KHỞI NGHĨA CAI KINH: NIỀM TỰ HÀO XỨ LẠNG
Cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp đánh
chiếm nước ta, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra, trong đó có cuộc
khởi nghĩa của đồng bào dân tộc thiểu số ở hai tỉnh Lạng Sơn và Bắc Giang do
Hoàng Đình Kinh lãnh đạo (1882 – 1888). Cuộc khởi nghĩa đã làm chủ được một
vùng rộng lớn, gây được tiếng vang trong thời kì này. Mặc dù cuộc khởi nghĩa chỉ
kéo dài trong 7 năm và cuối cùng thất bại nhưng cũng gây cho thực dân Pháp nhiều
tổn thất đồng thời làm chậm bước tiến của thực dân Pháp ở vùng thượng du Bắc
Kì. Hoàng Đình Kinh đã được tôn vinh và ghi nhận như một nghĩa sĩ trong phong
trào Cần Vương chống Pháp ở Việt Nam.
Cai
Kinh tên thật là Hoàng Đình Kinh. Ông sinh ra và lớn lên tại xóm Ao, thôn làng
Thượng, xã Hòa Lạc thuộc tổng Thuốc Sơn, châu Hữu Lũng, phủ Lạng Thương, tỉnh
Bắc Giang (nay thuộc xã Cai Kinh, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn) trong một gia
đình khá giả, cha là Hoàng Đình Khoa làm cai tổng Thuốc Sơn. Sau khi cha mất,
ông được thăng làm cai tổng nên có tên gọi là Cai Kinh.
Tài
liệu sử cho hay, từ nhỏ, ông đã sớm biểu lộ nghĩa khí, thường bênh vực dân
lành. Trong một lần, thổ phỉ nhà Thanh tràn sang cướp bóc, ông đứng ra phản
kháng, bị chúng cắt đứt một bên vành tai. Lớn lên, ông tập hợp thanh niên trong
vùng tập luyện võ nghệ, tổ chức đánh thổ phỉ, bảo vệ dân làng.
Do
có công đánh dẹp thổ phỉ, giặc cướp trong vùng, bảo vệ dân cùng với chỉ dụ của
triều đình nên sau này, Cai Kinh được thăng làm tri huyện Hữu Lũng.
Sử
sách chép lại rằng, năm 1862, ông tham gia cuộc nổi dậy của Cai Vàng chống lại
nhà Nguyễn. Sau khi lực lượng bị giải tán, ông sang Vân Nam (Trung Quốc) chiêu
tập binh mã, rồi đem bộ hạ về nước cát cứ vùng rặng núi miền thượng du sông
Thương, với căn cứ ở núi Đồng Nãi, kiểm soát một vùng rộng lớn ở phủ Lạng
Thương.
Ông
tổ chức đội quân rất có quy củ nên gây được thanh thế lớn. Bấy giờ, nhà Nguyễn
mất hẳn Nam Kỳ vào tay người Pháp và đang hạ mình khi bị Pháp đe dọa ở Bắc Kỳ.
Một mặt, triều đình chủ trương tránh cho quân chủ lực giao chiến với quân Pháp;
mặt khác, chiêu dụ các đội quân cát cứ tấn công quân Pháp, đặc biệt là quân Cờ
đen của Lưu Vĩnh Phúc, thậm chí cho quân Thanh vào tham chiến. Hậu quả của
chính sách tai hại này là triều đình yếu thế về ngoại giao, mất quyền kiểm soát
địa phương và làm mất lòng tin của dân chúng.
Bất
chấp chủ quyền của Đại Nam, tháng 6/1883, quân Pháp ngang nhiên thực hiện chiến
dịch Bắc Kỳ nhằm chống lại các đội quân địa phương của Việt Nam, quân Cờ đen,
đội quân Quảng Tây và Vân Nam của nhà Thanh, với mục tiêu chiếm đóng Bắc Kỳ và
giữ vững sự bảo hộ của Pháp tại đó. Bấy giờ, Cai Kinh được triều đình chiêu dụ,
phong chức tri huyện Hữu Lũng, được tướng nhà Thanh cấp bằng Tán tương quân vụ,
thường xuyên hợp quân đánh Pháp.
Tháng
3/1884, sau khi chiếm được thành Bắc Ninh, Pháp đưa một cánh quân định thừa
thắng chiếm luôn Lạng Sơn. Khi tiến đến Hữu Lũng thì bị nghĩa quân Cai Kinh
phục kích chặn đánh quyết liệt nên phải rút về Bắc Ninh.
Nhằm
tránh cuộc xung đột giữa hai bên, quân Pháp và nhà Thanh đã ký kết bản quy ước
ngày 11/6 có 5 khoản, trong đó có khoản nhà Thanh phải rút toàn bộ quân khỏi
Bắc Kỳ. Nhân cơ hội này, Pháp gây áp lực để ký kết hiệp ước mới với triều đình
nhà Nguyễn, gọi là Hòa ước Giáp Thân 1984 vào ngày 6/6/1984 với mục đích phân
chia nước ta làm 3 kỳ, nhằm xoa dịu sự căm phẫn của nhân dân, đồng thời cắt đứt
mối quan hệ giữa nhà Nguyễn và triều Thanh.
Sau
khi hòa ước được ký kết, quân Pháp phái trung tá Dugenne dẫn quân từ phủ Lạng
Thương kéo lên tiếp quản các thành Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng, do quân
Thanh triệt thoái. Không chấp nhận sự đầu hàng nhục nhã, nghĩa quân của Cai
Kinh đã phối hợp với cánh quân chống Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiên, Phạm
Huy Quang phục kích đánh một trận quyết liệt ở cầu Quan Âm - Sông Hóa. Ngày
22/6, đoàn quân Pháp từ đồn Bắc Lệ đến bờ sông Hóa (một nhánh của sông Thương),
cách cầu Quan Âm khoảng 8 dặm thì bị chặn lại. Ở phía bên kia cầu, quân Thanh
và quân khởi nghĩa người Việt, trong đó có cả quân Cai Kinh, đóng giữ. Ngày 23,
khi quân Pháp cố vượt sông, giao tranh nổ ra. Đến ngày 26, quân Pháp đành phải
mở đường máu rút về Bắc Lệ. Cai Kinh tổ chức cho quân tấn công đồn Bắc Lệ, bắt
được 1 quan hai, 1 quan một và 6-7 lính.
Sau
trận đánh này, uy thế quân Cai Kinh lên cao. Nhiều cánh nghĩa binh hội quân với
ông, trong đó có cánh nghĩa binh của Trương Văn Thám, chính là Hoàng Hoa Thám
(tức Đề Thám) sau này.
Năm
1885, quân Pháp theo đường Chũ, Đình Lập đánh chiếm được Lạng Sơn. Tuy nhiên,
nghĩa quân Cai Kinh hoạt động ở Lạng Sơn phối hợp với nghĩa quân Hoàng Hoa Thám
ở Bắc Giang làm cho quân Pháp nhiều phen nguy khốn, chậm kế hoạch mở công
trường đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn.
Cuối
năm 1885, quân Pháp tăng cường đánh chiếm nhiều nơi của tỉnh Lạng Sơn, nghĩa
quân Cai Kinh chuyển vào vùng Tam Yên - Hữu Lũng làm căn cứ và xuất quỷ nhập
thần đánh địch ở khắp nơi. Suốt 2 năm 1885 - 1886, các tướng của nghĩa quân Cai
Kinh là Cai Bình, Cai Hai (em Cai Kinh), Hoàng Quế Thọ (ở Bình Gia), Hoàng Thái
Nam và Hoàng Thái Nhân (ở Bắc Sơn)... đã đánh địch liên tục từ phủ Lạng Thương,
Mai Sao, Than Muội, Đồng Đăng và đèo Tam Keng (Bắc Sơn)... làm cho quân Pháp
mất ăn mất ngủ và tổn thất nặng nề.
Bước
sang năm 1887, quân Pháp mở nhiều cuộc tấn công quy mô lớn vào trung tâm căn cứ
nghĩa quân nhưng không đem lại kết quả. Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở,
nghĩa quân đã đánh nhiều trận, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Tháng 12/1887,
trong một cuộc càn quét vào căn cứ nghĩa quân, tên trung tá Dugenne nổi tiếng
tàn bạo, hiếu chiến đã bị một toán nghĩa quân Cai Kinh do thủ lĩnh Hoàng Quế
Thọ chỉ huy bắn chết tại đèo Keng Dàn, xã Trấn Yên, Châu Bắc Sơn.
Không
khuất phục được Cai Kinh bằng vũ lực, thực dân Pháp hèn hạ dùng thủ đoạn mua
chuộc, chia rẽ hàng ngũ nghĩa quân, cài người vào nghĩa quân làm phản. Tổng Côn
vốn có tư thù với Hoàng Đình Kinh, lại ham tiền của, đã cấu kết với Pháp thực
hiện âm mưu hèn hạ này.
Sau
nhiều năm nếm mật nằm gai, chiến đấu kiên cường chống giặc, người thủ lĩnh
nghĩa quân Hoàng Đình Kinh phải đối diện với nhiều khó khăn, bất trắc; trước
mặt là kẻ thù xâm lược, sau lưng bị thủ hạ thân tín làm phản, những năm tháng
cuối đời ông phải thay hình đổi dạng, di chuyển chỗ ở để tránh sự truy bắt gắt
gao của chính quyền thực dân.
Cuối
cùng thực dân Pháp cũng bắt được ông ở biên giới Việt - Trung và đem về xử tử.
Hoàng Đình Kinh đã anh dũng hy sinh ngày 6/7/1888.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét