Ngay khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn một cuộc chiến tranh xảy ra. Song mọi cố gắng, nỗ lực của phía Việt Nam đã bị dã tâm xâm lược của thực dân Pháp chối bỏ. Trước tình thế đó, ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Bản chỉ thị nêu rõ: Mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc; tính chất: Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt để chống thực dân Pháp. Tiếp đó, nhằm chống lại những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, thay mặt Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(1).
Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là những văn kiện cơ bản hợp thành đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp. Đường lối đó hợp lòng dân nên đã nhanh chóng quy tụ và
phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đứng lên đấu
tranh giành độc lập và tự do cho đất nước, dân tộc.
Với đường lối chiến lược đúng đắn, dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta từng bước giành những thắng lợi to lớn. Từ năm 1945 đến
năm 1953, quân và dân ta liên tiếp làm thất bại mọi kế hoạch chiến lược của
địch, từ kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, kế hoạch phong tỏa biên giới và
“làm chủ vùng đồng bằng”, đến kế hoạch “giành quyền chủ động chiến lược”. Thất
bại dồn dập về quân sự, hao tổn về tài chính, buộc thực dân Pháp phải dựa hẳn
vào đế quốc Mỹ, xin thêm nhiều viện trợ nhằm đẩy mạnh chiến tranh với mong muốn
giành thắng lợi quân sự để kết thúc chiến tranh trong danh dự. Với ý đồ đó, Kế
hoạch Navarre - một kế hoạch đầy tham vọng của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
ra đời. Mục tiêu của kế hoạch là giành thắng lợi quyết định về quân sự trong
vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh có lợi cho cả Pháp và Mỹ. Với tham vọng
giành lại quyền chủ động trong thế bị động, H. Navarre đã đổ quân tinh nhuệ của
Pháp xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông
Dương. Theo đó, quân địch chiếm đóng ở Điện Biên Phủ với quân số lúc cao nhất
lên tới 16.200 tên, gồm những đơn vị tinh nhuệ, bố trí trong 49 cứ điểm, chia
làm ba phân khu: Bắc, Nam và Trung tâm. Ỷ vào thế mạnh về quân sự, vào ưu thế
của vũ khí, trang bị và khả năng tiếp tế, thực dân Pháp và cả đế quốc Mỹ đều đi
đến một nhận định, Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “con nhím”
hoàn hảo được tổ chức phòng ngự theo kiểu hiện đại, là nơi “nghiền nát chủ lực
của Việt Minh”. Trái với những tham vọng và tuyên bố huênh hoang, hiếu chiến
của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam lại khẳng định sự tất thắng của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân
tộc trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh, vũ khí tối tân, hiện đại.
Trong lịch sử, chính sức mạnh đó đã “nhấn chìm” không ít kẻ thù hung bạo khi
chúng đến xâm lược Việt Nam.
Sau khi phân tích tình hình trên các
chiến trường, đầu tháng 12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết
định tập trung lực lượng mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở
Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch
rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với
trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải
tập trung hoàn thành cho kỳ được”(2).
Từ đây, một cuộc động viên sức người, sức của của toàn dân tộc đã được triển
khai rầm rộ, với quy mô lớn chưa từng có. Công nhân, nông dân, trí thức, học
sinh, nhà buôn và cả một số địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng góp công, góp
của. Đâu đâu cũng có phong trào ra quân rầm rộ. Hội đồng Cung cấp Mặt trận
Trung ương nhanh chóng được thành lập, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ
tịch, đã chỉ đạo các địa phương, các ngành kinh tế, tài chính, tổ chức động
viên nhân tài, vật lực của cả nước cho cuộc kháng chiến. Với khẩu hiệu “Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, mọi địa phương đều thi đua chi viện cho
mặt trận. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, dù nhiều nơi mới được giải phóng, còn
rất nhiều thiếu thốn, nhưng đã tích cực đóng góp cho chiến dịch đến 1.200 tấn
gạo, 300 tấn thịt và gần 100 tấn rau. Liên khu Việt Bắc đóng góp 7.311 tấn
lương thực, riêng tại Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và tỉnh Lai Châu) là
2.266 tấn. Ở Liên khu III (do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo),
tuy còn nhiều vùng địch chiếm đóng nhưng cũng huy động được 1.183 tấn gạo, 57
tấn muối. Ở Liên khu IV, chủ yếu là tỉnh Thanh Hóa, mặc dù đồng bào còn rất khó
khăn, nhưng vì tiền tuyến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí
Thanh, nhân dân đã sẵn sàng và huy động hơn 8.000 tấn thức ăn khô. Đặc biệt, dù
là nơi đang trực tiếp chiến đấu với địch, nhân dân huyện Điện Biên cũng đóng
góp được 555 tấn lương thực (vượt mức trên giao 64 tấn), 226 tấn thịt (vượt 43
tấn)(3).
Cùng với những đóng góp tích cực của
nhân dân cả nước về lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, lực lượng dân công
của các địa phương cũng được huy động đủ đáp ứng yêu cầu cho chiến dịch. Liên
khu III tổ chức mỗi đoàn từ 300 đến 500 người. Tỉnh Hòa Bình huy động 5.000 dân
công làm đường. Huyện Mỹ Đức (Hà Đông) mới giải phóng đã có 800 người tình
nguyện đi dân công phục vụ chiến dịch, huyện Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình) huy động
đội xe thồ 150 chiếc làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực. “Ngay tại hỏa tuyến,
đồng bào Điện Biên cũng đưa 3.000 người đi dân công với 64.670 ngày công phục
vụ. Hậu phương tại chỗ, khu Tây Bắc huy động 31.818 dân công. Việt Bắc, căn cứ
địa kháng chiến chung của cả nước cũng cung cấp cho mặt trận 36.518 dân công.
Trong vùng địch hậu tỉnh Kiến An đã đóng góp 230.294 ngày công. Trong vùng tạm
chiếm của các tỉnh Bắc Bộ, đồng bào đã chuyển ra vùng tự do hơn 20 vạn tấn thóc
và 7,5 triệu ngày công đi dân công”(4).
Tính chung trong chiến dịch, ngoài 16
đại đội ô tô vận tải của quân đội, các phương tiện thô sơ của các địa phương là
lực lượng hết sức quan trọng và vận chuyển hiệu quả hàng hóa, điển hình có tới
hơn hai vạn xe đạp thồ được huy động. Ngoài việc tham gia vận tải gạo, đạn cho
chiến trường, lực lượng dân công còn tích cực tham gia vận chuyển thương binh
ra hậu cứ để cứu chữa, trực tiếp vào tận chiến hào để phục vụ chiến đấu. Đồng
bào nhiều địa phương cùng sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường, phá
thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Nhờ những nỗ lực đó mà
điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là vấn đề hậu
cần chiến dịch đã được giải quyết thành công. Sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã góp phần tạo nên thành công vượt bậc đó.
Tổng kết toàn chiến dịch, nhân dân cả
nước huy động được 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917
tấn thực phẩm khác... Huy động 216.451 lượt dân công bằng 12 triệu ngày công,
20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng(5). Ghi nhận kết quả này, tại Hội nghị
tổng kết chiến dịch, thay mặt cho toàn quân, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên
Giáp khẳng định: “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp đạn dược là nhân
tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật; khó khăn về
cung cấp lương thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn
trương từng ngày từng giờ, không kém tình hình chiến đấu… quân địch không bao
giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục khó khăn này. Bọn đế quốc,
phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể
khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù”(6).
Đánh giá kỳ tích này, tướng Pháp Y. Gra nhận xét rất đúng rằng: “Cả dân tộc đã
tìm ra giải pháp cho vấn đề hậu cần và giải pháp này đã làm thất bại mọi toan
tính cũng như dự kiến của Bộ Tham mưu Pháp”(7).
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
còn được huy động ở mức cao nhất trong phối hợp tiến công trên các hướng chiến
lược để căng kéo quân địch, buộc chúng phải phân tán ra các chiến trường theo ý
định của ta. Quân và dân ta ở khắp các địa phương trong cả nước, từ Tây Bắc,
Liên khu III, Tả ngạn, đến Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, Bắc Tây Nguyên, Sài
Gòn - Gia Định, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến
công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân,
buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Tại Liên khu
III, ta tăng cường tiến công tập kích Đường 5 - tuyến đường vận tải chiến lược
của địch từ Hải Phòng về Hà Nội; đồng thời, liên tiếp tập kích các sân bay Gia
Lâm và Cát Bi để phá tuyến vận tải đường không của địch chi viện cho Điện Biên
Phủ… Ở chiến trường Nam Bộ, theo chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục
miền Nam đã chỉ đạo dốc toàn lực đẩy nhanh nhịp độ tiến công để phối hợp với
Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các đơn vị chủ lực của các khu và các tỉnh đã kết hợp
với lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào vùng địch hậu các tỉnh: Thủ
Biên, Long Châu Sa, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu… Bằng nhiều
hình thức, như phục kích, tập kích, công đồn, các lực lượng vũ trang Nam Bộ đã
diệt nhiều sinh lực địch, phá nhiều đồn bốt. Trong cả nước, nhân dân từ Nam chí
Bắc, từ thành thị đến nông thôn liên tiếp mở nhiều cuộc đấu tranh, vùng lên
diệt ác, phá tề, giành quyền làm chủ. Các lực lượng thanh niên, phụ nữ từ thành
thị đến nông thôn, từ vùng núi đến đồng bằng tích cực tham gia đấu tranh chính
trị, phá tề trừ gian. Qua đó, ta đã phân tán một bộ phận quan trọng lực lượng
địch, buộc chúng phải căng sức đối phó, bị giam chân ở nhiều chiến trường. Đây
là những hoạt động phối hợp kịp thời của cả nước có tác động tích cực tới chiến
trường Điện Biên Phủ.
Để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, vấn đề quan trọng là phải giải quyết hợp lý quyền lợi giữa các tầng
lớp nhân dân ở vùng hậu phương. Nhiệm vụ tối cao lúc này là kháng chiến đánh
đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc; song, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã chú trọng giải quyết thỏa đáng những quyền lợi giữa các tầng lớp
nhân dân, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi tối cao dân tộc và không làm suy yếu
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nổi bật trong thời gian này ở hậu phương (vùng
mới giải phóng), Đảng đã có chủ trương và chính sách nhằm đem lại mục tiêu,
quyền lợi dân chủ, nhất là cho nông dân - lực lượng đông đảo nhất trong xã hội.
Theo đó, năm 1953, Đảng phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến hành cải
cách ruộng đất, thực hiện “Người cày có ruộng”. Tháng 12-1953, Luật Cải cách
ruộng đất được ban hành. Trên thực tế, từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng
đã lãnh đạo tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở vùng tự do.
Điều đó đã động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do và sau lưng địch,
làm cho cán bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến càng tin tưởng sâu sắc vào đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo thành khối đại đoàn kết, dồn sức
người, sức của cho chiến dịch. Bên cạnh đó, trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm
chống thực dân Pháp cũng như trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã có thành
công lớn trong vận động nhiều địa chủ, tư sản dân tộc cùng con em, gia đình họ
tham gia kháng chiến.
Lực lượng công an đã góp phần tích cực
trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tích cực phối hợp hoạt động, thành lập “Ban
Công an tiền phương” làm nhiệm vụ bảo vệ các lực lượng tham gia chiến dịch, bảo
vệ dân công, bảo vệ giao thông vận chuyển, kho tàng, các cuộc hành quân, trú
quân của bộ đội chủ lực. Từng đơn vị tổ chức ra các ban bảo vệ dân công và phát
động phong trào “phòng gian bảo mật”; giữ bí mật, phổ biến cách thức phòng,
chống do thám, điều tra của địch; quy định việc đi lại, tiếp xúc giao dịch…
Tính từ tháng 1 đến tháng 5-1954, Công an Liên khu II, IV, khu Tây Bắc, Việt
Bắc đã bắt hàng trăm tên tình báo gián điệp chuyên theo dõi thu thập tin tức về
các cuộc hành quân, đóng quân của bộ đội ta từ các hướng lên Điện Biên Phủ(8). Phong trào “phòng gian bảo mật” được
phát động rộng khắp trên toàn mặt trận, công tác chống gián điệp, bảo vệ nội bộ
được triển khai một cách chủ động, vững chắc và đạt hiệu quả cao; vì vậy, địch
hoàn toàn bất ngờ và bị động trước sự tiến công của ta. Đồng thời, lực lượng
công an đã làm tốt công tác bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ các cơ quan đầu não chỉ đạo
kháng chiến, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong mọi tình huống…
Sức mạnh đoàn kết, sự đồng tâm hiệp lực
của cả dân tộc Việt Nam đã quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ và anh
dũng hy sinh của toàn quân và toàn dân ta, chúng ta đã đại thắng ở Điện Biên
Phủ”(9). Sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc được phát huy cao độ và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ
đường lối chiến lược đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo kiên quyết và tham gia tích
cực của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương bằng những hình thức,
biện pháp hết sức linh hoạt, sáng tạo và đặc biệt là sự tham gia đông đảo của
mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân để “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng”. Chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy được phát huy cao độ trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ mà tướng H. Navare - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp tại Đông Dương - đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải
chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét