy sự ủng hộ ngày càng nhiều của cộng đồng quốc tế theo đúng chuẩn mực luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982, và có thể thấy rõ, Trung Quốc đang rất đơn độc với lập luận quyền lịch sử và đòi hỏi các thực thể đi ngược lại các quy định của luật quốc tế, bao gồm UNCLOS.

Không chỉ chính phủ mà người dân trên khắp thế giới, nhất là người dân Trung Quốc cần được biết đến phán quyết,  đến các kết luận “không thể đàm phán” của phán quyết. Mọi mưu toan đặt luật lệ riêng đứng trên các quy định của UNCLOS đều không thể chống lại bánh xe của lịch sử. 

Đặc biệt, phán quyết Biển Đông ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài quốc tế là điểm tựa cho các nước ASEAN cùng nhau đoàn kết, tích cực đấu tranh vì một trật tự dựa trên luật pháp với vai trò trung tâm của ASEAN nhằm đạt mục tiêu hòa bình, ổn định và năng động trong khu vực.

(Nguồn tham khảo: Tổng hợp từ các bài viết của Đại sứ Nguyễn Hồng Thao Phó Chủ tịch thứ 2 Ủy ban luật pháp quốc tế Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2017-2021 đăng trên báo điện tử https://vietnamnet.vn).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét