Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023

CÁC SỰ KIỆN CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI LỚN TRONG THÁNG 11 NĂM 2023

 Ngày Pháp luật Việt Nam (09/11)

Ngày Pháp luật Việt Nam (Ngày Luật sư Việt Nam) được tổ chức thường niên vào ngày 09/11 nhằm tôn vinh giá trị  và công đóng góp của cộng đồng luật sư tại Việt Nam. Đây là dịp để đề cao và cho thấy sự quan trọng của vai trò mà pháp luật mang lại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quyền lợi nhân dân. Bên cạnh đó, Ngày Pháp luật Việt Nam cũng tuyên dương và khuyến khích những người làm nghề luật pháp đã và đang tuân thủ đúng quy định về “cán cân công lý” trong xã hội. 

tháng 11 có ngày lễ gì

Ngày Thành Lập Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Việt Nam (18/11)

Tháng 11 có ngày lễ gì trọng đại? Một trong những ngày lễ trọng đại vào tháng này là Ngày Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (MTĐTNN). Lễ kỷ niệm này được thành lập ngày 11/11/1930 hằng năm nhằm thể hiện niềm tự hào về tình đoàn kết và công đóng góp lớn lao của MTĐTNN, bao thế hệ anh hùng, chiến sĩ trong công cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do, dân chủ cho nước nhà. 

tháng 11 có ngày lễ gì

Ngày Thành Lập Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Việt Nam (18/11)

Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11)

Sự kiện nổi bật nhất tháng 11 gọi tên “Ngày Nhà giáo Việt Nam” hay còn được nhắc đến với tên gọi là Ngày Hiến chương Nhà giáo. Đây là dịp lễ được tổ chức vào ngày 20 /11 mỗi năm trải dài khắp nước Việt Nam tại các cơ sở, tổ chức giáo dục. 20/11 là dịp tri ân nhằm khuyến khích các em học sinh, sinh viên, cựu sinh viên bày tỏ lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc đến các nhà giáo, giáo viên, và người làm công tác giáo dục trong công cuộc truyền đạt kiến thức, hướng dẫn và định hình tương lai. Ngày Nhà giáo Việt Nam thường được tổ chức với nhiều hoạt động và sự kiện như trao tặng giải thưởng cho giáo viên có thành tích tốt trong việc “trồng người”, ca hát văn nghệ tri ân, tặng quà và gửi lời chúc đến thầy cô để tôn vinh sự cống hiến và nhiệt huyết của cô thầy đối với xã hội, mầm non, nhân tài mai sau của đất nước.

tháng 11 có ngày lễ gì

Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11)

Ngày thành lập Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (23/11) 

Tháng 11 có ngày lễ gì liên quan đến Y tế? Trong tháng 11 này có Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (Vietnam Red Cross Society) được thành lập vào ngày 23/11/1946. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam là tổ chức làm việc trong lĩnh vực cứu trợ, y tế, giáo dục, và các hoạt động nhân đạo khác giúp hỗ trợ cộng đồng, xã hội và những người cần sự trợ giúp. Hằng năm, vào ngày 23/11 Ngày kỷ niệm để tôn vinh giá trị và bày tỏ lòng biết ơn đến những con người đã cống hiến sức mình cho xã hội của Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam.

tháng 11 có ngày lễ gì

Ngày thành lập Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (23/11) 

Ngày Nam kỳ khởi nghĩa (23/11) 

Ngày Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Ngày Nam Bộ Khởi Nghĩa) là mốc son đánh dấu cho sự chiến thắng oanh liệt của quân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống lại chế độ thuộc địa Pháp. Vào ngày 20/11/1940 khi một số người dân tại Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) bắt đầu tổ chức các hoạt động kháng chiến chống lại ách thống trị tàn ác của bọn thực dân Pháp và mọi người thường nhắc đến ngày này như là một sự kiện để hoài niệm. Mốc son này là một trong những sự kiện quan trọng đầu tiên của phong trào đấu tranh cho độc lập và tự do của Việt Nam.

tháng 11 có ngày lễ gì

Ngày Nam kỳ khởi nghĩa (23/11) 

Lại nói về vấn đề “xã hội dân sự” và âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước

Thời gian gần đây, một số đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng việc Đảng ta tiến hành lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo các văn kiện phục vụ Đại hội XIII để đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến trái chiều, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Trong đó, các đối tượng tích cực cổ súy, ca ngợi, hình tượng hóa vấn đề “xã hội dân sự”, yêu cầu Đảng ta phải có cơ chế khuyến khích “xã hội dân sự” phát triển, coi đây là một chiêu bài để hiện thực hóa chiến lược “diễn biến hòa bình” tại Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng tại Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước trên thế giới cũng như tại chính Việt Nam cho thấy các thế lực thù địch, chống đối đã sử dụng chiêu bài “xã hội dân sự” để tiến hành các hoạt động chống phá, tấn công nhằm làm thay đổi tình hình chính trị của quốc gia. Thủ đoạn chống phá dưới chiêu bài “xã hội dân sự” đã tạo ra những hệ quả vô cùng nghiêm trọng, là nguồn gốc thai nghén ra các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, bạo loạn lật đổ chính quyền tại không ít nơi.

Khái niệm “xã hội dân sự” (Civil Society) có nguồn gốc từ phương Tây. Một cách đơn giản, “xã hội dân sự” được hiểu là những hoạt động tập thể tự nguyện, được hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân; tồn tại độc lập, dưới hình thức các tổ chức và thiết chế tự quản, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước, yếu tố thị trường và ngoài khu vực gia đình.

Tại Việt Nam, các tổ chức “xã hội dân sự” đang tồn tại dưới nhiều hình thức như: tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, nhân đạo, từ thiện, hữu nghị; các tổ chức cộng đồng theo dòng tộc, sở thích; các tổ chức dịch vụ công không phải do Nhà nước lập ra… Các tổ chức này hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự bảo đảm kinh phí, phi lợi nhuận, tuân thủ các quy định của pháp luật và tích cực phối hợp hoạt động với Nhà nước.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, các thế lực thù địch, chống đối, cơ hội chính trị đang bóp méo, biến tướng vấn đề về “xã hội dân sự”, coi việc hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” là bước đầu để tập hợp lực lượng, thái nghén, sản sinh ra các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản ngay trong lòng đất nước.

Điều này chúng ta có thể dễ dàng thấy được hoạt động của nhiều hội, nhóm núp bóng “xã hội dân sự” do các cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước thành lập, điều hành, như: “Hội anh em dân chủ”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội nhà báo độc lập”, “Tổ chức xã hội dân sự”, “Viet Liberty” (Việt Nam Tự do), “Nhà xuất bản tự do”, “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam”…

Đặc biệt, các đối tượng chống đối không chỉ đơn thuần thành lập các hội, nhóm dưới bóng “xã hội dân sự” trong lòng Việt Nam, hoạt động một cách độc lập, riêng rẽ, mà đã có sự móc nối, câu kết chặt chẽ với nhiều tổ chức quốc tế thường xuyên có hoạt động chống phá Việt Nam như RSF (Phóng viên không biên giới), AI (Ân xá quốc tế), VOICE (Sáng kiến thể hiện lương tâm người Việt hải ngoại)…

Dưới vỏ bọc “xã hội dân sự”, các đối tượng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại Việt Nam; hình thành các hội nhóm, tổ chức để tập hợp lực lượng, tiến hành huấn luyện, đào tạo các phương thức hoạt động; tạo dựng lực lượng chống đối trong lòng đất nước, tiến đến các cuộc bạo loạn lật đổ theo hướng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”.

Cần phải nhấn mạnh, “dân chủ” chỉ là vỏ bọc để các đối tượng đưa ra nhằm đánh lừa nhận thức của người dân. Mục tiêu của việc thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự” tại Việt Nam là tạo ra con đường để hình thành các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản một cách công khai, hợp pháp. Từ đó, các đối tượng đưa Việt Nam đi vào con đường đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với Nhà nước và xã hội.

Khi tiến hành chống phá dưới chiêu bài “xã hội dân sự”, trước nhất các đối tượng ra sức cổ súy tính ưu việt, sự dân chủ của “xã hội dân sự” để đánh lừa nhận thức của người dân, cũng như hạ bệ vai trò của hệ thống chính quyền. Thời gian vừa qua, trước tình hình mưa lũ diễn ra tại miền Trung, cùng với lực lượng Công an, Quân đội và các cơ quan chức năng, có thể thấy nhiều cá nhân, tổ chức thiện nguyện đã tích cực tiến hành các hoạt động giúp đỡ, cứu trợ, khắc phục hậu quả mà thiên tai đã gây ra cho đồng bào bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, bất chấp việc các cơ quan chức năng đang vào cuộc một cách mạnh mẽ và quyết liệt, một số đối tượng lại phủ nhận sạch trơn vai trò của hệ thống chính quyền. Không ít đối tượng lợi dụng việc làm từ thiện của một số cá nhân, tổ chức trong xã hội để so sánh, đổ lỗi, trách móc chính quyền.

Các đối tượng này cố tình hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; rêu rao luận điệu cho rằng các tổ chức “xã hội dân sự” hoạt động ưu việt và hiệu quả hơn nhiều so với các cơ quan công quyền. Từ đó, các đối tượng kích động sự hoài nghi, thiếu niềm tin vào Đảng trong một bộ phận quần chúng. Đặc biệt, không ít cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị cũng triệt để tận dụng vấn đề làm từ thiện trên để đánh bóng tên tuổi.

Đồng thời, các đối tượng tập trung tung ra luận điệu đòi tuyệt đối hóa sự “độc lập” của các tổ chức “xã hội dân sự”, đòi thúc đẩy thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức “xã hội dân sự”. Với lý do “bảo vệ sự dân chủ”, các đối tượng cho rằng cần có sự tách bạch một cách tuyệt đối giữa “công” và “tư”, giữa nhà nước và xã hội dân sự. Thậm chí, các đối tượng này còn đưa ra quan điểm cho rằng, các tổ chức “xã hội dân sự” chỉ cần hoạt động theo tôn chỉ, mục đích, thỏa thuận của những người lập ra nó mà không cần tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình tiến hành chống phá, các tổ chức chống đối núp bóng “xã hội dân sự” không chỉ hoạt động đơn lẻ, cá biệt, mà có sự câu kết, móc nối với các cá nhân, tổ chức phản động, chống đối ngoài nước để cùng tiến hành công kích dưới hình thức “nội công, ngoại kích”. Các thế lực thù địch, chống đối, phản động ở nước ngoài trở thành chỗ dựa về tinh thần, nguồn viện trợ về vật chất cho các tổ chức trong nước.

Ngoài ra, các thế lực này dưới nhiều thủ đoạn khác nhau cũng tiến hành gây sức ép, đòi chúng ta thay đổi đường lối, chính sách, pháp luật, tạo điều kiện, nền tảng thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức chống đối trong nước hoạt động. Dưới sự chống lưng giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các hội, nhóm trong nước trực tiếp tiến hành các hoạt động chống phá, tấn công chính quyền, trở thành nơi tập hợp những thành phần bất hảo, hình thành lực lượng đối lập, sẵn sàng tiến đến bạo loạn lật đổ theo hình thức “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”.

Thông qua hình thức “xã hội dân sự”, lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do đóng góp ý kiến, các đối tượng thúc đẩy tư tưởng “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hướng lái người dân hình thành tâm lý chống đối, phản kháng với chính quyền. Dưới danh nghĩa phản biện xã hội, đóng góp ý kiến, không ít đối tượng đã biến nó thành một diễn đàn để công khai các luận điệu xuyên tạc, công kích, chống phá chính quyền, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Chúng ta không kỳ thị, không ngăn cản việc người dân lập hội, tham gia các tổ chức “xã hội dân sự”. Điều 25, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tuy nhiên, tất cả các hội nhóm, đoàn thể đều phải tuân thủ nghiêm các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động núp bóng thành lập “xã hội dân sự” để sản sinh ra các hội, nhóm chống đối đều là vi phạm, cần phải chấn chỉnh, loại bỏ.

Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc tôn giáo để hình thành “Nhà nước Mông”

Để thực hiện âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch, phản động không ngừng gieo rắc niềm tin tín ngưỡng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhiều người Mông tại các tỉnh miền núi phía Bắc bị xúi giục, ép buộc, lừa mị tin theo cái gọi là đạo “Giê Sùa” với những luận điệu viển vông…

Trên thực tế, bản chất của các đối tượng này lập ra là nhằm lừa phỉnh, dụ dỗ, lôi kéo, tập hợp lực lượng phục vụ mưu đồ ly khai, tự trị, hình thành “Nhà nước” riêng, tách ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vậy tổ chức “Giê Sùa là gì”?

Có nguồn gốc ngoại sinh từ một người có quốc tịch Mỹ sáng lập và đưa vào Việt Nam; dựa vào Kinh thánh của Tin lành, lấy cơ sở để phát triển tổ chức “Giê Sùa”. Người sáng lập “Giê Sùa” là David Her tên thật là Hờ Chá Sùng, người Mông, gốc huyện Phon Xa Vẳn Xiêng Khoảng, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Hiện đang sinh sống tại Bang California, có quốc tịch Mỹ sáng lập ra.

 “Hội thánh Giê Sùa” không có giáo lý rõ ràng mà dựa vào một số câu trong Kinh thánh để tuyên truyền, cho rằng Tên Chúa Giê Su phải gọi là “Giê Sùa” và giải thích Giê Su là tên nhà cầm quyền La Mã cố tình viết sai để lừa mọi người. Tổ chức này đả kích, không thừa nhận các tôn giáo khác, cho rằng chỉ có “Giê Sùa” mới là tôn giáo có thật, chính thống, tôn giáo của tất cả người Mông. Hội thánh “Giê Sùa” không thừa nhận A-đam và E-Va trong Kinh thánh, thay vào đó là nhân vật chàng Ong và cô Ía theo truyền thuyết người Mông; không tổ chức lễ Giáng sinh, Phục sinh và coi đây là trò bịp bợm, vì lợi ích của nhà cầm quyền La Mã; không bắt buộc dâng hiến 10% thu nhập; kiêng ăn hịt lọn và một số loại cá không có vảy, cua, ốc…

z3132112091896_a270d3968b80e6f81cd4b3ca23e1c5a8.jpg -0
Đối tượng Hờ Chá Sùng.

 “Giê Sùa” chưa có giáo lý, giáo luật, hiến chương; tài liệu, kinh sách sử dụng là một số điều trong Kinh thánh (Tân ước và Cựu ước) và một số tài liệu do David Her tự soạn thảo, tán phát trên mạng Internet. 

Thường sinh hoạt vào thứ 7 hàng tuần, sinh hoạt với nội dung, hình thức gần giống với điểm nhóm Tin lành (hát thánh ca, chia sẻ lời Chúa, cầu nguyện). Tuy nhiên, một số nội dung giảng dạy trong kinh thánh khác với điểm nhóm Tin lành, tin vào việc Chúa tái lâm, không thừa nhận tên Chúa là Giê Su mà gọi là Giê Sùa. Bác bỏ ngày lễ trọng trong năm như lễ Noel, Lễ Phục sinh         

David Her đã thông qua mạng Internet để tán phát các video clip có nội dung tuyên truyền đạo “Giê Sùa” trên Wedsite WAVw… Trong thời gian hoạt động tại một số địa phương Tây Bắc, “Giê Sùa” đã có những hoạt động gây mất tình hình an ninh trật tự (ANTT) nơi nó du nhập vào. Các đối tượng lợi dụng, xuyên tạc một số câu trong Kinh thánh để tuvên truyền, lôi kéo người khác tin theo như “Không thừa nhận tên Chúa Giê Su như các tổ chức Tin lành khác như Giê Sùa và giải thích rõ ràng là do nhà cầm quyền La Mã cố tình viết sai để lừa gạt và đả kích mọi người. Trong một số bài tuyên truyền, đối tượng David Her còn cho rằng, Chúa trời Giê Hô Va đã chia đất cho người Mông nhưng do người Mông không đoàn kết không biết bảo vệ nhau nên đất đai bị các dân tộc khác xâm chiếm, cho nên người Mông mới không có lãnh thổ, đất nước riêng, suốt đời phải đi làm thuê cho dân tộc khác.

David Her nhận mình là người đưa tin của “Chúa Giê Sùa”; “Chúa Giê Sùa” tái lâm để bảo vệ người Mông, kêu gọi người Mông đi theo “Chúa Giê Sùa”, đồng thời kích động người Mông ở các nước vê Lào chiến đấu xây dựng “Nhà nước Mông”. Các nhóm tà đạo “Giê Sùa” trên địa bàn đã hình thành tổ chức, phân công vai trò, vị trí đối tượng trong nhóm và đang ráo riết tuyên truyên, lôi kéo người khác tin theo. Tuy nhiên, giữa các điểm nhóm bị ảnh hưởng chưa có sự liên kết, thống nhất với nhau hoạt động. Một số đối tượng lợi dụng giáo lý danh nghĩa của các hệ phái để che giấu việc tin theo tà đạo “Giê Sùa”.

“Giê Sùa” xuất hiện khoảng tầm 5 năm trở lai đây ở các địa phương vùng núi phía Bắc như: Điện Biên, Lai Châu, Thanh Hóa, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái. Chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn nhưng mức độ ảnh hưởng của “Giê Sùa” khá nhanh, mức độ ảnh hưởng rộng đến đồng bào dân tộc Mông; lôi kéo người dân tin theo nhằm mục đích xây dựng nhà nước riêng, kêu gọi người Mông đi theo “Chúa Giê Sùa”, đồng thời kích động người Mông ờ các nước về Lào chiến đấu để xây dựng “Nhà nước Mông” tại tỉnh Xiêng Khoảng. Theo con số thống kê các địa phương gửi báo cáo, hiện “Giê Sùa” hoạt động tại các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Thanh Hóa, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái. Mức độ lan nhanh ảnh hưởng đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số như đồng bào dân tộc Mông. Hiện nay, theo con số thống kê được của các địa phương có khoảng 1.297 người tin theo.

 

NHẬN THỨC VÊ SAI LỆCH XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ MỚI

Sau 37 năm đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực , đời sống của đại đa số nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, dưới tác động tiệu cực cuả nền kinh tế thị trường là những nhận thức và hành động của một bộ phận trong xã hội đi ngược lại chuẩn mực tiến bộ của đại đa số, các nhà xã hội học thường dùng là sai lệch xã hội. Vậy cần nhận thức đầy đủ về sai lệch xã hội là gì?

Sai lệch xã hội là sự vi phạm có nhận thức các tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng của một nhóm hay của xã hội các tiêu chuẩn văn hóa và kỳ vọng định dạng một dải rộng các hoạt động của con người nên khái niệm sự lệch lạc cũng mang nghĩa rộng tương ứng. Sai lệch xã hội là hành vi của các cá nhân hoặc nhóm người nào đó không phù hợp với những gì được coi là bình thưởng của cộng đồng, có nghĩa là hành vi đó đi chệch những gì mà số đông những người khác mong đợi ở họ trong những hoàn cảnh nhất định. Sự sai lệch xã hội là sự vi phạm các chuẩn mực hoặc các quy tắc đã được chấp nhận của một nhóm xã hội hay một xã hội nhất định.

Sai lệch xã hội, dù là về tư tưởng, thái độ hay trong hành vi, cũng đều chịu sự phán xử của hệ quy chiếu chính thống. Nó thường bị quy thành cái cá biệt, đáng bị chỉ trích, vì nó đụng chạm đến tâm thế xã hội, gây ra những hệ lụy khó kiểm soát. Có thể nhận thấy, những gì được coi là sai lệch, trên hết là một vấn đề được xác định về mặt xã hội bởi một cộng đồng xã hội hay một nhóm người bên trong cộng đồng đó.

Thực tế cũng cho thấy, sai lệch chịu sự chi phối bởi quyền lực, sự bất công trong xã hội. Chẳng hạn, có những hành vi giống nhau nhưng người không có quyền lực bị xem là lệch lạc và có thể chịu hình phạt, trong khi người có quyền lực thì không. Không những vậy, một hành vi có được coi là lệch lạc hay không tùy thuộc vào quan niệm của xã hội, vào cách mà người khác nhận thức tình huống. Sai lệch xã hội chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tiêu chuẩn văn hóa, một hành vi được coi là lệch lạc trong mối quan hệ với những tiêu chuẩn văn hóa cụ thể. Những tiêu chuẩn văn hóa rất khác nhau giữa các nền văn hóa, trong mỗi nền văn hóa cũng khác nhau ở các tiêu văn hóa..; hơn nữa tiêu chuẩn văn hóa còn thay đổi theo thời gian nếu quan niệm về sự lệch lạc cũng khác nhau và thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, chỉ những năm gần đây, ở Việt Nam, hút thuốc lá ở nơi công cộng được coi là hành vi lệch lạc, trong khi trước đó và là việc khá bình thường.

Như vậy, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hện nay, nhận diện đúng sai lệch xã hội để có biện pháp căn chỉnh kịp thời đối với mỗi thành viên và các nhóm xã hội trong một đất nước, một xã hội văn minh, hiện đại toàn cầu là quan trọng, cấp bách và cần thiết./.

 

BÀN VỀ QUAN ĐIỂM CHIẾN TRANH CỦA V.I.LÊNIN

 ĐỂ CÓ CÁCH NHÌN NHẬN VỀ CHIẾN TRANH THỰC TIỄN

TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 

Kế thừa và phát triển những tư tưởng tinh hoa nhân loại, các học giả tư sản và trực tiếp là những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chiến tranh, V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất đích thực của chiến tranh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh”, V.I.Lênin khẳng định: “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác” [1].

Để đạt được mục đích chính trị trong chiến tranh, các nhà nước, giai cấp sử dụng một công cụ, một phương tiện đặc biệt đó là bạo lực vũ trang (phương thức đặc thù của chiến tranh). Chiến tranh không đồng nhất với chính trị, nó chỉ là sự tiếp tục chính trị bằng thủ đoạn bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, là nội dung của chiến tranh, còn chiến tranh là một trong những phương thức tiến hành, thực hiện mục đích chính trị của các nhà nước và giai cấp. “Chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị từ đầu đến cuối, chỉ là sự tiếp tục thực hiện cũng những mục đích do cũng các giai cấp đó theo đuổi với những phương pháp khác mà thôi” [2]. Trong xã hội có giai cấp, những phương thức thực hiện mục đích chính trị phi vũ trang, như: đe dọa, mua chuộc, dụ dỗ, kinh tế, ngoại giao, bao vây, cấm vận… thì không phải là chiến tranh; chỉ có hành động bạo lực vũ trang mới là chiến tranh. Như vậy, những xung đột vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không phải là sự tiếp tục của chính trị, theo đó những xung đột vũ trang trong thời kỳ này không được gọi là chiến tranh.

Hiện nay, các thế lực phản động khi tiến hành chiến tranh thường tìm cách che đậy mục đích chính trị phản động của nó và xuyên tạc bản chất của chiến tranh với các chiêu bài như bao vây, cấm vận, viện trợ kinh tế và quân sự, kích động nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc, dân tộc..v.v.. để phát động các cuộc chiến tranh xâm lược. Theo V.I.Lênin, một cuộc chiến đấu hết sức ác liệt mà không có mục đích chính trị thì không thể gọi là chiến tranh mà chỉ là một trận đánh nhau mà thôi. Qua đó, V.I.Lênin còn chỉ rõ “Bản chất của chiến tranh - tức là cái quyết định trong chiến tranh, thể hiện thực chất của chiến tranh, thể hiện sự khác nhau về chất với trạng thái hòa bình của xã hội - là ở chỗ chiến tranh là sự kế tục chính trị của những giai cấp, nhà nước (khối liên minh) nhất định bằng thủ đoạn bạo lực, bằng đấu tranh vũ trang [3].

Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đã tác động đến nhiều nội dung, quan điểm về chiến tranh, về đối tượng, đối tác, về loại hình chiến tranh….Nhưng, vấn đề vừa có tính nguyên tắc, vừa là lập trường của người vô sản là sự khẳng định bản chất của chiến tranh mà V.I.Lênin đã chỉ ra vẫn còn nguyên giá trị, kể cả đối với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh hạt nhân. Song các thuộc tính trong bản chất của chiến tranh không phải là bất biến, mà nó có sự vận động và phát triển. Nên chúng ta phải nhận rõ mặt ổn định tương đối và mặt vận động biến đổi của nó, có như vậy mới phân tích đúng bản chất, mục đích của các cuộc chiến tranh trong thời đại hiện nay./.


[1]V.I.Lênin toàn tập, tập 26, “Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh” (1915), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 397.
[2] V.I.Lênin toàn tập, tập 32, “Chiến tranh và cách mạng” (1917), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 356.
[3]Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh và quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 18.
 

Xử lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh thời kỳ mới

 

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc nâng cao nhận thức, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; chú trọng xử lý hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

Nâng cao nhận thức, chú trọng xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu, có tính quyết định đối với thành công của việc đẩy mạnh thực hành dân chủ rộng rãi và thực chất trong Đảng và trong xã hội. Những quan điểm, luận điểm cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội cần được Đảng ta kiên định vận dụng sáng tạo trong giai đoạn mới. Muốn vậy, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra là phải tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, tạo cơ sở lý luận, khoa học vững chắc để nâng cao, thống nhất nhận thức và từ đó, có căn cứ tổ chức triển khai, xử lý hài hòa mối quan hệ này trong bối cảnh mới.

Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng, giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội; đồng thời, gia tăng đối thoại để mở rộng dân chủ.

Cần ra sức học tập, nắm vững nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ để vận dụng sáng tạo trong thực tiễn, tạo nên sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp và động lực phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Trước hết, Đảng phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng, vị trí, vai trò, ý nghĩa của mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng và xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình thực hành dân chủ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xã hội ngày càng văn minh.

Thực tế cũng cho thấy rằng, dân chủ luôn đi đôi với đối thoại, đặc biệt là đối thoại về những vấn đề được đảng viên, dư luận quan tâm, còn những ý kiến khác nhau. Theo đó, cần mở rộng các hình thức dân chủ, nhất là tăng cường đối thoại (cả trong Đảng và trong xã hội) để đi đến thống nhất, tạo sự đồng thuận trong nhận thức và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền thì đối thoại cởi mở và thực hành dân chủ rộng rãi luôn là phương thức, chiến lược quan trọng để có thể tận dụng, phát huy được trí tuệ của toàn Đảng và toàn thể nhân dân.

Thứ ba, nâng cao năng lực, hoàn thiện cơ chế thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong thực hành dân chủ, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội.

Muốn phát huy, mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng có hiệu quả và thực chất thì yêu cầu đặt ra cấp thiết hiện nay là, cần không ngừng tập trung nâng cao nhận thức, năng lực thực thi, củng cố, hoàn thiện cơ chế thực hành dân chủ trong Đảng để dân chủ “thấm sâu” và được thực hiện trong mọi hoạt động của Đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tiếp tục phát huy trách nhiệm nêu gương của các cấp ủy, người đứng đầu, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược về thực hành dân chủ trong Đảng và tại địa phương, cơ quan, đơn vị để nhân dân tin tưởng; tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội.

Trên cơ sở các quy định được Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành thời gian qua, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội quán triệt, cụ thể hóa, xây dựng thành các quy định cụ thể về nêu gương thực hành dân chủ sao cho sát hợp với chức năng, chức trách, nhiệm vụ của từng tổ chức, lực lượng và mỗi cán bộ, đảng viên trên từng cương vị công tác; qua đó, tạo thành phong trào thực hành dân chủ sâu rộng, hiệu quả, thiết thực, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; rà soát, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả trong toàn hệ thống chính trị, đi đôi với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mớí, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu. Ở đây, cần chú ý “đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ, chính quyền các địa phương… với các cơ quan, đơn vị của Đảng, Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, hệ thống các cơ quan tư pháp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; bảo đảm cả hệ thống tổ chức bộ máy luôn luôn vận hành một cách đồng bộ, thống nhất”.

 Thứ năm, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội; nhanh chóng nhận diện và giải quyết kịp thời những rào cản, “điểm nghẽn” nảy sinh để có thể xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ này trong thực tế.

Thời gian qua, tuy dân chủ trong Đảng và trong xã hội đã được mở rộng, quá trình thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận; nhưng có lúc, có nơi vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và người dân chưa nhận thức và thực hành dân chủ đầy đủ, làm cho mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội chưa gắn kết và được xử lý hài hòa. Do vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải tiến hành khảo sát kỹ lưỡng, tổng kết thực tiễn thực hành dân chủ, thường xuyên tìm tòi, phát hiện và đúc kết, hoàn thiện các hình thức thực hiện dân chủ, kể cả dân chủ đại diện lẫn dân chủ trực tiếp. Nhanh chóng nhận diện những rào cản, nguy cơ… gây cản trở hoặc có tác động tiêu cực tới mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội; đặc biệt là, tập trung khắc phục tình trạng một số đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý buông lỏng nguyên tắc tập trung dân chủ, có biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền, gây bức xúc dư luận xã hội và nhân dân; đề cao cảnh giác trước các hành vi lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn, dân chủ cực đoan, “bất tuân dân sự” đe dọa đến trật tự, kỷ cương, pháp luật, gây bất ổn đến trật tự, an ninh, an toàn xã hội.

Thứ sáu, phát huy vai trò chủ thể, tinh thần tích cực, chủ động của nhân dân tham gia góp ý xây dựng, kiểm tra, giám sát quá trình dân chủ hóa trong Đảng và hệ thống chính trị; tăng cường vai trò của báo chí, truyền thông đối với quá trình thực hành dân chủ trong Đảng và xã hội. 

Hoàn thiện cơ chế để bảo đảm quyền tham gia ý kiến trực tiếp của người dân trong hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật; quyền giám sát trực tiếp của cộng đồng tại cơ sở đối với những vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân, theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”; thực hiện có hiệu quả Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy vai trò của báo chí, truyền thông, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong phản biện và giám sát xã hội, trong đó có phản biện và giám sát quá trình thực hành dân chủ trong Đảng và xã hội. Báo chí cần thực hiện nhiệm vụ là kênh thông tin hữu ích giúp Đảng, Chính phủ lãnh đạo, điều hành và quản lý tốt hơn các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất là lên án, đấu tranh chống lại các biểu hiện vi phạm dân chủ, những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, góp phần tăng cường hiệu quả thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

Thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội bằng và thông qua việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị… để tăng cường vị thế, vai trò chủ thể xã hội của nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, thực hành dân chủ trong Đảng. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện ở nước ta hiện nay, “dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”.

HAIVAN

Định hướng chủ yếu về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội

 

Một là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội đều phải hướng tới vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, là cơ sở để hình thành những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Đây là điểm chung, thống nhất đối với cả thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, là luận điểm quan trọng, xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bởi lẽ, không có dân chủ thì chắc chắn là sẽ không có chủ nghĩa xã hội. 

Thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, nền dân chủ ở nước ta vừa mang bản chất tiến bộ của dân chủ xã hội chủ nghĩa, vừa kế thừa những giá trị mang tính phổ quát của nhân loại trong lịch sử, đồng thời không ngừng gia tăng thêm những giá trị mới; qua đó, dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra ngày càng nhiều hơn, đầy đủ hơn những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực, tiềm năng sáng tạo vô tận của con người. Chính vì nhận thức được ngày càng sâu sắc vai trò đó của dân chủ, nhất là trong mối quan hệ biện chứng với công bằng, nên Đảng ta đã xác định và đưa dân chủ trở thành một trong những thành tố quan trọng, mang giá trị cốt lõi trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hai là, gắn quá trình tăng cường thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội với công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ vai trò của Nhà nước và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là thúc đẩy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mỗi công dân trong thực hành dân chủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của Nhà nước trong thực hành dân chủ: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Điều kiện có tính quyết định nhất để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là Đảng phải lãnh đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dân chủ trong Đảng quyết định dân chủ trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, gắn liền với quá trình thực hành dân chủ trong xã hội. Bởi lẽ, trong các cơ quan nhà nước có tổ chức đảng thì cán bộ chủ chốt đều là đảng viên. Do vậy, Đảng phải thông qua bộ máy nhà nước, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối thành các chính sách, quy định, pháp luật; tăng cường quản lý, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điều 28 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

Ba là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội đều phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; giữ nghiêm kỷ luật Đảng và bảo đảm kỷ cương xã hội.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân chủ” luôn phải gắn với “kỷ cương”, thực hành dân chủ trong Đảng phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong mọi hoạt động của Đảng; vì vậy, Người cũng thẳng thắn chỉ rõ “căn bệnh” dân chủ tùy tiện, dân chủ quá trớn, dẫn tới coi thường kỷ luật đảng ở một số cán bộ, đảng viên: “Ở trong Đảng thì không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt lờ kỷ luật và chính sách của Đảng và của Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình”. Kế thừa tư tưởng này, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh và yêu cầu thực hành dân chủ trong Đảng phải “gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, một xã hội không thể ổn định và phát triển nếu thiếu pháp luật và sự tuân thủ pháp luật của công dân; theo đó, thực hành dân chủ trong xã hội cũng không thể tách rời với quá trình tăng cường kỷ cương xã hội. Theo Người, xã hội dân chủ là một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho mọi người cùng có quyền tự do, dân chủ như nhau. Do đó, thời gian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để phát huy dân chủ và thực hành dân chủ gắn với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội; yêu cầu “xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”. Qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận 35 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ lớn thứ mười trong các mối quan hệ lớn, cần được chú trọng nắm vững và xử lý tốt trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 và các giai đoạn tiếp theo.

Bốn là, gắn kết chặt chẽ, xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội là nhằm hướng tới, tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong điều kiện mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta là một nước dân chủ và đó là nền dân chủ mới, cần có quá trình phát triển, hoàn thiện lâu dài để đi lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa và kiên định vận dụng sáng tạo những luận điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ trong điều kiện mới; nhận thức rõ vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thực hành dân chủ, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống ở mỗi cấp và tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.

Đảng ta không chỉ xác định vai trò, vị thế chủ thể mọi quyền lực nhà nước của nhân dân, mà còn khẳng định bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phải làm cho nhân dân được hưởng quyền làm chủ, có đủ năng lực làm chủ trên thực tế và khi đó, dân chủ trở thành động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Theo đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Trước tình hình thế giới và trong nước biến động nhanh và khó lường như hiện nay, việc kiên định vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững, hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

HAIVAN

Thực trạng mối quan hệ thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội

 

Với hơn 93 năm, dù phải đối diện nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi trọng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, vừa phát huy dân chủ, tôn trọng đóng góp của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể, duy trì sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng, nỗ lực thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị được nhân dân tin tưởng giao phó. Kế thừa và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ, Đảng ta tập trung nâng cao nhận thức, mở rộng thực hành dân chủ và đã đạt được những kết quả tích cực. Sự ra đời của Quy chế chất vấn trong Đảng và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng đã làm gia tăng tính dân chủ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, công tác cán bộ cũng đã được chú trọng hơn, với yêu cầu phải tiến hành theo những quy trình, quy định, các bước chặt chẽ, công khai, dân chủ, minh bạch; đặc biệt, công tác bầu cử với những quy định mới bước đầu tạo ra sự công bằng về cơ hội, tạo niềm tin, động lực phấn đấu cho chính đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Cùng với đó, việc thực hành dân chủ nói chung, Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở nói riêng đã góp phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân trong tham gia bàn thảo, góp ý vào những quyết định, chính sách phát triển của địa phương, đất nước. Đặc biệt, nhân dân đã tích cực góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Dân chủ trong Đảng được tăng cường, dân chủ trong xã hội được mở rộng hơn, tạo ra sự tương tác tích cực, thúc đẩy lẫn nhau. Những kết quả đáng ghi nhận trong thực hành dân chủ đó đã giúp tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển, do nhân dân cùng với Đảng, chính quyền bàn bạc, tìm cách giải quyết có hiệu quả, như vấn đề bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư khi triển khai thu hồi đất để thực hiện các công trình, dự án của Nhà nước; vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh… Bầu không khí dân chủ khởi sắc đã tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực, góp phần đưa đất nước ta vượt qua khó khăn, thách thức, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; bảo đảm quốc phòng, an ninh; góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế.

Những hạn chế, yếu kém cần nhận diện rõ và nhanh chóng khắc phục

Thực tế cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn tồn tại những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình xử lý, hài hòa hóa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu quả như mong muốn, đã ảnh hưởng tới quy mô, chất lượng thực hành dân chủ trong xã hội; thậm chí, có lúc, có nơi còn gây cản trở quá trình dân chủ hóa trong xã hội. Một mặt, có khá nhiều chủ trương của Đảng về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa kịp thời và khi thực hiện thì còn nhiều hạn chế, yếu kém, đã dẫn tới việc quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Mặt khác, cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực chưa được hoàn thiện, quyền lực của các cơ quan nhà nước vẫn rất lớn và một số công chức nhà nước đã lợi dụng quyền lực được giao để gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân, trục lợi cá nhân, hướng lái chính sách để phục vụ cho “lợi ích nhóm”, doanh nghiệp “sân sau”, “thân hữu”, gây bức xúc dư luận.

Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng có lúc, có nơi chưa nghiêm, còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới” hoặc “trên nóng, dưới lạnh”. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên có mặt còn thiếu chặt chẽ; nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế thực sự hữu hiệu để bảo vệ người dám đấu tranh, phê bình. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa quan tâm, nhận thức khá hời hợt, phiến diện về dân chủ và thực hành dân chủ; thường rơi vào hai thái cực: Hoặc cho rằng dân chủ là quyền muốn làm gì, phát ngôn thế nào cũng được, không tuân thủ các quy định, kỷ luật của Đảng hoặc thờ ơ, coi thực hành dân chủ chỉ là nhiệm vụ của lãnh đạo cơ quan, đơn vị, không liên quan đến mình. Nhiều cán bộ, đảng viên chưa nhận thấy dân chủ là quyền lợi thiết thân, còn có biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, né tránh, không dám đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình khi gặp phải những vi phạm, mất dân chủ. Ở một số nơi, người đứng đầu thường có tâm lý coi nhẹ, phó mặc cho cấp dưới trong thực hiện phát huy dân chủ tại địa phương, cơ quan, đơn vị, không sâu sát, thiếu tâm huyết với nhiệm vụ quan trọng này. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, một trong những hạn chế của thực hành dân chủ là do vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được quan tâm phát huy đầy đủ, quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Khi dân chủ không được thực hành rộng rãi trong Đảng, còn biểu hiện độc đoán, chuyên quyền… tất yếu sẽ dẫn đến việc coi nhẹ, thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và hệ lụy là, dân chủ trong xã hội cũng bị kìm hãm, hạn chế. Bên cạnh đó, trong xã hội vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân lợi dụng “dân chủ” để đưa ra những đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật… với các cơ quan công quyền, có thái độ coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật.

HAIVAN

Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Thứ nhất, thực hành dân chủ trong Đảng là “hạt nhân”, tạo động lực, điều kiện và nêu gương để thực hiện, phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội; đồng thời, thực hành dân chủ trong xã hội là điều kiện cần thiết để củng cố, tạo môi trường, xung lực cho thực hành dân chủ trong Đảng.

Thực hành dân chủ trong Đảng và phát huy dân chủ trong xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua, luôn bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Tuy nhiên, chỉ có tăng cường thực hành dân chủ trong Đảng rộng rãi, thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương thì mới có thể tiến hành mở rộng và phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội, vì Đảng ta giữ vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và toàn xã hội. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ trong công tác, để tạo điều kiện cho mỗi người và quần chúng nhân dân nhiệt thành phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công việc. 

Quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân; Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội, là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Thực hành dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định, tạo động lực cho thực hành dân chủ đầy đủ trong toàn xã hội. Người chủ trương xây dựng các tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh để bảo đảm dân chủ và thực hành dân chủ có hiệu quả, thực chất trong xã hội. Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội”.

Thực tế cho thấy, khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, luôn xuất hiện các nguy cơ thoái hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân… của một bộ phận cán bộ, đảng viên và điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, trù liệu từ rất sớm. Do vậy, trước tiên, Đảng cần phải kiên quyết chống mọi biểu hiện, hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng dưới mọi hình thức, như dân chủ hình thức, độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng, lạm dụng chức quyền, bất chấp các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để trục lợi cá nhân, hoặc chỉ phục vụ cho “lợi ích nhóm” tiêu cực.

Dân chủ trong Đảng là tấm gương phản chiếu dân chủ trong xã hội; vì vậy, nếu dân chủ trong xã hội chỉ là hình thức, chiếu lệ hay sự mất dân chủ diễn ra tràn lan thì khó có thể nói đến dân chủ thực sự trong Đảng. Bởi lẽ, thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội sẽ tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, “bầu không khí” cần thiết và là sự thôi thúc cho thực hành dân chủ trong Đảng. Và rõ ràng, chỉ trên nền tảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì dân chủ trong nội bộ Đảng mới càng có thêm sinh lực, sức sống, phản ánh được thực tiễn xã hội phong phú; tập trung, phát huy được trí tuệ của toàn dân tộc và nhờ đó mà Đảng ngày càng được củng cố, vững mạnh hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh mới, để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội còn góp phần tạo dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo điều kiện tiên quyết để nhân dân có thể tiến cử những người có đủ đức, đủ tài, có tâm huyết, trách nhiệm với đất nước, không bỏ sót nhân tài, kể cả nhân tài ngoài Đảng. Chỉ có dựa vào nhân dân, gắn với quá trình dân chủ hóa xã hội thực sự, thì mới có điều kiện phát hiện, thu hút, tuyển dụng, sử dụng và trọng dụng được nhân tài trong xã hội cho Đảng, góp phần vào thực hiện có hiệu quả, dân chủ, công khai, minh bạch, công tâm công tác cán bộ của Đảng - “nhiệm vụ then chốt của then chốt” trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.

Thực hành dân chủ trong xã hội vừa là “chìa khóa” để giải quyết được những khó khăn, thách thức ngày càng nhiều hơn trước, vừa góp phần thúc đẩy tính tích cực, chủ động của nhân dân; khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

Thứ hai, thực hành dân chủ trong Đảng là cơ sở để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng.

Chính vì nhận thức rõ vai trò, sức mạnh to lớn của dân chủ nói chung mà trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự gắn bó chặt chẽ giữa dân với dân chủ, dân chủ với dân vận và công tác dân vận, dân chủ với đại đoàn kết toàn dân tộc để tạo nên sức mạnh to lớn nhằm thực hiện và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Do đó, theo Người, phải đẩy mạnh thực hành dân chủ, vì có dân chủ mới có đồng thuận xã hội; dân chủ và đoàn kết phải đi liền với nhau thì mới tạo ra sự đồng thuận xã hội - tiền đề để phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Đặc biệt, Người nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo… Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên giá trị thời sự. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng thì mới tạo nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc củng cố và phát triển, tăng cường sự đồng thuận xã hội và sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, chế độ và nhờ đó, cách mạng Việt Nam mới vượt qua được muôn vàn khó khăn, thách thức; đạt được nhiều thành tựu to lớn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cả trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước hiện nay.

Thứ ba, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội đều tạo sinh lực cho sự ra đời những sáng kiến, tinh thần hăng hái đổi mới, sáng tạo, khắc phục tư duy bảo thủ, giáo điều, sự trì trệ cả trong Đảng và trong xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”. Rõ ràng, chỉ khi phát huy và thực hành được dân chủ rộng rãi thì đảng viên, quần chúng nhân dân mới đề xuất được nhiều sáng kiến, hăng hái trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhận thấy rõ đoàn kết, sáng kiến và sự nhiệt huyết của cán bộ cũng như của nhân dân chính là kết quả của dân chủ, nên Người yêu cầu “phải thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”. Theo Người, một khi có dân chủ thực sự thì mỗi người dân sẽ dám nói, dám nghĩ, dám làm, dám đề xuất những sáng kiến tâm huyết của mình; đồng thời, người cán bộ, đảng viên mới có gan dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Có dân chủ thì sẽ khắc phục được thói áp đặt, quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tránh được tư duy bảo thù, trì trệ và mọi người có được quyền tự do tư tưởng, tự do thảo luận và khi ấy, tự do tranh luận, thảo luận lại chính là quyền tự do phục tùng chân lý. Do vậy, Người nhấn mạnh, điểm cốt lõi về thực hành dân chủ ở đây còn là và chính là “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.

HAIVAN