Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2022

BÁC BỎ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC PHẨM CHẤT TRUNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

  


BÁC BỎ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC PHẨM CHẤT TRUNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị ra sức “tấu” những điệp khúc xuyên tạc quen thuộc, hòng chia rẽ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, thúc đẩy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Bởi vậy, cảnh giác, nhận rõ và chủ động đấu tranh, bác bỏ các luận điệu, chiêu trò đó là vấn đề quan trọng, cấp thiết.

Vẫn luận điệu cũ, họ tiếp tục rêu rao rằng: “Quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân”. Thực chất luận điểm trên của các thế lực thù địch không có gì mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Nó vẫn nằm trong mục tiêu hòng “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, phủ nhận phẩm chất trung thành của Quân đội ta, đưa Quân đội vào trung lập hóa, mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phai nhạt bản chất giai cấp công nhân, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất sức chiến đấu. Cần khẳng định rõ: đây là luận điểm lố bịch về khoa học - trò hề trong trò chơi chính trị của các thế lực thù địch. Do đó, cần vạch rõ tính chất phản khoa học, phản động của luận điểm trên.

Về hình thức ngôn ngữ thì loại luận điểm trên, nếu nghe qua dễ làm cho người ta cảm thấy chưa có vấn đề gì, thậm chí không ít người còn gật gù chấp nhận. Vì, nó cũng bàn đến phẩm chất trung thành của Quân đội, nhất là sự trung thành với Tổ quốc với Nhân dân. Nhưng suy xét một cách kỹ lưỡng chúng ta thấy, ẩn chứa sau đó là âm mưu chống phá rất thâm độc của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Bởi, cách họ không bao giờ công khai lập trường, quan điểm phản động, mà dùng lối cắt xén từ ngữ, đánh tráo khái niệm trong thuật ngụy biện để che đậy bản chất chống phá một cách tinh vi. Thuật ngụy biện cũng để ý tới các mặt, những mối liên hệ khác nhau của sự vật, nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất và ngược lại. Trên thực tế, với thủ đoạn tinh vi, họ đã nhiều lần dùng thuật ngụy biện để xuyên tạc bản chất, phủ nhận giá trị khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng. Song, những việc làm đó của họ khó đánh lừa được dư luận và sẽ chịu thất bại. Trong luận điểm: Quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân. Về thực chất là họ phủ nhận phẩm chất trung thành của Quân đội ta, phẩm chất này đã được hình thành, tôi luyện, củng cố ngay từ khi thành lập Quân đội đến nay. Họ cắt xén nội dung: phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho nội hàm của khái niệm phẩm chất trung thành bị biến dạng hoàn toàn về bản chất. Tách và bỏ nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự xuyên tạc trắng trợn, nhằm chống phá Quân đội ta. Đó là biểu hiện của sự tùy tiện, chủ quan, phi lôgíc mà thuật ngụy biện thường dùng. Họ chỉ dùng nội dung phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân nhằm hướng nhận thức của mọi người vào cái chung chung “lửng lơ”, mà không đi đến gốc rễ của vấn đề. Mục đích của họ là để dẫn mọi người đến nhầm lẫn, hòa tan giữa Tổ quốc mang bản chất của giai cấp tư sản và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mang bản chất giai cấp công nhân là một. Và, từ đó sẽ dẫn tới Quân đội ta mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Đây là sự xảo trá, hết sức thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm tách bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ta. Như vậy, nếu cụ thể vào luận điểm, chỉ trung thành với Tổ quốc, với nhân dân “trần trụi” như thế thì rõ ràng đó là một hình thức đánh lừa quần chúng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta hiện nay.

Về nội dung, điều đặc biệt nguy hiểm là các thế lực thù địch đã tách, bỏ nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì nội dung này là cái quyết định nhất đến cái tổng thể của khái niệm trung thành. Trung thành với sự lãnh đạo của Đảng là quyết định nhất bản chất chính trị, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nếu không còn nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ dẫn Quân đội ta đi vào trung lập hóa, bị “phi chính trị hóa” và cuối cùng cái trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân cũng sẽ không còn. Về bản chất, giữ vững nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bao hàm sự trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và mục tiêu bảo vệ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Việc tách và bỏ nội dung trên là làm cho khái niệm phẩm chất trung thành của Quân đội ta trở lên trống rỗng, đánh mất bản chất chính trị cách mạng, bản chất giai cấp công nhân; xa rời mục tiêu lý tưởng, mục tiêu chiến đấu,… trượt khỏi chế độ xã hội chủ nghĩa để đi vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.

Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ: không có và không thể có bất kỳ một quân đội nào lại không gắn với một đảng cầm quyền. Và quân đội luôn mang bản chất chính trị, bản chất của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp, nhà nước tổ chức ra, sử dụng nó. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo Quân đội, được khẳng định rõ tại Điều 25, Chương VI, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Trong đó, chính trị của Quân đội ta tập trung cao nhất ở phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng rồi mới đến các phẩm chất trung thành khác. Việc tách và bỏ phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có nghĩa đưa Quân đội rơi vào “phi chính trị hóa”, mất định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, vu vơ về chính trị, như một thể xác không có linh hồn. Điều này đã được thực tiễn minh chứng rõ từ việc các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây là khi đất nước, Tổ quốc diễn ra chính biến chính trị thì quân đội tuyên bố trung lập, mất định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa dẫn đến sụp đổ cả một chế độ xã hội.

Với ý nghĩa đó chúng ta khẳng định rằng, không chấp nhận luận điểm: Quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân. Chúng ta kiên quyết đấu tranh bác bỏ, từ đó tăng cường định hướng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, đổi mới phương pháp vạch trần thuật ngụy biện trong đấu tranh, phản bác các quan điểm phản khoa học, phản động của các thế lực thù địch. Chỉ như vậy chúng ta mới có cơ sở khoa học đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái một cách thuyết phục, làm vô hiệu hóa chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Quân đội ta thật sự là một cơ thể cường tráng “miễn dịch” với các vi rút độc hại, sự chống phá của các thế lực thù địch.

TỪ CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐẾN CHIẾN THẮNG DỊCH BỆNH-KHẲNG ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI SÁNG SUỐT CỦA ĐẢNG

 Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử, khẳng định tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Chiến thắng thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, từ cường và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã trải qua 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thử thách, cam go, ác liệt nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đương đầu với tên đế quốc giàu mạnh nhất và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này phải trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch chiến lược của đế quốc Mỹ. Đó là 05 giai đoạn : 1. Từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960, ta tập trung đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ; 2. Từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965, ta giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ; 3. Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968, Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc; 4. Từ năm 1969 đến 1973, quân và dân ta phát huy sức mạnh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán; 5. Từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975 là giai đoạn tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng 30/4 là chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta lại vận dụng một cách sáng tạo vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn.

Trải qua 47 năm sau chiến thắng lịch sử, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta từng bước phát triển mọi mặt, khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, cho đến nay là đợt dịch lần thứ 4. Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước bước qua khó khăn, thử thách.
Mỗi một đợt dịch bùng phát, đều có đặc điểm khác nhau và các biến thể khác nhau của virut, đảng ta tùy vào mỗi thời điểm đã có những chính sách, quyết định khác nhau để đưa đất nước từng bước vượt qua mỗi đợt dịch, được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao.

Ví dự như : Trả lời phỏng vấn truyền thông vào đầu năm 2021, Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam, Ngài Pranay Verma đánh giá cao sự thành công Đại hội Đảng lần thứ XIII và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam trong lịch sử và giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh một năm đầy thách thức với nhiều hoạt động bị gián đoạn trên toàn cầu do Covid-19, Việt Nam đã thành công trong việc ứng phó với đại dịch phức tạp, đưa kinh tế ổn định và tăng trưởng tích cực. Về tương lai, Đại hội đã xác định những cơ hội và thách thức mà Việt Nam phải đối mặt và đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội trong 5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Trong khi khẳng định sức mạnh và khả năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, PGS.TS. Artyom Lutkin, Phó giám đốc Viện Phương Đông thuộc trường Đại học Liên bang Viễn Đông của Nga, nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là Đảng của nhân dân, vì nhân dân, luôn lắng nghe tiếng nói và tâm trạng của nhân dân; “Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời đổi mới. Việc duy trì tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19 là minh chứng nổi bật về sự ổn định của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều hành của Chính phủ Việt Nam”;...

Đó là vài dẫn chứng cho thấy rõ sự đúng đắn, vào cuộc kịp thời của các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, sự quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành hiệu quả của các cấp ủy đảng, chính quyền và sự đoàn kết, tương trợ giữa ngành y tế với các bộ, ban, ngành khác và giữa các địa phương trong cả nước; đó là mô hình thể chế chính trị tập trung, thống nhất, được coi là một lợi thế đặc trưng giúp chúng ta phản ứng nhanh chóng với các tình huống và diễn biến của dịch bệnh đang ngày càng phức tạp, tốc độ lây lan nhanh chóng. Ngay trong thời điểm hiện nay, vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến chống Covid-19 có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc, tính mạng con người, bởi các biến chủng mới đang có tốc độ lây lan nhanh chóng, khó kiểm soát.
Từ thực tiễn hoạt động phòng, chống dịch bệnh đã khẳng định sức mạnh và vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, cũng như việc đưa Nghị quyết Đại hội Đảng vào cuộc sống đang là mục tiêu cấp thiết cần sự chung tay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Trải qua những khó khăn lớn của đất nước, càng khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta là kim chỉ nam cho mọi thắng lợi của đất nước, cùng với sự đoàn kết của các tầng lớp nhân dân, đất nước Việt Nam XHCN sẽ ngày càng phát triển vững vàng, cuộc sống của nhân dân ngày càng hạnh phúc, càng thêm tin tưởng vào Đảng ta./.

RA SỨC HỌC TẬP, RÈN LUYỆN ĐỂ TIẾN BỘ, TRƯỞNG THÀNH

 Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, mỗi quân nhân luôn không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt. Đó cũng là đặc trưng cơ bản được khái quát trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương (sau đây gọi là Nghị quyết 847) về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới.

Phải khẳng định, Quân đội ta là một trường học lớn, ở đó quân nhân được học tập toàn diện để nâng cao trình độ mọi mặt. Người xưa dạy rằng “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Trong môi trường quân sự, người chiến sĩ được chỉ dạy những điều nhỏ nhất như: Học sắp đặt nội vụ ngăn nắp, gọn gàng, học xưng hô, chào hỏi, đi đứng cho đúng lễ tiết, tác phong, học giao tiếp, ứng xử để giải quyết các mối quan hệ công tác... Khi vào huấn luyện, bộ đội được học tập chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ...

Như vậy, có thể thấy rằng, quân nhân được quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, kỹ năng sống để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bất kể ở đâu, khi nào, việc học tập cũng được coi trọng dù trong sinh hoạt đời thường hay khi huấn luyện, công tác; dù trong chiến đấu hay giữa thời bình. Nhờ có học tập mà bộ đội ngày càng tiến bộ, trưởng thành.

Nhìn lại lịch sử có thể thấy rằng, Quân đội ta, tiền thân là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, ngày đầu thành lập đã hô vang 10 lời thề danh dự. Trong đó, lời thề thứ tư khẳng định: “Lúc nào cũng khẩn trương hoạt bát, hết sức học tập để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sĩ tiên phong giết giặc, cứu nước”. Thế nên, dù ngày đầu thành lập vô cùng khó khăn nhưng cán bộ, chiến sĩ đã hết sức coi trọng việc học tập, rèn luyện.

Bởi là người chiến sĩ tiên phong thì phải có trình độ nhận thức, có kiến thức để tuyên truyền vận động nhân dân đi theo cách mạng, để đấu tranh với kẻ thù gian ác, nguy hiểm. “Giặc dốt” cũng là kẻ thù của cách mạng. Người chiến sĩ phải đi đầu trong diệt “giặc dốt”, xóa nạn mù chữ. Chính vì thế, học tập cũng là một nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cách mạng.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với nhiệm vụ chiến đấu, bộ đội luôn tích cực học tập. Các lớp bồi dưỡng, tập huấn được mở ra ngay tại chiến khu. Các trường quân sự cũng được thành lập. Bộ đội từ chiến trường được về giảng đường học tập và từ nhà trường lại ra chiến trường chiến đấu. Nhờ vậy, cán bộ, chiến sĩ có điều kiện gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành để tiếp tục chiến đấu và giành chiến thắng.

Quân đội ta vinh dự được Bác Hồ quan tâm giáo dục, rèn luyện. Người căn dặn: “Toàn thể cán bộ và chiến sĩ phải ra sức học tập chính trị, quân sự, văn hóa, cần phải nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân, cần phải nắm vững đường lối quân sự của Đảng, ra sức rèn luyện kỹ thuật và chiến thuật, cần phải luôn nêu cao cảnh giác, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”.

Lời căn dặn của Người chỉ rõ đối với bộ đội phải học tập toàn diện về chính trị, quân sự, văn hóa, phải rèn luyện cả về kỹ thuật và chiến thuật. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội học không chỉ để biết mà học để “làm việc, làm người, làm cán bộ” và mục đích cuối cùng đó là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Nhờ học tập, rèn luyện, nhiều thế hệ cán bộ trong quân đội đã trưởng thành, đóng góp trí tuệ vào sự nghiệp chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trở về từ khói lửa chiến trường, nhiều người lính cầm súng ngày nào lại miệt mài cầm bút ngồi trên giảng đường. Cũng từ đây, nhiều đồng chí trở thành nhà khoa học, giảng viên, cán bộ, tiếp tục truyền thụ tri thức, đóng góp xây dựng quân đội, xây dựng các tổ chức dân, chính, đảng.

Hiện nay, cán bộ, chiến sĩ đều được học tập rất cơ bản. Hệ thống các nhà trường trong quân đội được đầu tư xây dựng theo hướng chuẩn hóa, thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Cán bộ các cấp được bổ nhiệm chức vụ đều qua đào tạo các cấp học tương ứng. Quá trình học tập được tổ chức trong hệ thống nhà trường quân đội và ở các đơn vị. Giáo viên là những người thầy đứng trên bục giảng, là đội ngũ cán bộ quản lý ở đơn vị. Bộ đội học trên giảng đường, ngoài thao trường và trong thực tiễn công tác tạo thành phong trào học tập sôi nổi trong toàn quân.

Các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học theo hướng toàn diện, đổi mới. Hàng loạt công trình khoa học, sáng kiến được nghiệm thu và triển khai có hiệu quả. Với tinh thần thi đua học tập, nghiên cứu, tuổi trẻ quân đội đẩy mạnh Phong trào “Thanh niên quân đội tiến quân vào khoa học và công nghệ”. Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong quân đội với nhiều công trình nghiên cứu đạt chất lượng tốt. Trong các hội thi, hội thao trong nước và quốc tế, quân đội luôn giành được thành tích cao. Mỗi công trình khoa học, giải thưởng là kết tinh trí tuệ, công sức, sự nỗ lực học tập, rèn luyện không ngừng của cán bộ, chiến sĩ toàn quân, mang lại lợi ích thiết thực trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và dân sinh, đem vinh quang về cho Tổ quốc.

Tích cực học tập, rèn luyện vừa là nhu cầu tự thân vừa là đòi hỏi đối với mỗi quân nhân, bởi có học tập mới có tri thức, phương pháp tác phong công tác, không bị tụt hậu lỗi thời. Thế nhưng trong quá trình công tác vẫn còn quân nhân chưa thực sự ham học hỏi, cầu tiến bộ, có biểu hiện thỏa mãn, cầm chừng, ngại học, ngại rèn. Nghị quyết 847 đã thẳng thắn chỉ ra biểu hiện “Coi thường lý luận, xa rời thực tiễn, lười học tập, rèn luyện, thích tự do, vô kỷ luật”. Vì không tích cực học tập, không cập nhật thông tin dẫn đến thiếu hiểu biết, có nhận thức lệch lạc, nảy sinh tư tưởng tiêu cực, hành động sai trái, vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước. Lười học tập, ngại rèn luyện là những căn nguyên dẫn đến suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, đánh mất những giá trị phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ.

Nhớ lời Bác Hồ căn dặn: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ càng thấy cần phải học thêm”. Trong các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ mà Nghị quyết 847 đề ra cũng chỉ rõ, bên cạnh xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, cần phải “có kiến thức, năng lực toàn diện”, thực sự là tấm gương mẫu mực trong phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Với bộ đội cần phải học tập toàn diện, học ở trường lớp, học trong sách vở, học từ đồng đội, học ngoài nhân dân.

Hoạt động quân sự mang tính đặc thù cao. Do vậy nhiệm vụ học tập để trang bị cho bộ đội có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với từng chức trách, nhiệm vụ nhất định, hình thành lý tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của quân nhân cách mạng, có thế giới quan khoa học, linh hoạt nhạy bén, năng động, sáng tạo thích ứng trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào. Trước yêu cầu hiện đại hóa quân đội, bộ đội càng phải thi đua học tập để có đủ trình độ, tri thức tiên tiến. Hiện nay, quân nhân có điều kiện tiếp thu nhiều kiến thức mới với cách thức tiếp cận hiện đại. Đặc biệt, khi internet phát triển, bộ đội dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt được nhiều thông tin phong phú về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Đó là nguồn tri thức hỗ trợ tích cực cho cán bộ, chiến sĩ trong quá trình học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ toàn diện.

Để việc học trở thành nhu cầu tự thân của mỗi quân nhân, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho mỗi quân nhân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập, rèn luyện, khơi dậy tinh thần tự học, tự rèn, khả năng sáng tạo để thỏa mãn nhu cầu nhận thức và yêu cầu công tác. Quá trình học tập của bộ đội chịu tác động của cả hệ thống giáo dục-đào tạo từ nhà trường đến đơn vị, từ giảng viên đến cán bộ quản lý. Do đó, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới nội dung, hình thức học tập luôn được đặt ra đối với các học viện, nhà trường và đơn vị. Bên cạnh đó, công tác quản lý giáo dục, cơ sở vật chất bảo đảm cũng phải được cải tiến nhằm tạo ra môi trường giáo dục thuận lợi, giúp cho việc dạy và học đạt hiệu quả cao.

Tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn vừa là đặc trưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, cũng là yêu cầu đặt ra đối với mỗi quân nhân phải luôn tự học, tự rèn để có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đóng góp trí tuệ, sức lực xây dựng quân đội vững mạnh, hiện đại.

 

CHẤN CHỈNH CÔNG BỘC “NGỒI TÓT SỖ SÀNG”...

 Hơn hai thế kỷ trước, trong “Truyện Kiều”, cụ Nguyễn Du đã phác thảo chân dung một kiểu người gian manh, trịch thượng, bất nhân... đó là Mã Giám Sinh. Đặc điểm nhận dạng kiểu người này là “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao...”, nhưng văn hóa ứng xử thì “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng...”.

Nhân vật này đã trở thành một điển tích, được người đời sau ẩn dụ nhằm ám chỉ những hành vi kẻ cả, trịch thượng, khả ố... Những biểu hiện phản cảm ấy vẫn đang tồn tại trong văn hóa ứng xử của một bộ phận công bộc, cần phải chấn chỉnh, đấu tranh thẳng thắn để loại bỏ...

Cái “tôi” trịch thượng, xa dân

Một độc giả quen thuộc của Báo Quân đội nhân dân phản ánh với tòa soạn về thái độ tiếp dân của một bộ phận cán bộ ở cơ sở khiến ông và nhiều người rất bức xúc. Chuyện là, ông dẫn đứa cháu đang học trung học cơ sở ra trạm y tế phường xin giấy chứng nhận hết thời gian cách ly để cháu trở lại trường học theo quy định. Cán bộ trực hôm ấy là một người còn trẻ.

“Anh ta chỉ đáng tuổi con tôi. Thế mà khi tôi dẫn cháu vào, anh ta cứ dán mắt vào màn hình điện thoại, chả thèm nhìn tôi, ngả người trên ghế kiểu nửa ngồi nửa nằm, phưỡn cái bụng ra, phẩy tay trả lời cộc lốc rằng, thứ bảy cơ quan không làm việc, muốn xin giấy tờ gì thì thứ hai quay lại. Cán bộ ở cơ sở là bộ phận gần dân, thường xuyên tiếp xúc, làm việc với dân mà phong cách trịch thượng, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” kiểu ấy thì không thể chấp nhận được”, ông nói đầy bức xúc!

Những ví dụ như trên xảy ra không hiếm trong môi trường công sở hiện nay. Sự tác động, ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế về thái độ, phong cách làm việc, tinh thần trách nhiệm... của một bộ phận cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp.

Sự bàng quan, thiếu trách nhiệm, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ khiến nhiều cán bộ phải chịu kỷ luật, một số phải điều chuyển công tác. Một bộ phận khác, do hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực, có thái độ hách dịch, trịch thượng, kẻ cả... khi giải quyết công việc, giao tiếp với dân, được truyền thông phản ánh, đã cho thấy những mảng tối trong văn hóa công chức, văn hóa công sở.

Đáng tiếc là trong số đó, có cả những người có học hàm, học vị cao, giữ cương vị chủ chốt ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương. Bên cạnh những hành vi phản cảm, kém văn hóa thể hiện khi tiếp xúc với dân, sự trịch thượng, kẻ cả, sỗ sàng... còn biểu hiện cả trong phong cách, phương pháp làm việc ở cơ quan, đơn vị. Một số người khi chưa được bổ nhiệm thì tỏ ra gần gũi, chan hòa với anh em đồng nghiệp để tranh thủ, tận dụng sự ủng hộ nhằm đạt được mục đích cá nhân.

Vậy nhưng khi đã có “ghế trên” rồi thì vội vã “quay xe”, tỏ thái độ “ngồi tót sỗ sàng” với ngay cả những đồng nghiệp đã từng giúp đỡ, nâng đỡ mình. Phong cách này là tác nhân gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa Đảng, văn hóa công chức, công sở...

Kiểu công bộc này thường tự trang điểm cho chân dung bản thân bằng hình ảnh “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, cố chứng tỏ mình là người đạo mạo, trí tuệ, hơn người. Thực ra, thứ phong cách, hình ảnh họ cố tạo ra là một kiểu “ngụy quân tử”, “ngụy hàn lâm”, sản phẩm của thói hãnh tiến, cửa quyền...

Văn hóa Đảng là một bộ phận tinh hoa của văn hóa dân tộc. Văn hóa Đảng được cấu thành từ chất văn hóa, hành vi văn hóa của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp. Những biểu hiện như trên, dù chỉ diễn ra ở phạm vi hẹp, là trường hợp cá thể, cá biệt của tổ chức đảng và hệ thống chính trị, nhưng mối nguy hại của nó thì khôn lường. Kiểu cán bộ “ngồi tót sỗ sàng” là hiện thân của lối làm việc quan liêu, cửa quyền, xa dân, là của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi đây là biểu hiện của loại người “lươn, chạch”. Nó là tác nhân của suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống, làm lệch chuẩn văn hóa trong tổ chức đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ: Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở...; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân...

Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng...

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi...

Tuyệt đối không buông lỏng vũ khí đấu tranh...

Đảng ta đã nhận rõ tác hại, nguy cơ của những hạn chế, bất cập nêu trên nên trong tất cả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế... liên quan đến công tác cán bộ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đều được đề cập, nhấn mạnh, bổ sung, ngày càng hoàn thiện các mục tiêu, giải pháp nhằm khắc phục, chấn chỉnh.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ 3 nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong nhiệm kỳ 2021-2026 là: “Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ...”.

Với phương châm lấy xây để chống, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên, bên cạnh chăm lo công tác bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên, các cấp ủy đảng phải đặc biệt coi trọng công tác đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong nội bộ, mà kiểu công bộc “ngồi tót sỗ sàng” là một biểu hiện.

Hành vi cửa quyền, hách dịch, trịch thượng, ngụy hàn lâm... của cán bộ, công chức có thể đó là cái “tôi” của kiểu người “lươn, chạch”, nhưng cũng có thể đó là biểu hiện nhất thời của người đã và đang có sự ngộ nhận, muốn chứng tỏ bản thân.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang tính quy luật. Đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, yếu kém nêu trên, vì thế cũng là cuộc đấu tranh mang tính quy luật.

Chính vì vậy, việc đấu tranh bài trừ, loại bỏ những biểu hiện phản văn hóa trong Đảng đòi hỏi phải kiên trì, kiên quyết, khôn khéo, linh hoạt, đặc biệt là phải bám sát các nội dung trong các nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận, quy chế... Đảng đã ban hành. Nó là cuộc đấu tranh lâu dài giữa cái tốt với cái xấu, cái tích cực với tiêu cực, giữa văn hóa với phản văn hóa... Cuộc đấu tranh ấy diễn ra thường xuyên, liên tục như rửa mặt hằng ngày, diễn ra ở mọi cấp ủy, tổ chức đảng và diễn ra ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Không để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp...”.

Như vậy, với quy trình quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ qua các bước theo quy định hiện hành và vai trò giám sát của nhân dân, tổ chức đảng, cơ quan chức năng các cấp có đủ điều kiện, căn cứ để sàng lọc, lựa chọn cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực vào bộ máy lãnh đạo, quản lý, loại bỏ những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi quy trình.

Vũ khí đấu tranh đã có sẵn. Quan trọng là những người cầm cân nảy mực và mỗi nhân tố, lá phiếu trong quy trình ấy phải luôn nắm chắc vũ khí đấu tranh, không được buông lỏng, xa rời. Đối với việc đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực ở ngay trong bản thân cán bộ, đảng viên vì sự ngộ nhận, chủ quan, duy ý chí..., chúng ta phải tiếp tục mài sắc vũ khí đấu tranh phê bình, tự phê bình, soi chiếu trong các quy định về trách nhiệm nêu gương, về những điều đảng viên không được nói và làm...

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã nêu rõ: “Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình...”.

Có thể nói, chưa bao giờ công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lại được Đảng ta coi trọng, triển khai thực hiện quyết liệt và đạt hiệu quả cao như hiện nay. Có được kết quả đó, một phần quan trọng chính là nhờ Đảng đã trang bị đồng bộ vũ khí đấu tranh bằng hệ thống các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế... và sử dụng thứ vũ khí ấy theo phong cách nêu gương, từ trên xuống dưới, đặc biệt là từ nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay.

Trong hệ thống các văn bản đó, những điều, mục, nội dung quy định đều rất rõ ràng, vừa bao quát, vừa cụ thể, thể hiện rõ tính hiệu lực, hiệu quả. Tốc độ, hiệu quả của công cuộc chuyển đổi số áp dụng trong quản lý, điều hành, giúp hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp ngày càng được giám sát chặt chẽ bằng công nghệ thông minh.

Đó chính là tiền đề quan trọng về kỹ thuật, giúp cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, quá trình rèn luyện, trau dồi văn hóa Đảng của cán bộ, đảng viên nói riêng ngày càng thuận lợi. Các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là “công bộc” của dân.

QUYẾT LIỆT CHỐNG “CHẠY THÀNH TÍCH” VÀ “THỔI PHỒNG THÀNH TÍCH”

 Trong 10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân mà Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới chỉ ra, có hai lần từ “thành tích” được nhắc đến.

Đó là “chạy thành tích” và “thổi phồng thành tích”. Đây là mặt trái, cũng là biểu hiện của căn bệnh thành tích, nếu không sớm được phát hiện, ngăn chặn, triệt tiêu sớm sẽ làm ảnh hưởng xấu đến truyền thống, uy tín của quân đội, phẩm chất và hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.

Thành tích là kết quả được đánh giá tốt do nỗ lực mà đạt được. Do vậy, trong các phong trào thi đua cách mạng, thành tích là biểu hiện sinh động nhất của kết quả lao động, tinh thần dũng cảm chiến đấu, học tập chăm chỉ, công tác chuyên cần của một người hay một tập thể. Nên ai cũng quý thành tích là vậy!

Gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn phấn đấu không ngừng để đạt nhiều thành tích trên cả 3 chức năng của quân đội (đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất), góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc, chung tay vì sự bình yên của nhân dân, tạo ra nhiều của cải, vật chất làm giàu cho đất nước.

Phấn đấu để có thành tích không phải đơn giản, dễ dàng, mà phải bỏ ra nhiều tâm sức, trí tuệ, vượt nhiều gian khổ, khó khăn. Phấn đấu để ngày càng có thêm thành tích, cống hiến nhiều hơn cho cách mạng là yêu cầu của Đảng, của toàn dân, toàn quân đối với mỗi chúng ta, là thước đo đạo đức tài năng của mỗi cán bộ, đảng viên.

Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Để đạt được mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần phát huy hơn nữa tinh thần cách mạng, khắc phục thái độ làm việc cầm chừng, dũng cảm vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, lập nhiều thành tích xuất sắc.

Tất cả mọi người, mọi cơ quan, đơn vị, địa phương đâu đâu cũng đều cố gắng thi đua lập thành tích thì sự nghiệp cách mạng, dù khó khăn, gian khổ đến mấy, cũng sẽ thắng lợi vẻ vang. Cho nên, chúng ta hết sức quý mến, cảm phục trước những con người, tập thể đã lập nên nhiều thành tích cho cách mạng, cho đất nước.

Đó là những tấm gương sáng để mọi người học tập và noi theo. Đảng, Nhà nước và các cấp, ngành, địa phương luôn quan tâm, khuyến khích động viên mọi người gắng sức để có nhiều thành tích. Những cá nhân và tập thể lập nhiều thành tích được biểu dương, khen thưởng bằng nhiều hình thức khác nhau; những cán bộ có nhiều thành tích được cất nhắc, đề bạt. Đó là sự ghi nhận cần thiết.

Có thể khẳng định: Thời gian qua, nhiều tập thể, cá nhân nhận thức đúng vấn đề thành tích và luôn ra sức phấn đấu để ngày càng có thêm nhiều thành tích với động cơ trong sáng, vô tư, đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp chung của cách mạng.

Tuy nhiên, cũng có một số cá nhân, đơn vị không có hoặc chưa có nhận thức và hành động đúng đắn trong vấn đề này. Biểu hiện là: Một số người, một số đơn vị khi đã có ít nhiều thành tích rồi thì sinh ra kiêu ngạo, tự mãn, ngủ quên trên “vòng nguyệt quế”, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

Tất nhiên, ai trong mỗi chúng ta đều có quyền tự hào với thành tích mình nỗ lực đạt được nhưng phải luôn giữ cho mình đức tính khiêm tốn, luôn xác định kết quả đạt được hôm nay chỉ là thành quả bước đầu trong cả quá trình phấn đấu lâu dài. Nếu ai cũng bằng lòng với thành tích đạt được hôm nay, không tiếp tục tự học tập, rèn luyện, vươn lên gặt hái những thành công tiếp theo thì sự nghiệp cách mạng sẽ chững lại, các phong trào thi đua thiếu đi động lực mới, quyết tâm mới.

Một số khác do mang nặng chủ nghĩa cá nhân mà mắc bệnh thành tích. Họ làm việc gì cũng chỉ vì thành tích, lúc nào cũng nghĩ đến thành tích. Vì mắc bệnh thành tích mà họ sẵn sàng làm gian dối; họ thích được ca ngợi, thích được khen thưởng, “thổi phồng thành tích” và thù ghét những ai “vạch mặt, chỉ tên” những hạn chế, khuyết điểm của mình.

Ở mức độ nghiêm trọng hơn, những người mắc bệnh thành tích còn “chạy thành tích” và "nặn ra thành tích" bằng cách lo lót cho một số cán bộ có chức quyền, báo cáo gian dối, xuyên tạc kết quả. Khi không lo lót được thì họ dùng những mánh khóe để đánh lừa cấp trên và dư luận...

Có thể nói, bệnh thành tích đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều cơ quan, đơn vị, hệ lụy dẫn đến là những báo cáo không trung thực, bao che khuyết điểm, thổi phồng thành tích. Căn bệnh này cần những “phương thuốc hữu hiệu” để chữa trị kịp thời, nếu không sẽ làm ảnh hưởng đến mặt tích cực của thành tích trong các phong trào thi đua cách mạng.

Để chữa căn bệnh này, trước hết mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng động cơ thi đua đúng đắn trong mỗi cán bộ, đảng viên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Phải làm cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ hiểu được lợi ích của thi đua trên là vì nước, dưới là vì nhà, một là ích nước, hai là lợi dân.

Xác định động cơ đúng đắn thi đua vì lợi ích chung giúp mỗi cán bộ, đảng viên biết tự thanh lọc tâm hồn; nâng cao ý thức trách nhiệm, phòng ngừa những biểu hiện của bệnh thành tích; đồng thời, nỗ lực phấn đấu, cống hiến bằng chính năng lực của bản thân.

Mỗi cơ quan, đơn vị cần căn cứ vào điều kiện thực tế của mình, từ đó đăng ký các nội dung, phong trào, chỉ tiêu thi đua phù hợp. Tránh tình trạng phô trương, hình thức, dẫn tới chạy thành tích; đánh giá, khen thưởng không đúng người, đúng việc, đúng thành tích, gây ra những phản ứng ngược trong thi đua.

Chú trọng phát huy vai trò giám sát, đánh giá của các tổ chức quần chúng, đoàn thể trong thi đua. Đây được xem là biện pháp rất quan trọng để chữa trị bệnh thành tích. Bởi quần chúng vừa là người có “trăm tay, nghìn mắt”, vừa là người thực hành, giám sát những việc làm của cán bộ. Họ hiểu rõ hơn ai hết cán bộ nào có tài đức, vì lợi ích chung; cán bộ nào chỉ “sính” thành tích mà làm ẩu nhưng báo cáo hay.

Chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là người đứng đầu trong việc công tâm, khách quan trong đánh giá, nhận xét thành tích các tập thể, cá nhân trong các phong trào thi đua. Trên thực tế, ở đâu người đứng đầu giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ kỷ cương, kỷ luật; luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết thì sẽ chữa trị bệnh thành tích trong đơn vị một cách hiệu quả nhất.

Ngoài những giải pháp trên, để bệnh thành tích được ngăn chặn thì rất cần tới sự trong sáng, khách quan của các cơ quan chức năng trong xem xét, đánh giá để quyết định khen thưởng đúng người, đúng việc. Trong đó, các cơ quan chức năng cần thay đổi phương pháp đánh giá mang tính định lượng nhiều hơn thay cho định tính, theo từng tháng thi đua; có điểm “cộng” và “trừ” rõ ràng để tránh tình trạng những cơ quan, đơn vị làm nhiều nhưng chỉ vì một sơ suất nhỏ (chủ yếu do nguyên nhân khách quan) thì lại bị “trừ” hết thi đua.

Mặt khác, cần sự nghiêm minh và kiên quyết trong công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát; kịp thời loại khỏi đội ngũ số cán bộ, đảng viên mắc sai phạm trầm trọng bởi bệnh thành tích, góp phần ngăn ngừa và đẩy lùi tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Nhận thức đúng đắn về thành tích để nỗ lực hơn nữa vì lợi ích chung, vì sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đồng thời triệt tiêu những mặt trái của bệnh thành tích, để cán bộ, chiến sĩ toàn quân tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp, danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội.

Qua đó, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; quân đội vững mạnh về chính trị; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng quân đội hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

ĐẤU TRANH, ĐẨY LÙI LỐI SỐNG THỰC DỤNG TRONG MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 Ở nước ta hiện nay, bên cạnh lối sống vì con người, vì cộng đồng xã hội được ví như những đóa hoa tỏa ngát hương thơm làm đẹp cho đời thì vẫn còn một bộ phận người có lối sống tiêu cực, gây hại cho cách mạng và xã hội, đó là lối sống thực dụng.

Điều này đã được Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cảnh báo có một bộ phận cán bộ, đảng viên mang biểu hiện: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể”.

Một loại “vi trùng độc hại” phá hủy nhân cách từ bên trong

Trong hơn 9 thập niên lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã giáo dục, rèn luyện một lớp thế hệ cán bộ, đảng viên kiên trung, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Có rất nhiều câu chuyện về lối sống cao đẹp của cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Điển hình như câu chuyện trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kể về Bí thư Đảng ủy xã Tiến Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) nảy ra sáng kiến cho vật liệu lót đường trước, rồi mới cho đất đá vào thì đường mới chịu được sức nặng của đoàn xe. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã đã triệu tập đảng viên họp và yêu cầu dỡ nhà, chặt tre lót đường cho xe qua. Được Đảng bộ xã hưởng ứng, đồng chí Bí thư Đảng ủy xã về dỡ nhà mình trước. Khi dỡ nhà, có người đến hỏi: “Sao ông dỡ nhà?”. Đồng chí trả lời: “Vì miền Nam ruột thịt, vì chiến trường đang thiếu vũ khí chiến đấu, tôi không thể đứng nhìn đoàn xe không qua được. Xe chưa qua, nhà không tiếc!”. Sau đó, đồng chí Bí thư Đảng ủy xã cho người nhà cùng với bộ đội, thanh niên xung phong, vác gỗ, tre ra để làm nền đường.

Những tình cảm, trách nhiệm vì dân, vì nước vẫn được phần đông cán bộ, đảng viên giữ gìn, phát huy trong thời đại mới. Tuy nhiên, những năm qua, cũng đã xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng. Một trong những biểu hiện dễ thấy của người cán bộ, đảng viên có lối sống này là sống vị kỷ, xem lợi ích của mình là tối thượng, “miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Những người này thường “vui trước thiên hạ, lo sau thiên hạ”, họ luôn tìm mọi cách thu vén, thậm chí tranh đoạt lợi ích cho riêng mình, bất chấp việc đó có ảnh hưởng đến người khác và tập thể hay không.

Cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng thường có tham vọng rất lớn, hám công danh, địa vị; họ tìm mọi cách để đạt được mục tiêu chính trị, leo lên các vị trí chức vụ cao, sẵn sàng “chạy” dưới mọi hình thức để dễ bề kiếm chác. Trong công việc, ngoài mặt thì họ tỏ ra tích cực, trách nhiệm, nhưng đằng sau đó, họ lại làm cho xong việc, làm cho có, cốt “đánh trống ghi tên”; khi gặp khó khăn, người có lối sống thực dụng thường dễ thoái chí, bàn lui, không dám làm, tìm cách đùn đẩy, co cụm sống trong “khoảng an toàn”; khi có thành tích thì tranh công, khi có khuyết điểm thì tìm cách đổ lỗi, không dám nhận trách nhiệm về mình. Thậm chí, người có chức vụ, quyền hạn đã dung dưỡng, bao che cho sai trái, tiêu cực, từ đó tạo ra những nhóm lợi ích để trục lợi. Trong ứng xử, người có lối sống thực dụng chỉ chú tâm vào mối quan hệ đem lại giá trị cho họ, các mối quan hệ có giá trị lợi dụng càng lớn thì càng tỏ vẻ chặt chẽ, thân thiết, nhưng khi mối quan hệ đó không còn mang lại lợi ích cho họ thì nhanh chóng nhạt phai.

Trong những dịp được gặp gỡ, trò chuyện với các thế hệ đảng viên đi trước, khi được hỏi về lối sống thực dụng hiện nay, các bậc tiền bối đều cảm thấy lo lắng về tác hại của lối sống này đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trẻ. Nhiều đảng viên lão thành từng cảnh báo rằng, nếu cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng sẽ rất nguy hại với tổ chức, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm giảm uy tín, hình ảnh của cán bộ, đảng viên trong lòng nhân dân.

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao”. Yếu tố tác động, gây ra tính chất nguy hiểm trên đều có sự “góp mặt” của lối sống thực dụng đã và đang hiện hữu trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Nêu gương thực hành đạo đức cách mạng-"ngọn lửa" thiêu rụi lối sống ích kỷ, thực dụng

Lối sống thực dụng bắt đầu hình thành từ trong tư tưởng, nhận thức, đến một giai đoạn nhất định, nó sẽ được thể hiện thông qua hành động của chủ thể. Từ chỗ cán bộ, đảng viên sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Đảng, của dân tộc, khi bị tác động bởi lối sống thực dụng nếu không có sự trui rèn đạo đức, lối sống, con người bắt đầu xuất hiện những tư tưởng đắn đo giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa cống hiến và hưởng thụ, từng bước tạo ra sự chuyển hóa từ bên trong, khiến cho người mang lối sống này không còn là chính họ của ngày hôm qua.

Chúng ta rất quen thuộc với câu nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đây là lời nói dân gian nhưng trong đó chứa đựng tình cảm, sự tin tưởng của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và thể hiện trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân. Muốn hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình và góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, cán bộ, đảng viên phải thật sự gương mẫu về mọi mặt, nhất là về đạo đức, lối sống.

Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng thì lối sống thực dụng sẽ không có cơ hội phát sinh, phát triển. Bởi vì, đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng, là thước đo phẩm chất của người cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(1). Đạo đức cách mạng là bài thuốc hữu hiệu, đặc trị “vi trùng độc hại”-lối sống thực dụng. Để diệt tận gốc “vi trùng độc hại” này, phương thức tối ưu nhất đó là cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, tích cực đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc rằng: Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp.

Điều quan trọng nhất là cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp nói phải đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Đây là hành động cơ bản thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Thực tế trong Đảng ta hiện nay, có không ít cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, nói và làm có những khoảng cách, thậm chí trái ngược nhau. Không ít quan chức tự cho mình cái quyền được nói “làm những điều tôi nói, không được nói điều tôi làm”, thậm chí có người rất hay "lên mặt" rao giảng, dạy dỗ người khác bằng những từ đại ngôn, hoa mỹ, nhưng hành động, việc làm lại trái những nguyên tắc của Đảng, thậm chí còn làm ô danh Đảng. Người cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, chỉ huy muốn thu phục quần chúng, muốn quần chúng tin theo phải thực sự mẫu mực về phương pháp, tác phong làm việc, lời nói gắn liền với việc làm, hành động cụ thể, mang lại ích nước, lợi dân.

Mục tiêu, lý tưởng cách mạng của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng cao đẹp ấy, các thế hệ cha ông ta đã không tiếc xương máu hy sinh để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, tạo cơ sở, tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta được sống trong hòa bình, có cơ hội phát triển toàn diện, những thành tựu to lớn của đất nước hôm nay đã được viết bằng máu và nước mắt của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, của lớp lớp cán bộ, đảng viên kiên trung với lối sống cao đẹp, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy, rèn luyện và nâng cao đạo đức cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân, làm mọi việc để góp phần cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc là lương tâm, bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của thế hệ cán bộ, đảng viên hôm nay.

PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG ĐIỀU ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC LÀM

 Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã ban hành Quy định số 37-QĐ/TW thay thế Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về những điều đảng viên không được làm.

Điều này xuất phát từ thực tiễn áp dụng Quy định 47-QĐ/TW còn có những vướng mắc, bất cập do được ban hành cách đây 10 năm, thực tế đã có nhiều thay đổi đòi hỏi phải ban hành Quy định mới nhằm cập nhật, bổ sung, sửa đổi và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thi hành Điều lệ Đảng, đồng bộ hóa các quy định trong Đảng nhằm phát huy hơn nữa vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Tuy nhiên với âm mưu thâm độc, thái độ hằn học, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị đã cố tình xuyên tạc, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng cho rằng, việc Đảng ban hành Quy định số 37-QĐ/TW là do sự tha hóa biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên; chúng dẫn ra một số vụ tham nhũng, lãng phí rồi từ đó quy kết, đánh đồng hiện tượng tham nhũng là bản chất của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, chúng còn đưa ra luận điệu xuyên tạc rằng việc ban hành Quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm là “lấn sân” cơ quan hành pháp vì đảng viên là công dân thì chỉ cần chấp hành pháp luật, không cần đến Quy định 37-QĐ/TW, từ đó chúng tung ra luận điệu xuyên tạc cho rằng “Đảng đứng trên pháp luật”. Đây là những luận điệu có chủ ý với âm mưu hết sức sai trái, thâm độc.

Chúng ta đều biết quy định về những điều đảng viên không được làm mục đích nhằm điều chỉnh hoạt động trong nội bộ Đảng, đây là việc làm cần thiết, bất cứ đảng chính trị nào cũng đều có những quy định nội bộ của mình. Quy định của Đảng nhằm nêu cao hơn nữa tinh thần nêu gương của đội ngũ đảng viên theo phương châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 4, Hiến pháp 2013. Các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Những luận điệu xuyên tạc Quy định số 37-QĐ/TW mà các thế lực thù địch chống phá kể từ khi quy định được ban hành đã bộc lộ rõ âm mưu chống phá Đảng và chế độ. Chúng không từ một thủ đoạn nào hòng làm mất ổn định chính trị, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Việc Đảng ta sửa đổi, bổ sung và ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm là cần thiết, không chỉ nhằm đề cao tinh thần nêu gương của cán bộ, đảng viên, yêu cầu đội ngũ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, mà còn thể hiện rõ quan điểm của Đảng trong đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực nhằm làm trong sạch Đảng. Đây cũng là cơ sở xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Luận điệu hàm hồ của Phạm Nhật Bình về xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở Việt Nam

 Mới đây trên trang mạng phản động Viettan.org có bài viết “CSVN lại nhắc đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; với cách lập luận thiếu căn cứ, tự biện, không có cơ sở khoa học và đầy tính mâu thuẫn Phạm Nhật Bình cho rằng: “xây dựng nhà nước pháp quyền là mục tiêu của hầu hết các quốc gia kém phát triển”, “xây dựng nhà nước pháp quyền còn được gắn cái đuôi xã hội chủ nghĩa cho khác với mọi người”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một hình thức không hề tồn tại trên thực tế mà chỉ là ảo tưởng”, hay như: “đẩy mạnh nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không khác nào đem pháp luật vùi xuống bùn nhơ” và “Việt Nam đang cai trị bằng luật rừng hay luật Đảng”… Phải khẳng định rằng, đây là những luận điểm hết sức sai trái, phản động, xuyên tạc sự thật, phản ánh không đúng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; sâu xa hơn là chúng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước.

Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền với tính cách là những giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Do vậy nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Trong ý nghĩa này nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Ý tưởng về một chế độ pháp quyền đã xuất hiện từ xa xưa, thậm chí từ thời cổ đại bởi các nhà tư tưởng phương Tây, hay tư tưởng pháp trị tại Trung Hoa cổ đại, nhưng đến khi nhà nước tư sản ra đời, với sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản, nhà nước pháp quyền mới từ nhà nước ý tưởng dần trở nên một nhà nước hiện thực. Vì vậy, nhà nước pháp quyền không những có thể xây dựng tại các quốc gia tư bản mà vẫn có thể xây dựng tại các quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền với tính chất là một cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội không những xây dựng trong điều kiện chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Như vậy trong nhận thức lý luận và trong thực tiễn tồn tại nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện tính phổ biến trong xây dựng nhà nước pháp quyền.

Nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi hàng loạt yếu tố, các điều kiện như về lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý xã hội của mỗi một dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá và môi trường địa lý. Các yếu tố này không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của mình mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Vì vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân; tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước; là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Như vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà chúng ta đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện có đầy đủ cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn, là sự vận dụng sáng tạo, hợp lý tri thức về nhà nước pháp quyền của thế giới vào thực tiễn Việt Nam, vừa mang đầy đủ những giá trị phổ quát, chuẩn mực của một nhà nước pháp quyền, vừa mang những nét đặc thù chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt Nam. Do đó, mỗi người dân cần nhận rõ bản chất sự việc, tỉnh táo khi tiếp nhận thông tin, nêu cao tinh thần cảnh giác tránh bị kích động bởi những thông tin không đúng của các thế lực thù định./.

ĐẤU TRANH CHỐNG ÂM MƯU ĐÒI "CHUYỂN ĐỔI THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ" Ở VIỆT NAM

 Trong các thời kỳ lịch sử, nhất là sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, các thế lực thù địch đã tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam.

Trong đó có âm mưu đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi chuyển đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

Sự nguy hại khôn lường của âm mưu đòi “đa nguyên, đa đảng”

Từ bên ngoài, các thế lực thù địch sử dụng một khối lượng khổng lồ các phương tiện thông tin, truyền thông, nhất là sử dụng các trang mạng xã hội để thực hiện các chiến dịch chống phá tư tưởng quy mô lớn đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch đưa ra luận điệu: Các cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng chứng tỏ sự “chuyên quyền”, “độc đoán”, “đảng trị”. Chúng đổ lỗi cho Đảng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế của đất nước so với những nước trong khu vực; từ đó, chúng cho rằng, trong thời đại ngày nay, nếu tiếp tục đi theo con đường XHCN là sai lầm. Chúng “khuyên” chúng ta đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”, xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 về hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, vì chúng cho rằng “đa nguyên, đa đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội”(!).

Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm và thâm độc vì họ cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Với những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể dễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó, cổ xúy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Như vậy, luận điệu “muốn thực sự dân chủ và phát triển”, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thực chất là đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải “từ bỏ vị thế lãnh đạo”, “chuyển đổi thể chế chính trị”, với mục tiêu thâm độc là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện “đa nguyên chính trị”, chuyển hóa chế độ XHCN sang các chế độ xã hội khác.

Kiên trì giữ vững “linh hồn, mạch sống” của Đảng

Trong bối cảnh hiện nay, việc nhận diện và kịp thời đập tan các âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động đòi đa nguyên, đa đảng chính là vấn đề cốt tử để bảo vệ tính chính danh, bản chất cách mạng, vị thế, sứ mệnh cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội về âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chống phá, bác bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, nâng cao tinh thần cảnh giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời phát hiện, tẩy chay, không tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền thông tin, nhất là trên không gian mạng.

Trên cơ sở đó, thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về phương châm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng. Trọng tâm của công tác này là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội.

Bảo vệ đường lối cách mạng, khoa học của Đảng

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) và trải qua các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng luôn bị các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ chống phá, xuyên tạc, phủ định. Những năm cuối thập niên 1930, trước sự chống phá của bọn Trotsky, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”. Năm 1939, trong ý kiến gửi các đồng chí ở trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “Đối với bọn Trotsky, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”.

Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, trước âm mưu phủ định CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đòi chấm dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập của các thế lực thù địch, phản động, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ những quan điểm sai trái đó, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; hoạch định và không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, đối với Việt Nam “không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930), Luận cương chính trị tháng 10-1930, Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ là ngọn cờ soi sáng bước đường tranh đấu của dân tộc Việt Nam giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bước đầu xây dựng CNXH; thì Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991 cũng như Cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011) và đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình và đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam": “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.

Điều đó là cơ sở để khẳng định, không có lý do gì để Đảng và dân tộc Việt Nam rẽ sang con đường tư bản chủ nghĩa hay một con đường phát triển nào khác, trao quyền quản lý đất nước cho những thế lực cơ hội, phản động.

Khẳng định nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Thực tiễn lịch sử 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho thấy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng giao phó trọng trách trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó không phải là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong thế kỷ 20, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành được những thắng lợi vĩ đại:

Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc-kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền CNXH.

Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH: “Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ 20, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá”. Với những thành quả đạt được: “Chúng ta tự hào về dân tộc ta-một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta-Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện-một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân”.

Đặc biệt, sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, quy mô nền kinh tế tăng từ 26,88 tỷ USD năm 1986 lên 271,2 tỷ USD năm 2020; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 182USD năm 1990 lên 2.779USD năm 2020. Sau 25 năm (1995-2020), Việt Nam đã làm được kỳ tích, đưa nền kinh tế tăng gấp 10 lần cả về quy mô và thu nhập bình quân trên đầu người, tăng 21 hạng về quy mô nền kinh tế và tăng 54 hạng về thu nhập đầu người trên bảng xếp hạng các quốc gia.

Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam 92 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Đồng thời khẳng định một chân lý: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Như vậy, luận điệu của các thế lực thù địch, phản động cho rằng, đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ, thực ra là một trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Đề cập đến vấn đề này, trả lời câu hỏi của phóng viên báo Express Ấn Độ về việc liệu đã đến lúc chín muồi để Việt Nam có một hệ thống đa đảng, hoặc có các đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam để có thể tính tới các quan điểm của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều dân tộc khác nhau, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị trường thì phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ.

ĐẤU TRANH KIÊN QUYẾT VỚI QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM

Trong suốt 92 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng đội ngũ trí thức và xem đội ngũ trí thức là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh cách mạng, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ấy vậy mà, trên một số trang mạng xã hội, blog cá nhân, facebook… đã có những bài viết mang tính chủ quan, phiến diện, một chiều về vai trò, cũng như những đóng góp của đội ngũ trí thức Việt Nam, họ rêu rao cho rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam đã đào tạo ra trí thức của Đảng, những người mang mộng ước quyền lực với ngôn ngữ dân túy”, đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, phản động, xuyên tạc trắng trợn đường lối, quan điểm của Đảng ta đối với đội ngũ trí thức và những đóng góp của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Do đó, chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh, phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái trên.

Trước hết, chúng cần phải có cái nhìn khách quan, toàn diện về đường lối, quan điểm của Ðảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức.Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học”, đây là những chủ trương lớn, khẳng định sự quan tâm và coi trọng đội ngũ trí thức của Đảng, Nhà nước ta. Thực tiễn cũng đã chứng minh, đội ngũ trí thức nước ta luôn có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của đất nước và của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ mới, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ là người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài đã tự nguyện rời bỏ cuộc sống nơi phồn hoa, trở về Tổ quốc tham gia kháng chiến kiến quốc đầy gian khổ, thiếu thốn, như: Cụ Hoàng Minh Giám, Vũ Ðình Tụng, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa), Trần Hữu Tước, Lương Ðịnh Của, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, Ðặng Văn Ngữ, Trịnh Ðình Thảo, Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon Tum... và nhiều người khác. Đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng, nhiều thế hệ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiếp tục trở thành người chiến sĩ trong các cuộc trường chinh đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đánh thắng bè lũ bành trướng xâm lược và diệt chủng ở hai đầu đất nước, đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cùng với đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ trí thức Việt Nam không ngừng phát triển, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đội ngũ trí thức đã tích cực tham mưu, góp ý, phản biện vào những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước. Trong xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở đều có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức. Năm 2021, Việt Nam là một trong 4 quốc gia có thu nhập trung bình được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đánh giá là đang bắt kịp đà tăng chỉ số đổi mới sáng tạo của thế giới. Đến nay, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam liên tục tăng. Các nhà khoa học đang đi đầu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; trong thời gian cuộc chiến phòng, chống đại dịch Covid-19, đội ngũ trí thức đã nghiên cứu phát triển bộ kít xét nghiệm, phần mềm ứng dụng khai báo y tế, truy vết người nghi nhiễm, khám chữa bệnh từ xa, điều chế vaccine và thuốc điều trị Covid-19. Đây là yếu tố quan trọng để đất nước ta vượt qua những khó khăn, vừa thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19 vừa khôi phục và phát triển kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Với những đóng góp to lớn của đội ngũ trí thức Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ghi nhận và tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương cao quý cho đội ngũ trí thức, như: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sỹ Nhân dân, Nghệ sỹ Ưu tú và nhiều phần thưởng cao quý khác để tôn vinh những đóng góp của lực lượng này trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những chủ trương, chính sách đúng đắn trên của Đảng, Nhà nước, cũng như những minh chứng thực tiễn rất cụ thể ở trên đã vạch trần các quan điểm phiến diện một chiều của các thế lực phản động, tuyên truyền nói xấu Đảng ta nhằm phủ nhận vai trò và sự đóng góp to lớn của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời gian qua. Do vậy, chúng ta cần nhận thức sâu sắc và đề cao cảnh giác cách mạng; tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh vạch trần âm mưu thủ đoạn, thâm độc, nham hiểm của những kẻ “bán nước, hại dân”./.

PHẢI CHĂNG MUỐN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, LỢI ÍCH QUỐC GIA, DÂN TỘC THÌ PHẢI LIÊN MINH QUÂN SỰ

 Quan điểm và chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là “Không liên minh quân sự”. Song, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn dùng mọi thủ đoạn, chiêu trò để hướng lái dư luận, hòng chống phá quan điểm đó, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước có những diễn biến hết sức phức tạp. Các thế lực thù địch cho rằng “Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”. Theo họ: Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là nguy cấp, vì sức mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”; vì vậy, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mọi mặt để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Rồi họ kết luận, chính sách “không liên minh quân sự” chẳng những không giữ được đất nước trước xâm lược, mà cũng không giữ nổi chế độ, nó còn làm Đảng ta “mất cả chì lẫn chài” (ám chỉ Đảng ta sẽ mất cả quyền lãnh đạo). Thậm chí, họ không ngại chỉ ra rằng: “Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ sớm ngày nào thì nguy cơ tiếp tục mất đảo, mất quyền chủ quyền trên Biển Đông cũng như nguy cơ hứng chịu một cuộc chiến tranh trên biển lẫn đất liền bị đẩy lùi sớm ngày ấy”. Những lý lẽ trên là hoàn toàn không phù hợp với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta có thể phân tích vấn đề này trên những khía cạnh sau đây:

Một là, chủ quyền quốc gia - dân tộc là thiêng liêng và tối cao không thể phó thác cho bên ngoài, dù đó là ai. 

Trong quan hệ quốc tế hiện nay, các quốc gia đều đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc, nhất là những lợi ích cốt lõi như: độc lập, chủ quyền, chế độ xã hội,… trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, thì việc các nước giúp nhau bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc không hề đơn giản. Cốt vật chất để gắn kết các liên minh chính là lợi ích chung và phần lợi ích của mỗi bên thành viên trong liên minh nhận được. Những liên minh “thần thánh” đều là giả tưởng trong đầu óc của những nhà huyễn tưởng, không có chỗ đứng trong thực tiễn chính trị - quân sự sống động, phức tạp và thực dụng hiện nay. Việc một nước nhỏ muốn liên minh quân sự với một cường quốc (nước lớn) nhằm mục đích bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của mình, vậy lợi ích của cường quốc sẽ là gì trong sự liên minh này? Xưa nay không ai cho không ai bao giờ; cái gì cũng có giá của nó. Cái giá ở đây là nước nhỏ có thể tránh được nguy cơ mất chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc mình trước một mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, nhưng trước khi có thể tránh được những nguy cơ đó, thì cái giá phải trả hiện hữu và có thật, đó là: nước nhỏ phải chấp nhận nhượng bộ ít nhiều về chủ quyền hoặc lợi ích quốc gia - dân tộc mình với cường quốc liên minh. Đó là vốn liếng, tài sản “thế chấp” để nhận được những “cam kết” bảo vệ an ninh từ đồng minh. Đó cũng là “luật chơi” không thể khác trong quan hệ quốc tế hiện nay. Ở đây nước nhỏ đã đem lợi ích thực tế để đánh đổi lấy khả năng bảo vệ an ninh. Một khả năng mà khi muốn hiện thực hóa nó bao giờ cũng gắn với những điều kiện “đính kèm” cần và đủ từ phía các đồng minh nước lớn. Đối với mọi quốc gia, lãnh thổ đất nước luôn đóng vai trò là cơ sở vật chất cho sự tồn tại của quốc gia, có giá trị thiêng liêng và bất biến. Đối với Việt Nam, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa,… là lợi ích cốt lõi, tối cao và thiêng liêng, đã biết bao thế hệ hy sinh xương máu để giành được. Vì vậy, vấn đề độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc không thể phó thác cho bất cứ ai, mà phải do người Việt Nam tự quyết định. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán từ trước đến nay theo nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Hai là, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ vào liên minh. 

Thực tiễn lịch sử thế giới cho thấy, không phải cứ liên minh với một cường quốc quân sự là có thể bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của các nước trong liên minh, nhất là đối với các nước nhỏ. Cũng như hầu hết các quốc gia, các cường quốc đều đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc của họ và vì lợi ích “đại cục” mà họ theo đuổi, họ sẽ xử lý quan hệ với các đồng minh theo tiêu chí và triết lý ưu tiên lợi ích “trước hết”, “trên hết”, “cốt lõi” của họ. Trong nhiều trường hợp như vậy, không ít đồng minh của các cường quốc đã phải “lãnh đủ” hậu quả: từ sự “lạnh nhạt”, “ngó lơ”, “làm ngơ” đến “bỏ rơi”, thậm chí “phản bội” đồng minh để bắt tay với kẻ thù của cường quốc đồng minh. Điều này cho thấy một thực tế lịch sử, trên thế giới chưa bao giờ một nước nào có thể hy sinh lợi ích của dân tộc mình chỉ vì lợi ích của một dân tộc khác.

Đối với Việt Nam, ngay trong điều kiện hai cuộc kháng chiến cực kỳ tàn khốc, ác liệt, gian khổ và kéo dài, tuy nhận được sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế, song Việt Nam vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, không tham gia liên minh quân sự với cường quốc. Đó là bài học lớn được rút ra từ công cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Việc Việt Nam - Lào - Campuchia cùng thành lập liên minh nhân dân (13/3/1951) nhằm tăng cường khối đại đoàn kết ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai, giành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước, làm cho nhân dân ba nước được tự do, hạnh phúc và tiến bộ, là đòi hỏi từ thực tiễn, yêu cầu khách quan tình hình cách mạng 03 nước Đông Dương. Đây là liên minh mang tính tự vệ, chính nghĩa với vai trò như một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc vào thời điểm lúc đó. Mặc dù vậy, mỗi nước đều nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ về đường lối, tổ chức thực hiện của mình. Điều đó lần nữa khẳng định, để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia - dân tộc, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, kể cả thời bình lẫn thời chiến, phải luôn nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ sự trợ giúp của nước ngoài.

Ba là, không phải vì sức mạnh quốc phòng của ta “quá yếu” và “lạc hậu” nên phải liên minh quân sự với nước ngoài. 

Nếu cho rằng chỉ vì ta yếu và lạc hậu mới cần đến liên minh vậy khi ta mạnh và hiện đại có cần liên minh không? Vì thực tế cho thấy, không ít trường hợp nước lớn vẫn chủ động liên minh với nước nhỏ đấy thôi, và cũng có trường hợp nước nhỏ khước từ liên minh với nước lớn. Vậy phải lý giải thế nào cho thỏa đáng vấn đề này? Như chúng ta biết, mấu chốt của liên minh quân sự không hoàn toàn bắt nguồn từ sức mạnh quân sự yếu hay mạnh mà từ lợi ích và quan điểm của mỗi bên tham gia liên minh. Hơn nữa, cho rằng sức mạnh quân sự của ta yếu và lạc hậu là không hoàn toàn đúng với thực tế. Theo bảng xếp hạng Chỉ số sức mạnh quân sự toàn cầu của trang web Global Firepower (Hỏa lực toàn cầu - GFP), dựa vào 55 chỉ số (ngoại trừ vũ khí hạt nhân), chủ yếu là dân số, diện tích, số lượng vũ khí, ngân sách quốc phòng, nguồn nhân lực, giao thông, việc tiếp cận các tài sản chiến lược, nguồn nhiên liệu, và điều kiện kinh tế hiện tại, thì Việt Nam không phải là nước có sức mạnh quân sự yếu.

Mặt khác, sức mạnh quân sự của một quốc gia không chỉ đánh giá bằng sức mạnh quân sự thuần túy, mà bao giờ cũng được đặt trong mối quan hệ với sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó. Đối với Việt Nam, sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện; sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc bao gồm: sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh của truyền thống và hiện đại, sức mạnh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại bắt nguồn từ sức mạnh của con người Việt Nam không ngừng được nâng cao, thế và lực của đất nước được nâng lên một tầm cao mới. Chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững và tăng cường, ngày càng phát huy tính ưu việt, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được giữ vững và phát huy. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Nhờ đó, tạo ra vận hội mới, tạo bệ phóng vững chắc để đưa nước ta vươn lên những đỉnh cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trên bình diện sức mạnh quân sự, cũng như trên bình diện sức mạnh tổng hợp của quốc gia, sức mạnh của Việt Nam không phải là “quá yếu” và “lạc hậu” như những kẻ ác ý, hay yếu bóng vía rêu rao. Trái lại, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định và tin tưởng vào sức mạnh của đất nước và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, mà không nhất thiết phải liên minh quân sự với nước ngoài.

Bốn là, thành công của Việt Nam trong giữ vững chủ quyền, độc lập, bảo vệ lợi ích của quốc gia - dân tộc những năm qua chính là thành công của xây dựng nền quốc phòng, an ninh độc lập, tự chủ, tự cường; và thực hiện thắng lợi đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ đối ngoại. 

Lịch sử chiến tranh của Việt Nam đã khẳng định, chính việc phát huy sức mạnh nội lực, tự lực, tự cường mới là yếu tố quyết định tạo ra nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và tay sai trong thế kỷ XX đã khẳng định: nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn chính là nhờ thực hiện đường lối quân sự độc lập, tự chủ, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. Ngày nay, việc xây dựng nền quốc phòng, an ninh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường kết hợp với mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh là bảo đảm vững chắc cho bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc. Từ thực tiễn đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Cùng với đó, thực hiện đường lối dối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa, đến nay, Việt Nam thiết lập quan hệ đối ngoại quốc phòng với trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ; đặt văn phòng tùy viên quân sự tại Liên hợp quốc và 37 quốc gia khác; có 49 quốc gia đặt văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam3. Quan hệ hợp tác quốc phòng được nhiều nước đối tác coi là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Qua đó, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế; củng cố và phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, chủ trương “không tham gia liên minh quân sự” là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.