Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2022

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM

 Có thể khẳng định: Đảng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn khách quan, khoa học, trên cơ sở “ý Đảng” - “lòng dân”, phù hợp với thực tế đất nước và xu thế của thời đại. Song, với các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại coi đó là nguy cơ đe dọa sự tồn tại của ý tưởng tôn sùng chủ nghĩa tư bản. Họ tập trung công kích, bài xích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng đó chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được; rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội! Chủ nghĩa xã hội là học thuyết “lạc đường”, đi ngược lại sự phát triển của nhân loại,... Tuy nhiên, thực tiễn đã minh chứng, dù chúng có dùng trăm phương ngàn kế chống phá, song con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khát vọng và tương lai của xã hội loài người, của dân tộc ta, bởi đó là quy luật tiến hóa của lịch sử; việc lựa chọn con đường phát triển đất nước của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, khoa học. Điều đó được chứng minh:

Về mặt lý luận

Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự kế thừa có chọn lọc tư tưởng tiến bộ nhân loại về sự phát triển của tự nhiên và xã hội loài người; sự tổng kết thực tiễn phong trào công nhân; nó chỉ rõ quy luật phát triển của xã hội loài người; vạch ra con đường, biện pháp đập tan sự thống trị của giai cấp tư sản; chỉ đường cho giai cấp vô sản đấu tranh tự giải phóng mình, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp - xã hội xã hội chủ nghĩa; trở thành kim chỉ nam chỉ đạo nhận thức và hành động của các đảng cộng sản, phong trào công nhân quốc tế. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển có quy luật, quá trình lịch sử - tự nhiên, sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp tới cao, mà nguyên nhân sâu xa quy định tiến trình phát triển ấy là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà đỉnh điểm của nó là mâu thuẫn nội tại không thể điều hòa giữa hai nhân tố này, dẫn đến cuộc cách mạng xã hội thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Theo đó, sự vận động, phát triển tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đây là quy luật khách quan trong quá trình tiến hóa của xã hội loài người mà Mác và các cộng sự của ông đã phát kiến ra, chứ không phải là sự áp đặt chủ quan, phiến diện, một chiều. Cùng với quá trình đó, nhà nước phục vụ cho giai cấp thống trị trong chế độ tư bản chủ nghĩa được thay thế bằng nhà nước chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân, quản lý xã hội và phục vụ cho quyền lợi của mọi công dân theo mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội; con người được giải phóng một cách toàn diện, thủ tiêu mọi áp bức bóc lột. Cần nói thêm rằng, về cơ bản, sự phát triển xã hội loài người là tiến trình lịch sử tự nhiên, tuần tự từ thấp lên cao. Song, tùy theo điều kiện lịch sử, hoàn cảnh của mỗi nước mà có thể bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Ví như, từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ tư bản tiến thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa thông qua thời kỳ quá độ lâu dài (như ở Việt Nam). Đó là cả một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi có thời gian, với một quá trình lao động sáng tạo để làm ra cơ sở vật chất cho đời sống xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, phải có chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, có bản lĩnh, quyết tâm chính trị cao, đường lối, chiến lược phát triển đúng đắn, dựa trên nền tảng tư tưởng vững chắc, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Về thực tiễn, chủ nghĩa xã hội là tương lai của nhân loại

Mặc dù đang trong giai đoạn hết sức khó khăn, song, chủ nghĩa xã hội vẫn là khát vọng, lý tưởng, mục tiêu tốt đẹp mà loài người đang hướng tới. Bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn kiểm nghiệm là giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng, an sinh, bình đẳng xã hội, hạn chế đến mức thấp nhất, tiến tới không có người bóc lột người, tạo điều kiện tốt nhất cho người dân được thụ hưởng thành tựu của quá trình xây dựng, phát triển. Hiện nay, do tự điều chỉnh chủ nghĩa tư bản có sự phát triển nhất định, được các thế lực thù địch khuyếch trương, ra sức ca ngợi chế độ này là văn minh, “đỉnh cao” của xã hội loài người; giai cấp tư sản là giai cấp trung tâm của thời đại, có vai trò lịch sử trong tiến trình phát triển của nhân loại! Một số người nhìn vào điều kiện vật chất, trình độ phát triển của các nước tư bản nhờ thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và hàng chục năm hòa bình xây dựng, không bị tàn phá bởi chiến tranh mà đã vội vàng công kích chủ nghĩa xã hội, tung hô chủ nghĩa tư bản! Bề nổi thì vậy, song, xét về bản chất, thuộc tính cố hữu của chủ nghĩa tư bản là: bóc lột giá trị thặng dư, lợi nhuận, bất bình đẳng, phân biệt giàu nghèo, chiến tranh,… là những thứ cần kiên quyết đấu tranh, xóa bỏ. Bên cạnh đó, sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước có xu hướng, nguyện vọng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là thực tiễn sinh động minh chứng chủ nghĩa xã hội sẽ là tương lai của nhân loại. Với Trung Quốc, nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng của các nhà lãnh đạo tiền bối, kiên trì và phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, với mục tiêu xây dựng thành công cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp; lấy nhân dân làm trung tâm, coi mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”, Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc đạt những thành tựu to lớn, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Đối với Cuba, luôn là tâm điểm chống phá, bao vây, cấm vận hết sức khốc liệt của các thế lực thù địch, đời sống kinh tế vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Song, với bản lĩnh của những người chiến sĩ cộng sản và một tinh thần, quyết tâm đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba, nhân dân Cuba đã đứng lên làm cuộc cách mạng, thực hiện công cuộc đổi mới, thực thi chính sách đối ngoại năng động để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước nhằm “thỏa mãn nhu cầu, ngày càng nâng cao về vật chất và tinh thần của nhân dân lao động”, nhất là về giáo dục và y tế. Theo đó, Cuba luôn dành ưu tiên cho chính sách an sinh xã hội thông qua việc phát triển các ngành y tế, giáo dục, thể thao, trở thành điểm sáng trong khu vực và trên thế giới. Trên con đường phát triển theo định hướng đã lựa chọn còn nhiều khó khăn phía trước, nhất là sự công kích, chống phá của các thế lực thù địch, nhưng đặc trưng ưu việt của chủ nghĩa xã hội đã và đang hiện hữu trên hòn đảo tự do, tươi đẹp. Điều đó cho thấy, sức sống của chủ nghĩa xã hội mãi mãi trường tồn cùng thời gian, không có thế lực nào có thể ngăn cản được.

Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên đất nước Việt Nam

Những năm đầu thế kỷ XX, Đảng ta và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể, tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối. Vì thế, ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đường lối chiến lược cơ bản của cách mạng Việt Nam là, làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đây là một định hướng chính trị hết sức quan trọng, phương châm hành động để Đảng ta lãnh đạo nhân dân trong tiến trình cách mạng. Để đường lối đó trở thành hiện thực, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không quản gian khổ, hy sinh đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, thu giang sơn về một mối, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Như vậy, dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng và Nhân dân ta dứt khoát lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự nghiên cứu, vận dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam.

Từ khi ra đời đến nay, nhất là sau hơn 30 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù các thế lực thù địch ra sức công kích chủ nghĩa xã hội, khuyếch trương cho cái gọi là “lối sống tốt đẹp của phương Tây”, đòi “đa nguyên, đa đảng”, song Đảng và Nhân dân ta vẫn kiên định con đường, mục tiêu đã lựa chọn với quyết tâm chính trị cao; lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Quan điểm lấy “dân làm gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” luôn được quán triệt sâu sắc; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng; công tác cán bộ thực sự là “then chốt của then chốt”. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, đạt kết quả nổi bật, ngày càng đi vào chiều sâu, “xây” đi liền “chống”. Thể chế phát triển được ưu tiên xây dựng đồng bộ, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội; quốc phòng, an ninh luôn được củng cố, tăng cường; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả,... Đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện; chế độ an sinh, công bằng xã hội được thực hiện hài hòa với quá trình phát triển; thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp, uy tín của quốc gia không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, với quan điểm lấy người dân làm trung tâm, cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần dập tắt những điểm nóng, kiềm chế sự lây lan của dịch bệnh, đưa mọi hoạt động của xã hội trở lại trạng thái bình thường mới. Điều đó, đã thể hiện rõ bản chất ưu việt của chế độ, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, cộng đồng quốc tế, Tổ chức Y tế thế giới và các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Hình ảnh đất nước Việt Nam nhân văn, bản lĩnh, có trách nhiệm với nhân dân và cộng đồng quốc tế lan tỏa sâu rộng.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội ngày càng được thể hiện sinh động, rõ nét trên đất nước Việt Nam. Cả về lý luận và thực tiễn đã minh chứng sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn chứ đâu phải theo một học thuyết “lạc đường” như các thế lực thù địch đang công kích. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng trong chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa./.

NHỮNG THỦ ĐOẠN BÔI NHỌ CÁN BỘ, CHIÊU TRÒ “RƯỢU CŨ” NHƯNG “BÌNH MỚI”

 Từ cổ tới kim, việc nói xấu, bôi nhọ người khác đều bị coi là hành động của “kẻ tiểu nhân”, nhưng đó lại là thủ đoạn được các phản động chống phá Việt Nam rất ưa chuộng. Mục đích của họ là nhằm hạ uy tín cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ nội bộ, tạo thị phi trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân… Đây là chiêu trò “rượu cũ” nhưng “bình mới” rất nguy hiểm, cần sớm nhận diện và đấu tranh loại bỏ. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, “Rượu cũ”

Các thế lực thù địch tung ra những thông tin bịa đặt, xuyên tạc nhằm nói xấu, bôi nhọ quan chức, “đối thủ” để chống phá, ly gián, làm cho nội bộ đối phương suy yếu, nghi kỵ lẫn nhau là một trong những thủ đoạn chống phá hết sức thâm độc, được sử dụng trên thế giới từ rất lâu. Hiện nay, những người thực hiện thủ đoạn này được đào tạo khá bài bản, cộng thêm sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật nên việc thực hiện nó ngày càng phổ biến và tinh vi hơn. Không thể khuất phục cách mạng Việt Nam bằng vũ lực, các thế lực thù địch chuyển sang chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nước ta. Ở lĩnh vực chính trị tư tưởng, việc nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của cán bộ, đảng viên đã và đang được các thế lực thù địch coi là trọng điểm chống phá, tiến hành chủ động, liên tục, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, xảo quyệt; từ bôi đen lịch sử, phủ nhận sự đóng góp của các lão thành cách mạng, những người có công với cách mạng đến bôi nhọ, nói xấu cán bộ đương chức. Dạng thức phổ biến là: xuyên tạc, bịa đặt về thành phần xuất thân, những việc làm trong quá khứ; xúc phạm đời tư, cuộc sống gia đình, gán ghép các mối quan hệ của cán bộ trong xã hội, thậm chí lấy vấn đề sức khỏe của những cán bộ cấp cao để đơm đặt, suy diễn tình hình chính trị đất nước,... Để tăng hiệu quả, các thế lực thù địch thườngtung thông tin bội nhọ cán bộ vào những thời điểm nhạy cảm về chính trị, như: những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước; trước, trong và sau dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn; đại hội Đảng, bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, v... Bản chất vẫn là những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm hạ uy tín của cá nhân, gây mất đoàn kết, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gây hoang mang dư luận, nghi ngờ trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để chúng thực hiện các mưu đồ chống phá. Hiện tượng một cá nhân xấu, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức được chúng đánh đồng thành bản chất chế độ xã hội, bản chất của Đảng và Nhà nước ta, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, “Bình mới”

Đó là những thủ đoạn nói xấu, bôi nhọ cán bộ, đảng viên đã được các thế lực thù địch thực hiện để chống phá cách mạng nước ta từ lâu. Tuy nhiên, lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ, internet, mạng xã hội, thủ đoạn này đã được bao phủ rộng hơn; cách thức tiến hành được che đậy bởi chiếc “bình mới” tinh vi hơn. Nếu như trước đây, nội dung nói xấu, bôi nhọ cán bộ thường chủ yếu được thêu dệt từ những câu chuyện, sự việc, hành động của cán bộ ở hiện tại, thì hiện nay, trong thế giới vạn vật kết nối này, việc tìm chủ đề để đặt điều, thêu dệt nên những câu chuyện nói xấu, bôi nhọ cán bộ dường như là công việc quá dễ dàng cho những kẻ có “chuyên môn” tọc mạch. Họ bới móc tất tần tật, từ quá khứ đến hiện tại chuyện đời tư, quan hệ xã hội, tác phong, năng lực công tác,… của cán bộ, đảng viên; thậm chí, chỉ một hành động, một câu nói nào đó của cán bộ cũng bị chúng phân tích, mổ xẻ, xuyên tạc ở nhiều góc độ để thêu dệt thành những câu chuyện thị phi rùm beng. Trước đây, đối tượng được họ hướng đến để tấn công thường là cán bộ cao cấp hoặc cán bộ thường xuyên trực tiếp tiếp xúc với nhân dân; nhưng hiện nay mọi cán bộ, đảng viên đều không loại trừ một ai.

Để thực hiện thủ đoạn chống phá, các thế lực thù địch tận dụng tối đa internet, không gian mạng để việc nói xấu càng tăng thêm hiệu ứng xã hội. Không những lan truyền nhanh, len lỏi vào từng ngõ ngách, xóa nhòa mọi khoảng cách, mà còn gây nên sự nghi kỵ không giới hạn. Cách thức bôi nhọ và tung ra những thông tin bịa đặt cũng được các thế lực chống phá tiến hành rất đa dạng, tinh vi. Họ thường đào bới, cắt ghép, xâu chuỗi, thêu dệt, tạo dựng những câu chuyện xuyên tạc các vấn đề thuộc về lý lịch, quá khứ xuất thân, trình độ học vấn,… của cán bộ. Để đạt mục đích, các thế lực chống phá không từ một thủ đoạn nào; trong đó, có sử dụng công nghệ “trí tuệ nhân tạo” để giả tạo hình ảnh, video, clip bôi nhọ cán bộ rồi tung lên các nền tảng mạng xã hội. Thậm chí, họ còn dàn dựng những “cạm bẫy” nhằm kích động, làm cho nhiều cán bộ mất kiềm chế trong những tình huống cụ thể để tổ chức quay phim, chụp hình rồi cắt ghép, chỉnh sửa, thêu dệt thành những câu chuyện gây bức xúc cho dư luận. Trong xã hội, chuyện thị phi vốn luôn thu hút sự tò mò, hiếu kỳ. Nhưng khi được đưa vào không gian mạng, xã hội ảo, sự tò mò, hiếu kỳ tăng lên gấp bội bởi những thủ thuật thêm thắt, bóp méo, xuyên tạc sự thật của các thế lực thù địch. Hơn thế nữa, họ còn rất thạo các cách thức để thổi phồng sự việc để thu hút người theo dõi, tạo điểm nóng trong dư luận. Từ một hành động nhỏ chưa phù hợp của một cán bộ, họ có thể vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về đạo đức, lối sống, về nghệ thuật xã giao, văn hóa công vụ,… của cả một cơ quan, đơn vị, của Đảng, thậm chí của xã hội rồi đem so sánh với các nước khác, bất chấp tính khập khiễng của phép so sánh ấy. Nguy hiểm hơn, để hướng dư luận theo mưu đồ của mình, họ chặn hoặc loại bỏ những bình luận trái chiều, gây tâm lý hoang mang cho cả những người có chính kiến.

GIÁ TRỊ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) không chỉ có giá trị to lớn đối với phong trào cách mạng ở các nước Đông Âu mà còn tác động, ảnh hưởng sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Đó là lịch sử, là sự thật, không thể phủ nhận! Mọi luận điệu xuyên tạc chỉ là cái cớ của các thế lực chống cộng, thù địch vì mục đích chính trị mà thôi.

Ngày 02/3/1919, tại Mátxcơva, một tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới - Quốc tế Cộng sản - Quốc tế III, đã tiến hành khai mạc Đại hội và chính thức được thành lập. Quốc tế III đã kế tục xứng đáng sự nghiệp của Quốc tế I và những giá trị, truyền thống tốt đẹp của Quốc tế II. Trong gần một phần tư thế kỷ tồn tại, bằng những hoạt động sôi nổi, phong phú và sự phấn đấu không ngừng nghỉ của những người cộng sản, Quốc tế Cộng sản đã để lại những giá trị to lớn, không thể phủ nhận đối với phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, đối với phong trào cách mạng thế giới cả về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức. V.I. Lênin chỉ rõ: “Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản, là ở chỗ nó đã bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản”. Những giá trị chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức mà Quốc tế Cộng sản tạo nên đã tác động sâu sắc, ảnh hưởng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó không chỉ đối với quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và sự lựa chọn con đường, mục tiêu của cách mạng; mà còn đối với cả quá trình xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện và củng cố sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn 1930 - 1945, giai đoạn nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên phá bỏ xiềng gông, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay mình.

Kể từ khi Tuyên ngôn Cộng sản ra đời, sự công kích, hạ thấp vai trò và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin cả về lý luận và thực tiễn, cũng như các tổ chức của những người Cộng sản là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của các thế lực chống cộng. Đối với Quốc tế Cộng sản, chúng xuyên tạc và cho rằng, đây không phải là tổ chức chân chính của những người Cộng sản và giai cấp công nhân, nên không có vai trò quan trọng nào; họ còn lớn tiếng gán bừa rằng, vì đó là tổ chức của chủ nghĩa Mác - Lênin, nên đã mắc nhiều sai lầm, ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Họ rêu rao nói xằng, Quốc tế Cộng sản không có vai trò nào quan trọng, thậm chí còn ảnh hưởng tiêu cực đối với cách mạng Việt Nam; rằng, những “sai lầm” về chiến lược và sách lược của Quốc tế Cộng sản là nguyên nhân dẫn đến một số sai lầm của Đảng ta trong hoạch định đường lối và chỉ đạo thực tiễn cách mạng. Luận điệu xuyên tạc này là vô căn cứ, không đúng, cần kiên quyết bác bỏ.

Thực tiễn lịch sử Việt Nam và sự hoạt động của Quốc tế Cộng sản trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX cho thấy rõ ảnh hưởng sâu sắc và vai trò quan trọng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Trong những năm của thập kỷ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, một loạt phong trào yêu nước của nhân dân ta đã nổi lên mạnh mẽ, liên tục chống đế quốc và phong kiến, song đều không giành được thắng lợi và lâm vào bế tắc. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng không chỉ về đường lối, mà là sự khủng hoảng toàn diện trên những vấn đề rất cơ bản như: Khủng hoảng về hệ tư tưởng dẫn dắt, về “chủ nghĩa cần theo”; khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng của dân tộc; khủng hoảng về con đường và mục tiêu đi tới, phương hướng phát triển của lịch sử dân tộc. Cả ba vấn đề khủng hoảng này đều rất bức thiết, quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi hỏi đều phải được giải quyết. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là câu trả lời, giải đáp cho các vấn đề khủng hoảng đó. Xem xét sự tác động và ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam cần phải xem xét sự tác động và ảnh hưởng đó trên cả ba vấn đề khủng hoảng của lịch sử Việt Nam trong mối quan hệ thống nhất, đó là:

Thứ nhất, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong giải quyết vấn đề khủng hoảng về hệ tư tưởng, về “chủ nghĩa cần theo” của dân tộc ta.

Kể từ khi thành lập năm 1919 đến khi tuyên bố tự giải tán vào năm 1943, trong quá trình hoạt động và chỉ đạo phong trào cách mạng thế giới, Quốc tế Cộng sản đã tạo điều kiện và môi trường rất thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá mạnh mẽ và sâu rộng vào Việt Nam bằng chủ trương và nhiều hoạt động phong phú, đa dạng của Quốc tế Cộng sản, cũng như hoạt động của những cán bộ của Quốc tế, trong đó có nhiều cán bộ là người Việt Nam. Những tác phẩm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin như “Cộng sản sơ giải”, “Bệnh ấu trĩ tả khuynh”, “Hai sách lược của Đảng Công nhân Nga trong cách mạng dân chủ tư sản”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”,… đã vượt qua “hàng rào kiểm soát” của thực dân Pháp để vào Việt Nam là nhờ sự nỗ lực và tạo điều kiện của Quốc tế Cộng sản. Sự thâm nhập sâu rộng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã trực tiếp đẩy nhanh và nâng cao chất lượng quá trình giác ngộ giai cấp và giác ngộ cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động Việt Nam. Điều đó, đã góp phần rất quan trọng giải quyết căn bản vấn đề “chủ nghĩa cần theo” chủ nghĩa Mác - Lênin; của lịch sử dân tộc, tạo nền tảng xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Thứ hai, Quốc tế Cộng sản đã định hướng đúng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở nước ta.

Trong thực tiễn, Quốc tế Cộng sản đã tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đào tạo cho cách mạng Việt Nam đội ngũ cán bộ vững vàng,... Đây là những đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Tác động tích cực của Quốc tế Cộng sản đã làm cho giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng giác ngộ, trưởng thành và bước lên vũ đài lịch sử, chính thức trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc từ năm 1930. Việc Đảng Bônsêvích Nga và Quốc tế III, tại Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935 công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận chính thức của Quốc tế Cộng sản và đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên chính thức (một trong hai ủy viên là người các dân tộc thuộc địa) là sự khẳng định rõ ràng uy tín quốc tế và vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương với tư cách là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng ở các nước Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Dưới tác động của Quốc tế Cộng sản, các hình thức tổ chức lực lượng ở Việt Nam được tổ chức thích hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng tổ chức lực lượng sang thời kỳ Mặt trận dân chủ, sáng tạo hình thức tổ chức lực lượng mới ở Đông Dương - Mặt trận dân chủ Đông Dương. Điều đó đánh dấu sự kết hợp chặt chẽ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong điều kiện lịch sử mới của cách mạng Việt Nam, thoát khỏi khuôn khổ mặt trận chống đế quốc thuần túy, giai cấp chống giai cấp nói chung không còn phù hợp. Quốc tế Cộng sản còn tạo điều kiện thuận lợi cho những người Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng Cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước. Đặc biệt, đã đào tạo cho Việt Nam đội ngũ cán bộ cách mạng cần thiết, trong đó có nhiều cán bộ ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính, xuất sắc, nắm giữ các trọng trách cao trong Đảng và quốc tế. Nhiều chiến sĩ cộng sản, như Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí: Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai,... đã trưởng thành, trở thành các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc phân công, đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc tế III. Đội ngũ cán bộ của Đảng ta được đào tạo cơ bản, có hệ thống, có bước trưởng thành vững chắc về tư tưởng lý luận; Đảng ta ngày càng được củng cố về tư tưởng, chính trị và tổ chức.

Thứ ba, Quốc tế Cộng sản tạo tiền đề, điều kiện trong giải quyết vấn đề khủng hoảng về con đường và mục tiêu, phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân ta - con đường cách mạng vô sản - “không có con đường nào khác”, thông qua đường lối và chương trình hành động của Quốc tế III, trực tiếp là những tư tưởng của V.I. Lênin. Đặc biệt, tác phẩm “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc coi là “chiếc cẩm nang thần kỳ”, là “con đường” giải phóng cho nhân dân ta; chấm dứt tình trạng bế tắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Quốc tế III không chỉ định hướng con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, mà còn có những chỉ đạo kịp thời và giúp đỡ Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sớm trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới là nhờ có sự tác động, ảnh hưởng và đóng góp to lớn của Quốc tế III. Việc Quốc tế Cộng sản đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách mạng Đông Dương, cũng như cách mạng Việt Nam trên toàn thế giới, đã giúp cho các đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới, nhất là ở các nước thuộc địa có thể học tập từ kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam.

Những ảnh hưởng và vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam hết sức sâu sắc và quan trọng. Đó là lịch sử, là sự thật, không thể xuyên tạc, phủ nhận. Sự ảnh hưởng và vai trò đó không chỉ đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với việc giải quyết ba vấn đề khủng hoảng trên, mà còn cả trong quá trình Đảng thực hiện lãnh đạo cách mạng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhất là trong thời kỳ 1930 - 1945. Có nghĩa là, cả ba vấn đề: đường lối, lực lượng và hệ tư tưởng, với sự giúp đỡ và ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản vẫn tiếp tục được củng cố, hoàn thiện sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930. Những luận điệu xuyên tạc, phủ định vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam là vô căn cứ, phi lịch sử, nhất định bị phá sản./.

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI CÁC THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ VỀ LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH

 Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng: “…kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc...”; đồng thời, để hiện thực hóa phương châm: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin, luận điệu sai trái…”, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, nêu cao tinh thần cảnh giác của nhân dân trước những thông tin và luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch liên quan đến lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

Điều này có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Có nhận thức đúng tính chất nguy hại của sự việc mới có ý thức cảnh giác, đề phòng. Do đó, công tác giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân về lĩnh vực quốc phòng, an ninh phải coi trọng điểm này, phải làm cho nhân dân thấy rõ đâu là thông tin chính thống, đâu là thông tin bịa đặt, nhằm dụng ý xấu để cảnh giác. Việc làm này phải được tiến hành một cách kiên trì, bền bỉ, thường xuyên, liên tục, chú trọng những vùng có lịch sử chính trị - xã hội phức tạp, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo sinh sống; địa bàn có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh. Cần tập trung tuyên truyền làm rõ vị trí, vai trò của công tác quốc phòng, an ninh, mối quan hệ giữa an ninh và quốc phòng, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; an ninh biên giới, an ninh biển; chủ quyền biển đảo,... hướng tới thống nhất nhận thức, tư tưởng, ý chí và hành động, đúng với quan điểm: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc…”. Phương thức tuyên truyền cần đa dạng, phong phú, như thông qua hệ thống thông tin đại chúng, báo chí, các trang mạng xã hội, qua giáo dục, phổ biến, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng trong xã hội.

Hai là, cung cấp thông tin chính thống về lĩnh vực quốc phòng, an ninh đến quần chúng nhân dân một cách kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực. Quốc phòng, an ninh là lĩnh vực đặc thù, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, trong thời đại của in-tơ-nét, một sự kiện xảy ra chỉ trong thời gian rất ngắn đã lan khắp toàn cầu. Vì vậy, càng chủ động giữ vững trận địa thông tin, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời và minh bạch, càng ngăn chặn được các luồng thông tin thất thiệt, thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự việc, hoặc suy diễn tiêu cực, gây hoang mang, lo lắng, bán tín bán nghi trong xã hội. Tất nhiên, trừ các thông tin bí mật quân sự, bí mật quốc gia, các thông tin khác, nhất là về các sự kiện lớn, đột xuất, phức tạp, nhạy cảm, có thể gây bất ổn xã hội, thì luôn cần có thông tin chính thống, kịp thời từ cơ quan chức năng, từ người có thẩm quyền phát ngôn cho báo chí, đó chính là sự định hướng dư luận hiệu quả nhất. Hiện nay, mạng in-tơ-nét là phương tiện được các thế lực thù địch sử dụng nhiều nhất, là trận địa thông tin nóng bỏng nhất, nếu không chủ động thông tin minh bạch, chính xác, kịp thời đáp ứng nhu cầu của công chúng thì trận địa sẽ bị bỏ trống và đương nhiên kẻ thù sẽ ào lên chiếm lĩnh. Vì vậy, trong khi việc kiểm soát, chế tài các thông tin bịa đặt, xuyên tạc, vu khống còn gặp nhiều rào cản, khó khăn, thì cách tốt nhất để đẩy lùi thông tin bịa đặt, sai lệch là phải chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và minh bạch cho nhân dân. Để thông tin minh bạch, chính xác, kịp thời, đáp ứng nhu cầu của công chúng, phải bảo đảm chế độ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí theo đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra tình trạng báo chí “đói” nguồn thông tin chính thống và chính xác.

Ba là, xây dựng lực lượng đấu tranh phản bác những thông tin bịa đặt, xuyên tạc về quốc phòng - an ninh.

Trong đó, tập trung vào đội ngũ nhà báo, nhà nghiên cứu, thông tin viên, tuyên truyền viên trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đây là lực lượng đưa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước đến với quần chúng nhanh và hiệu quả nhất, là những người trực tiếp góp phần đập tan thông tin và luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Do vậy, cần xây dựng lực lượng này có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, có khả năng diễn đạt, luận chiến thuyết phục, có nhiệt huyết, dũng khí, quyết tâm đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; chú trọng nâng tầm lý luận sắc sảo, kinh nghiệm cho họ, bảo đảm để lực lượng này là nòng cốt, xung kích trong đấu tranh, phản bác những thông tin bịa đặt, xuyên tạc về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng.

Đấu tranh làm thất bại thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh của các thế lực thù địch là cuộc chiến lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng. Trong đó, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có vai trò rất quan trọng. Sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của lực lượng này làm nòng cốt cho toàn dân là nhân tố trực tiếp trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

NHỮNG LUẬN ĐIỆU TUYÊN TRUYỀN XUYÊN TẠC VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH VIỆT NAM

 Để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch xác định lĩnh vực quốc phòng - an ninh và lực lượng vũ trang là một trong những mục tiêu trọng yếu phải tập trung phá hoại, làm suy yếu. Tham vọng ngông cuồng và ảo tưởng của họ là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất phương hướng chính trị, không thực hiện đúng chức năng,... luôn là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Vì thế, chúng tập trung phá hoại bằng nhiều thủ đoạn hết sức đa dạng, tinh vi và thâm độc, trong đó, thông tin xuyên tạc về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, mà trọng điểm là quân đội và công an đang được sử dụng như một công cụ hữu hiệu để thực hiện mưu đồ trên.

Tất cả những thông tin và luận điệu xuyên tạc liên quan đến lĩnh vực quốc phòng - an ninh mà các thế lục thù địch tung ra hoàn toàn là những thông tin vu khống, bịa đặt, không đúng sự thật về tình hình quốc phòng, an ninh của đất nước. Đó là những thông tin không có căn cứ khoa học, thực tiễn, hoặc là những thông tin, luận điệu dựa trên những sự kiện quốc phòng, an ninh có thật, đã và đang diễn ra nhưng được lập luận theo lối xảo trá, “đánh lận con đen”, thêu dệt, thổi phồng một cách vụng về, nhằm xuyên tạc bản chất, hướng người nghe, người đọc đến những suy diễn tiêu cực, kích động người tiếp nhận thông tin tiến hành các hoạt động biểu tình, chống phá gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội. Nội dung thông tin và luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh hiện nay hết sức đa dạng, với nhiều biểu hiện khác nhau, nhưng không khó nhận diện. Chủ yếu vẫn là: đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang và sự nghiệp quốc phòng, an ninh; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về công tác quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân”; xuyên tạc mục đích của các hợp đồng mua bán vũ khí, trang bị cho Quân đội và Công an, quy kết rằng: Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh để chống lại một nước thứ ba, khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực; xuyên tạc mục đích các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta tới các nước và nguyên thủ các nước tới thăm Việt Nam, nhất là chuyến thăm tới các nước lớn; xuyên tạc, bóp méo tình hình khiếu kiện, mất ổn định và cách giải quyết của lãnh đạo, chính quyền ở một số địa phương; xuyên tạc lịch sử và thực trạng tình hình biên giới, hiện trạng trên biển. Thậm chí, chúng còn dàn dựng những tình huống va chạm với cảnh sát giao thông để quay phim, chụp ảnh rồi tuyên truyền xuyên tạc bản chất sự việc. Chúng đặc biệt chú ý đến trạng thái tâm lý của quân và dân ta, của dư luận xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội và Công an; đặt lợi ích kinh tế đối lập với lợi ích quốc phòng, an ninh; đối lập giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phủ định vai trò của quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta,... Không khó để nhận thấy lực lượng tiến hành các hoạt động thông tin và đưa ra những luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh gồm cả những đối tượng phản động trong nước và ngoài nước, những kẻ cơ hội chính trị, thành phần bất mãn với chế độ, những kẻ ham lợi ích vật chất, bị thế lực thù địch móc nối, mua chuộc, dụ dỗ. Bên cạnh đó, cũng có một số người do kém hiểu biết, bị thiếu thông tin chính thống hoặc người có hiểu biết nhưng bàng quan và thiếu ý thức chính trị đã có những hành động, phát ngôn không đúng, vô tình tiếp tay tuyên truyền cho các thế lực thù địch, phản động.

Để thực hiện các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, ngoài việc sử dụng các phương tiện truyền thống, hiện nay chúng triệt để lợi dụng in-tơ-nét với các trang mạng của một số đài nước ngoài phát tiếng Việt, đặc biệt là Facebook và Blog (với khả năng siêu kết nối, Facebook đang là lựa chọn số một cho hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của chúng). Đối tượng chúng hướng đến để tuyên truyền những thông tin, luận điệu xuyên tạc là các tầng lớp nhân dân, nhưng trọng tâm, trọng điểm là giới trẻ (thanh niên, học sinh, sinh viên) nhằm tạo lập lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Các hoạt động thông tin và luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh được tiến hành ở mọi thời điểm, nhưng cường độ cao và quyết liệt nhất vẫn là vào các ngày lễ lớn của dân tộc, khi diễn ra sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại quốc phòng - an ninh, hoặc khi tình hình an ninh, chính trị - xã hội, tình hình biên giới, biển, đảo có những diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Mục đích của những thông tin và luận điệu xuyên tạc đó là làm xấu hình ảnh của Quân đội và Công an trước nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tạo ra sự nghi ngờ, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo, cách thức giải quyết sự việc liên quan đến quốc phòng - an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào Quân đội, Công an, làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, lơi lỏng nhiệm vụ, rơi vào lối sống thực dụng, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồˮ. Cùng với các hoạt động khác, mục tiêu cuối cùng của chúng là phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với Quân đội và Công an, vô hiệu hóa Quân đội, Công an khi đất nước có biến động.

NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LUẬT AN NINH MẠNG HIỆN NAY CỦA NCACS THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Luật An ninh mạng đã được thông qua và có hiệu lực, Việt Nam sẽ có hành lang pháp lý chuẩn mực để bảo vệ chủ quyền, độc lập, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng. Tuy nhiên, sau khi Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng và việc công bố Lệnh của Chủ tịch nước về Luật này, dư luận trong nước và ngoài nước đều hết sức quan tâm. Thế nhưng, núp dưới chiêu trò “tự do ngôn luận”, lợi dụng chủ trương của  Đảng về “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”, những kẻ cơ hội và các thế lực thù địch ở trong nước, cũng như ở nước ngoài luôn sử dụng những thủ đoạn xuyên tạc Luật An ninh mạng nhằm mục đích gây hỗn loạn thông tin, tạo ra sự ngờ vực và dư luận xấu trong xã hội; từ đó, xuyên tạc chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta về ban hành các luật. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh với luận điệu xuyên tạc Luật An ninh mạng hiện nay là rất cấp bách. Những thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch thường sử dụng như:

Thứ nhất, những kẻ cơ hội và các thế lực thù địch ở trong nước, ở nước ngoài cho rằng, việc chúng ta ban hành Luật An ninh mạng là biện pháp tình thế của Đảng và Nhà nước ta nhằm đối phó những người bất đồng chính kiến. 

Không khó để nhận ra những luận điệu sai trái, lạc lõng đó của các hãng thông tấn, báo chí nước ngoài và những kẻ cơ hội chính trị trong nước “như nấm độc sau cơn mưa”của đài BBC, RFA, VOA, RFI,… Điển hình VOA Tiếng Việt với hàng loạt bài đầy tính xuyên tạc như: “Xuất hiện phong trào Bất tuân Luật An ninh mạng”… và trên internet, mạng xã hội, lại có một số thông tin cho rằng Luật An ninh mạng “xâm phạm quyền riêng tư”; “xâm phạm quyền tự do ngôn luận, quyền công dân”; “cướp đi quyền sử dụng internet của người dân” và hạn chế các quan hệ quốc tế, kiềm chế sự phát triển của Việt Nam? Những điều này có phải là sự thật hay không? Sự thật không đúng như vậy! Phải khẳng định rằng, xây dựng, thực hiện Luật An ninh mạng là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới. Ngay trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”, nhất là trong điều kiện “Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới”; trong khi đó,“An ninh, trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Bảo vệ bí mật quốc gia còn nhiều yếu kém. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng còn nhiều bất cập”. Vì vậy, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật An ninh mạng để tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng với tất cả vì mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân, vì sự phát triển ổn định Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Do đó, luận điệu sai trái trên chẳng những mơ hồ về mặt lý luận, mà còn phản động về mặt thực tiễn.

Thứ hai, họ cho rằng những nội dung Luật an ninh mạng là hết sức mơ hồ và không có quốc gia nào có luật này. 

Theo Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam: “An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu đe dọa sự tồn tại, phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực hoặc của toàn xã hội… Duy trì an ninh toàn diện là điều kiện để phát triển toàn diện”. Tại Điều 2, khoản 1 của Luật An ninh mạng khẳng định: “An ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Như vậy, về mặt thuật ngữ - an ninh mạng - về nội hàm của nó đã chỉ ra tính tất yếu phải ban hành và thực hiện luật này. Việc họ cho rằng “không có quốc gia nào có luật này”! Đây lại là một sự bịa đặt nữa dựa trên sự đánh tráo khái niệm. Đến nay, 138 quốc gia đã có luật An ninh mạng bao gồm cả luật chuyên đề và các quy định pháp quy nằm rải rác ở các luật khác và không ít các luật đó còn gắt gao hơn nhiều so với Việt Nam. Ngày 07-12-2015, các nghị sĩ và các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã đạt thỏa thuận về Luật An ninh mạng đầu tiên áp dụng cho toàn khối: “Theo luật trên, các nhà cung cấp dịch vụ trên mạng như: Google và Amazon sẽ phải báo cáo mọi vi phạm có tính chất nghiêm trọng cho các cơ quan chức năng quốc gia nếu không sẽ bị phạt. Luật mới mang tên “Chỉ dẫn an ninh mạng và thông tin”, đặt ra những quy định nghiêm ngặt về an ninh và trình báo bắt buộc đối với các công ty hoạt động trong những lĩnh vực trọng yếu, như: Giao thông, năng lượng, y tế và tài chính. Các công ty hoạt động trên mạng như: Google, Amazon, eBay và Cisco sẽ phải trình báo những vi phạm nghiêm trọng với cơ quan chức năng quốc gia nếu không sẽ phải chịu những biện pháp xử phạt từ các cơ quan này”. Tại Đức, Bộ Tư pháp rất xem trọng việc an ninh mạng. Họ ra chỉ thị rõ ràng cho Facebook nếu quản lý không tốt để người dân kích động bạo lực, chửi bới trên mạng, xuyên tạc sẽ bị phạt thẳng tay từ những người quản lý Facebook đến những người phát biểu phát biểu.

Đạo luật Netzwerkdurchsetzungsgesetz (NetzDG) được thông qua giữa năm ngoái nhưng chính thức có hiệu lực vào 1-1-2018 vừa qua sau 2 tháng gia hạn để các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội phát triển các công cụ ngăn chặn phát ngôn kích động thù hận. Hay tại Hàn Quốc, việc dùng mạng xã hội để tung ra những lời xúc phạm một “thần tượng” nào đó thì bạn sẽ sớm nhận được đơn kiện từ công ty chủ quản của nhân vật nổi tiếng ấy. Như vậy, luận điểm cho rằng, “những nội dung Luật An ninh mạng là hết sức mơ hồ và không có quốc gia nào có luật này” là sự bịa đặt, hoàn toàn trái với những gì trên thực tế.

Thứ ba, họ cho rằng các công ty mạng của nước ngoài sẽ không cung cấp thông tin người dùng theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam - chơi “luật riêng”. 

Đây cũng là điều bịa đặt bởi hàng năm, Facebook đều có báo cáo về cơ sở dữ liệu cho các chính quyền các nước là thị trường của họ. Tổng cộng có tất cả 103 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam. Và sau khi Luật An ninh mạng được Quốc hội chính thức thông qua, đại diện Facebook tại Việt Nam cho biết, hoạt động của Facebook không hề bị ảnh hưởng tại Việt Nam. Hơn thế nữa, Facebook đang hoàn tất các thủ tục pháp lý để chuẩn bị thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam; giúp Facebook hoạt động tốt hơn, cũng như phối hợp tốt hơn với Chính phủ Việt Nam trong tương lai.Và cho đến nay, các nhà mạng Google, Facebook và một số nhà mạng khác vẫn hoạt động bình thường tại Việt Nam cũng như không có ý định rút khỏi thị trường đầy tiềm năng như Việt Nam. Như vậy, luận điệu trên hoàn toàn không có cơ sở.

Như vậy, những đối tượng lo ngại vô lý về Luật An ninh mạng thì có thể dùng các biện pháp thuyết phục, giáo dục, giải thích để cho họ hiểu đúng. Còn đối với những kẻ quyết liệt chống lại Luật An ninh mạng thì có thể coi đó là các hành vi chống lại việc khẳng định của quyền, độc lập, an ninh quốc gia và trật tự xã hội của Việt Nam trên không gian mạng và đó là những hành vi phản quốc./.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 Tư tưởng chủ yếu của đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nâng cao vị thế đất nước, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ tổng kết thực tiễn hoạt động đối ngoại trong hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở dự báo bối cảnh thế giới và hội nhập quốc tế trên thế giới đến năm 2030, Đại hội XII, XIII của Đảng quyết định đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế trong thời kỳ phát triển mới của đất nước - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tư tưởng chủ yếu của đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nâng cao vị thế đất nước, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đường lối đúng đắn là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng; do đó thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế sẽ góp phần củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Do vị trí tầm quan trọng của đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, cho nên các thế lực thù địch, đối tượng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta coi chống phá, xuyên tạc đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế là nội dung trọng điểm trong chiến lược diễn biến hòa bình của họ. Cho nên đấu tranh phản bác các quan điểm phản động, sai trái, chống phá, xuyên tạc đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là trọng trách đầu của công tác tư tưởng, để làm tròn trọng trách của mình trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế này.

Thứ nhất: Chủ thể công tác tư tưởng là các cấp ủy Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên, các cấp bộ, ban, ngành, địa phương, doanh nghiệp và nhân dân cần quán triệt sâu sắc, thống nhất nhận thức về bản chất, mục tiêu, quan điểm, định hướng chủ yếu trong đường lối hội nhập quốc tế của Đảng ta.

Hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan của bối cảnh thế giới ngày nay. Các quốc gia cũng như các doanh nghiệp ngày càng có xu hướng sử dụng hội nhập quốc tế như một công cụ để tối ưu hóa lợi ích của mình. Chính vì thế, về bản chất của hội nhập không chỉ là quá trình hợp tác và đấu tranh mà còn là một quá trình đánh đổi vì hội nhập càng sâu đòi hỏi cải cách bên trong càng lớn. Cần thống nhất nhận thức hội nhập là công cụ nhằm thực hiện mục tiêu chung về an ninh, phát triển và ảnh hưởng. Hội nhập kinh tế là công cụ thúc đẩy phát triển trong nước, giúp nâng cao sức mạnh và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hội nhập chính trị, an ninh quốc phòng nhằm củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế. Hội nhập văn hóa xã hội nhằm phát huy và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Quá trình thực hiện hội nhập sâu rộng trên các cấp độ từ hội nhập kinh tế, hội nhập chính trị, hội nhập văn hóa xã hội, hội nhập quốc phòng an ninh… cần giữ vững đường lối đối ngoại, độc lập tự chủ vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì hòa bình hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; cần quán triệt và vận dụng sáng tạo 5 bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta trình bày trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 201l): Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở kiên định đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế và vận dụng sáng tạo 5 bài học kinh nghiệm trên cần tập trung quán triệt sâu sắc 6 quan điểm chỉ đao để thực hiện tích cực và chủ động hội nhập quốc tế đó là:

- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thế chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng miền, khu vực trong nước.

- Hội nhập kinh tế tiếp tục là trọng tâm của quá trình hội nhập toàn diện. Hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa xã hội, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thế với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiên định lợi ích quốc gia dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu không tham gia vào các tập hợp lực lượng các liên minh của bên này chống bên kia.

- Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, đi đôi với chủ động tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế, chủ động đề xuất sáng kiến cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Thứ hai: Công tác tư tưởng cần nhận dạng và chỉ rõ các chủ thể tiến hành các âm mưu hoạt động chống phá, xuyên tạc đường lối chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Các chủ thể này là các thế lực thù địch của các nước đế quốc tư bản và các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, bành trướng, bá quyền.

Thứ ba: Để kịp thời nhận diện các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá, xuyên tạc đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế, công tác tư tưởng cần bám sát thực tiễn hoạt động hội nhập của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh mới có thể phát hiện các luận điệu, quan điểm sai trái xuyên tạc, vu khống kích động, chống phá đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế của ta. Căn cứ vào mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và các định hướng chỉ đạo hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh..., chúng ta sẽ nhận diện các luận điệu và những quan điểm phản động, sai trái chống phá xuyên tạc các hoạt động thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái chống phá xuyên tạc đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế là một bộ phận không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bìnhˮ và đấu tranh phòng chống “tự diễn biếnˮ “tự chuyển hóaˮ hiện nay: Cho nên phương hướng, nhiệm vụ, lực lượng, giải pháp chống diễn biến hòa bình cần được nghiên cứu vận dụng có hiệu quả trong cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái chống phá, xuyên tạc đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế hiện nay./. 

CẦN TIẾP TỤC KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ TO LỚN CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA TOÀN DÂN TỘC VIỆT NAM

     Từ việc nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta càng phải tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc để tiếp thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như vận mệnh và tương lai của đất nước. Cụ thể như sau:

    Một là, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

    Từ khi thành lập đến nay, suốt hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thủ thách để đạt được những thành quả cách mạng to lớn. Đó là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược và đặc biệt nhất là những thành công to lớn của 35 đổi mới đất nước. Thực tế phát triển đất nước qua hơn 35 năm đổi mới đã cho thấy, Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; mọi mặt đời sống của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đây là một sự thật lịch sử đã được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ghi nhận và nhân dân Việt Nam tôn vinh chứ không phải giống như những luận điệu vu cáo của các thế lực thù địch: “Đảng tự vinh danh, tự đeo vòng nguyệt quế vào cổ cho mình quyền cầm đầu nhân dân”. Những thành tựu rất quan trọng của đất nước trong thời gian qua là cơ sở khách quan để khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó cũng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã khẳng định trong Diễn văn Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/2020): Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

    Hai là, có thái độ khách quan, công tâm khi nhìn nhận những khuyết điểm, thiếu sót của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước.

    Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót do giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Tuy nhiên, như một thông lệ không thể thiếu, trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, nhất là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, khi đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội qua một nhiệm kỳ, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, “tôn trọng hiện thực khách quan”, Đảng ta luôn thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm. Đảng ta coi những sai lầm, khuyết điểm là yêu cầu, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới, nhân dân phải tiếp tục đồng lòng để vượt qua những khó khăn, thử thách. Điều này được khẳng định rõ trong Báo cáo tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới của Đảng: “Những hạn chế, khuyết điểm đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa”.

    Nhìn nhận lại những chủ trương của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua thông qua những Nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016), có thể nhận thấy tinh thần nghiêm túc trong tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc. Đây không phải là sự “chắp vá”, “giật gấu vá vai” như những luận điệu mà các thế lực thù địch vẫn rêu rao mà nó thể hiện quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng trong việc “tự sửa mình” và đào tạo, huấn luyện cán bộ, đảng viên. Do đó, cần có thái độ khách quan, công tâm khi xem xét những sai lầm, khuyết điểm của Đảng. Cần tránh cả hai xu hướng xem nhẹ, bỏ qua những khiếm khuyết hoặc tuyệt đối hóa, thổi phồng những khuyết điểm bởi cả hai xu hướng này hoặc là dẫn đến thái độ chủ quan, lơ là; hoặc dẫn đến thái độ cực đoan, bất mãn. Sai lầm, khuyết điểm của Đảng, nhất là của một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong thời gian qua là một bài học đắt giá cho công tác xây dựng Đảng nhưng không vì thế mà đánh đồng với đóng góp của biết bao thế hệ đảng viên với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cũng không vì thế mà đưa ra những lời rêu rao theo kiểu chụp mũ, vô căn cứ là “không ai muốn sống ở Việt Nam”, “những kẻ lắm tiền, nhiều của là thành phần cán bộ có chức có quyền đã tìm mọi cách đem gia đình chạy khỏi Việt Nam sau khi đã vơ vét đầy túi”.

    Ba là, tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lòng dân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là sự kế thừa các bản Hiến pháp trước đó như Hiến pháp năm 1980, năm 1992 đồng thời thể hiện ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp. Hơn nữa, chính nhân dân Việt Nam đã tin tưởng lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất sự nghiệp cách mạng trong suốt thời gian qua.

    Hơn nữa, mối quan hệ của Đảng với Nhân dân là mối quan hệ máu thịt bởi Đảng vì Nhân dân là phấn đấu, tôi luyện, trưởng thành, lấy hạnh phúc cho Nhân dân là mục tiêu phấn đấu; ngược lại, Nhân dân cũng luôn vững tin theo Đảng, cùng chung tay giúp sức xây dựng và chỉnh đốn Đảng, sát cánh bên Đảng để vượt qua những khó khăn. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân chính là nguồn gốc sức mạnh và nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do đó, “luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội của các thế lực thù địch là hoàn toàn trái với nguyện vọng, sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân Việt Nam. Mọi công dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác, không mắc mưu kẻ địch phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội của chúng ta”./.

DẠY MÔN LỊCH SỬ TRONG BẬC HỌC PHỔ THÔNG LÀ ĐỂ NÂNG CAO NHÂN CÁCH, LÒNG YÊU NƯỚC!

         Ngay từ thời phong kiến khi dạy người, ông cha ta đã rất coi trọng giáo dục môn Lịch sử. Thời kỳ đó, các nho sinh từ 6 tuổi trở lên đã phải ngày đêm đèn sách, gắng sức học cho thông kinh sử, bởi không thông sử thì khó mà đỗ đạt làm quan để phụng sự dân tộc, quản lý đất nước, sau nữa là rạng rỡ tổ tông. Sinh thời Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dạy Nguyễn Tất Thành thời còn niên thiếu nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất vẫn là những bài học về lịch sử, thông qua những trang sử nước nhà đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm hun đúc lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức, cường quyền của bọn đế quốc, phong kiến. Thấm thía rõ điều ấy, ngay từ năm 1942 khi lãnh đạo Mặt trận Việt Minh và nhân dân Việt Nam chuẩn bị lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã soạn một tài liệu có tên: Lịch sử nước ta để tuyên truyền vận động nhân dân. Mở đầu tài liệu, Người viết: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Câu thơ dản dị ấy đã nói lên ý nghĩa và tầm quan trọng của lịch sử dân tộc đối với mỗi người dân đất Việt. Tất cả những giá trị lịch sử, văn hóa của người Việt Nam qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước thường được đúc kết bằng những trang sử sách, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống chống ngoại xâm vô cùng kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Dạy lịch sử chính là dạy cho thế hệ trẻ Việt Nam biết làm người, giáo dục cho họ hiểu biết những phẩm giá, nhân cách con người Việt, góp phần nâng cao cái “phông” văn hóa cho học sinh, qua đó giúp cho các em hiểu biết quá khứ hào hùng của dân tộc và những giá trị của ngày hôm nay. Nếu chúng ta không dạy cho thế hệ trẻ môn Lịch sử, thì chẳng khác nào làm cho cuộc sống của họ như “cây không có gốc”, “suối không có nguồn”, khó có thể phát triển toàn diện và bền vững. Trong lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (1966- 2011), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã khẳng định: “Sử học là ngành khoa học nền tảng hết sức quan trọng, không chỉ dừng lại ở quá khứ mà từ đó biết cả hiện tại và tương lai, phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
​Nhìn xa ra quốc tế cũng chưa thấy quốc gia nào coi nhẹ dạy môn Lịch sử, thậm chí các quốc gia tiên tiến khi xét cấp quốc tịch họ đều bắt buộc thi 2 môn đó là Lịch sử và ngôn ngữ của quốc gia ấy.
Chúng ta đều biết, lịch sử xã hội loài người hay lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc là quá trình phát triển tự nhiên, biện chứng, trong đó chứa đựng rất nhiều sự kiện và nhân vật bi, hùng. Lịch sử là một kho tàng kinh nghiệm phong phú mà con người tích lũy được. Sử học, hay khoa học lịch sử là một trong những ngành khoa học xuất hiện sớm giúp cho con người nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Lịch sử sẽ giúp cho thế hệ hiện tại và tương lai tiếp cận chân lý một cách nhanh nhất và hành động một cách hiệu quả nhất. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Nghiên cứu lịch sử không phải chỉ với mục đích giải thích quá khứ mà còn cả ý nghĩa mạnh dạn tiên đoán tương lai và mạnh dạn kiến nghị thực hiện các tiên đoán đó”. Mặt khác, lịch sử sẽ giải thích cho mỗi người hiểu được mình sinh ra và lớn lên từ đâu với quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể hình dung được sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người nếu bị tách ra khỏi quá khứ hoặc sống trong một quá khứ mịt mù. Khi bàn về điều này, Tổng thống nước Pháp Francois Miterand lãnh đạo đất nước từ năm1981 đến năm1995, đã nói rằng: Những kẻ không hiểu lịch sử dân tộc thì bơ vơ như những đứa trẻ mồ côi. Vì thế, Chính phủ thời Ông đã có nhiều biện pháp chấn hưng sử học nước Pháp, đẩy mạnh việc truyền bá và giáo dục lịch sử, coi dạy- học môn Lịch sử là một trong những môn học bắt buộc ở bậc học phổ thông. Vì “Sử học là thầy dạy của cuộc sống”.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tiếp tục phát huy vai trò và tầm quan trọng các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, môn Lịch sử nói riêng, Đảng ta đã có những nghị quyết định hướng và chỉ đạo dạy - học môn Lịch sử cho bậc học phổ thông. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), tháng 12 năm 1996, đã đề ra yêu cầu ngành giáo dục phải “coi trọng các môn tiếng Việt, văn hóa và lịch sử dân tộc, địa lý Việt Nam”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), đã chỉ rõ: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Như vậy, quan điểm, chủ trương của Đảng là nhất quán, định hướng rất rõ về giáo dục môn Lịch sử cho bậc học phổ thông, chúng ta không thể làm trái sự chỉ đạo và định hướng đó. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo ra những con người có trí tuệ, bản lĩnh vững vàng và năng lực hành động sáng tạo. Suy nghĩ về vấn đề này, trong Điện chúc mừng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam ngày 16/8/2012, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết: “Giáo dục khoa học Lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam là vấn đề vô cùng quan trọng đối với tương lai và sự trường tồn phát triển dân tộc”. Lời căn dặn đó đã thể hiện lòng mong muốn đầy tâm huyết của Đại tướng đối với tương lai của đất nước và dân tộc.
Với chiều dày lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải trải qua biết bao thăng trầm. Với những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ... Kể cả những thất bại đau xót trong công cuộc giữ nước của An Dương Vương thời quốc gia Âu Lạc, Hồ Quý Ly đầu thế kỷ XV và Triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX, luôn là một kho tư liệu sinh động chứa đựng những bài học, kinh nghiệm bi, hùng về công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cần phải được truyền bá, giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay để họ tự hào với những chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, đồng thời nhắc nhở họ luôn nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cũng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng đó, dân tộc ta đã phải trải qua hàng chục cuộc chiến tranh chống xâm lược với các thế lực phong kiến, đế quốc khác nhau, mà dài nhất là hơn một ngàn năm đấu tranh chống sự đô hộ của các tập đoàn phong kiến phương Bắc. Tất cả các thế lực xâm lược nước ta đều đã dùng trăm phương, nghìn kế để xóa bỏ lịch sử và văn hóa dân tộc ta, hòng để đồng hóa dân tộc nhưng chúng đều thất bại. Điều đó nói lên việc xóa bỏ lịch sử dân tộc là một trong những thủ đoạn vô cùng thâm độc, xảo quyệt của các thế lực phong kiến, đế quốc khi xâm lược nước ta và các thế lực phản động ngày nay. Âm mưu của chúng là muốn xâm chiếm, thôn tính, thống trị nước ta lâu dài. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay, nhất là công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ, với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, các thế lực thù địch đang lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là internet, thông qua các trang mạng xã hội như: facebook, youtube, twite; trang web hay blog…để tuyền truyền, xuyên tạc, bôi đen, bóp méo lịch sử dân tộc, phủ nhận những giá trị của những sự kiện, nhân vật lịch sử đích thực trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Thủ đoạn của chúng là triệt để khai thác, cắt xén, nhào nặn những thông tin sai sự thật, không được kiểm chứng, làm cho thật- giả lẫn lộn, tạo ra sự tò mò, hoài nghi trong dư luận. Đối tượng chủ yếu mà chúng nhắm đến là thế hệ trẻ. Vì vậy, giáo dục lịch sử dân tộc ở bậc học phổ thông lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nếu như môn lịch sử không được đối xử và lựa chọn đúng với vị trí, vai trò của nó, không trở thành môn học bắt buộc cho học sinh trung học phổ thông thì rất nguy hại cho quốc gia, dân tộc, vô tình tiếp tay cho kẻ thù.
Hiện nay, tình hình chính trị- an ninh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến hết sức phức tạp. Tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
​Đối với Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo đang đặt ra ngày càng nặng nề và phức tạp hơn, chủ quyền đất nước đang bị đe doạ. Nếu chúng ta không có sự giáo dục đúng mức thì nhiều thế hệ người Việt không thể hiểu biết đầy đủ về lịch sử chủ quyền quốc gia. Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không nắm chắc hiểu rõ lịch sử dân tộc, không có niềm tin dân tộc, không kế thừa các truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc thì làm sao có thể yêu nước và bảo vệ đất nước một cách chân chính nhất.
​Để môn lịch sử là môn học chính khóa, bắt buộc ở bậc học phổ thông nước ta hiện nay, chúng ta cần phải làm tốt những vấn đề chủ yếu sau:
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chỉnh sửa lại Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới, đưa môn Lịch sử về đúng với vị trí, vai trò của nó, xác định lịch sử là môn học chính khóa, bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông nước ta. Tiếp tục làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy - học môn Lịch sử, không coi đó là môn học tự chọn. Làm như vậy mới nêu cao vai trò, chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước, nêu cao trách nhiệm của người dạy và người học. Nếu môn Lịch sử không phải là môn học chính, bắt buộc ở bậc học phổ thông thì sẽ dẫn đến buông lỏng quản lý môn học này, làm cho đội ngũ người thầy không muốn dạy môn Lịch sử và học sinh cũng không muốn học môn Lịch sử và khi đó thì lịch sử dân tộc sẽ ra sao? Ai là người chịu trách nhiệm cả tiền nhân và hậu thế về sự thật lịch sử này? Đến một lúc nào đó chính thế hệ được giáo dục bằng Dự thảo chương trình này sẽ quay lưng lại với tổ tiên và ông cha ta, sẽ quay lưng lại với quốc gia, dân tộc. Đó sẽ là hậu quả khôn lường.
Biên soạn lại bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông với phương pháp tư duy khoa học, bằng cách khái quát các sự kiện lịch sử thành những mốc lớn sao cho dễ nhớ, dễ hiểu, trọng tâm là đi sâu khai thác làm rõ ý nghĩa của các sự kiện lịch sử thành các bài học để bồi dưỡng nhân cách, kích thích tinh thần yêu nước, yêu quê hương cho học sinh phổ thông, giúp cho các em hiểu và nắm vững các sự kiện trọng đại của đất nước, đặc biệt là cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay.
Đổi mới phương pháp dạy- học môn Lịch sử và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy môn Lịch sử cho ngang tầm với yêu cầu mới. Dạy - học môn Lịch sử không nên theo kiểu thuộc lòng các sự kiện đã diễn ra (tất nhiên là cần nhớ chính xác một số sự kiện trọng đại của đất nước). Điều quan trọng là người thầy cần giúp cho các em học sinh hiểu và đánh giá đúng ý nghĩa và giá trị của các sự kiện lịch sử đối với tiến trình phát triển của một đất nước, một dân tộc. Dẫn dắt các em vào lịch sử dân tộc và thế giới, càng vào sâu càng hấp dẫn và khám phá điều mới lạ, vô cùng cần thiết cho con đường đi lên, con đường sống của các em. Đối với người Việt Nam, đó là các sự kiện liên quan đến công cuộc đấu tranh bảo vệ và giữ gìn nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới xây dựng Tổ quốc. Làm cho học sinh khi học môn Lịch sử, phải hiểu rõ giá trị các sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, từ đó các em sẽ tự hào với truyền thống của dân tộc, có ý thức trách nhiệm với tương lai, tiền đồ của đất nước. Dạy - học môn Lịch sử chính là trang bị cho các em những kiến thức xã hội cần thiết để bước vào đời được vững vàng và chững chạc hơn. Qua đó gây cho các em cảm hứng, thích thú, nhớ lâu và càng muốn học môn Lịch sử để hiểu sâu thêm về đất nước, con người Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đối với đội ngũ giáo viên dạy sử, chú ý cải thiện điều kiện làm việc của họ, có chính sách đãi ngộ hợp lý để họ không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Thượng tướng, PGS, TS Võ Tiến Trung - nguyên UVBCHTW Đảng, nguyên UVQUTW, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng.
Yêu nước ST.