Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2019

SỨC MẠNH VIỆT NAM! Kỷ niệm truyền thống lực lượng DQTV (28/3/1935 - 28/3/2019)

Thư Hồ Chủ tịch gửi nam nữ chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích toàn quốc (27-5-1947)

Tôi thay mặt chính phủ và toàn thể đồng bào gửi lời khen ngợi các chiến sĩ.

Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã.

Các chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích ở Nam Bộ, ở Thủ đô, ở miền duyên hải và ở các nơi, đã chứng rõ sự thực đó một cách rất anh hùng. Từ đây về sau, lực lượng ta càng ngày càng vững, kinh nghiệm ta càng ngày càng nhiều thì ta càng tỏ cho địch quân biết, tỏ cho thế giới biết rằng dân quân, tự vệ và du kích Việt Nam là những người ái quốc sắt đá, là những chiến sĩ anh hùng.

Nhưng chúng ta không tự mãn tự túc, không kiêu ngạo, chúng ta phải luôn luôn thực hành mấy điều này:

1. Trong bộ đội phải đồng cam cộng khổ. Phải giữ kỷ luật, phải siêng tập tành, phải giữ bí mật, luôn luôn cẩn thận, lúc có địch cũng trấn tĩnh như không địch, lúc xa địch cũng nghiêm ngặt như gần địch;

2. Đối với dân – phải bảo vệ dân, phải giúp đỡ dân, phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu;

3. Đối với công việc – phải lập làng kháng chiến khắp nơi, phải luôn tích cực hành động;

4. Đối với địch – phải kiên quyết, dũng cảm. Phải có kế hoạch, mưu trí, phải hữu tiến vô thoái, phải thi đua nhau trong việc sát giặc, cướp súng, v.v.. Song đối với tù binh thì phải ưu đãi họ.

Hỡi chiến sĩ yêu quý, tôi nhắc các chiến sĩ kiên quyết làm đúng những điều đó, tôi chắc trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất độc lập chắc chắn sẽ thành công.

Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 27 tháng 5 nǎm 1947
HỒ CHÍ MINH

“Gắp lửa bỏ tay người"

Trong lịch sử tôn giáo Việt Nam, Phật giáo gắn bó lâu đời với dân tộc, con người Việt Nam và có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức tốt đẹp cho xã hội và góp phần củng cố, vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, vụ việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để truyền bá mê tín dị đoan và trục lợi ở chùa Ba Vàng vừa qua là một điều đáng tiếc. Thực tế cho thấy, nghi thức “thỉnh vong”, “cúng oan gia trái chủ” do một vài cá nhân duy trì tổ chức trong thời gian qua ở chùa Ba Vàng là sai cả về giáo lý, đạo lý, không phù hợp với truyền thống văn hóa tôn giáo tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Liên quan đến vụ việc, chính quyền TP Uông Bí đã tạm dừng các hoạt động sai trái này. Cá nhân sai phạm bước đầu bị xử phạt vì vi phạm nếp sống văn hóa và đối tượng này đang bị cơ quan chức năng tiếp tục điều tra, sớm đưa ra kết luận những sai phạm để có hình thức xử phạt phù hợp, đúng luật. Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam khu vực phía Bắc cũng đề xuất tạm đình chỉ mọi chức vụ đối với cá nhân trụ trì chùa Ba Vàng.

Việc xử lý bước đầu đối với cá nhân liên quan đến sai phạm ở chùa Ba Vàng là hoàn toàn có cơ sở. Vì một trong những nội dung của Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 có quy định nghiêm cấm hành vi “Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”. Đông đảo tăng ni, phật tử cả nước và dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ với sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương, nghiêm túc của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng và Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Sự thật rõ ràng, minh bạch là vậy. Thế nhưng, lợi dụng mạng xã hội, một số kẻ có thái độ thâm thù với chính quyền, chế độ nhân cơ hội này đưa ra những thông tin, bình luận lệch lạc, xảo trá. Các đối tượng không chỉ cho rằng “nguồn cơn của sự tha hóa và biến tướng trong Phật giáo là do chính quyền Hà Nội thao túng Phật giáo” (!); “đó là điều tất yếu xảy ra và không bao giờ dừng lại” vì “chế độ độc đảng hiện hành” (!); mà có kẻ lại “làm thơ” với những câu từ trơ trẽn, đơm đặt và kích động.

Không cần bình luận thêm, bởi bản thân những lời lẽ trên đã lộ rõ chân tướng của những kẻ “ngồi lê mách lẻo” bên bàn phím, hằng ngày hằng giờ chỉ biết mải mê tìm kiếm một số thông tin bất cập, tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội rồi quy chụp mọi điều xấu xa, tội lỗi đều do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra! Cái trò gian giảo, “gắp lửa bỏ tay người” này tuy không mới, nhưng luôn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chứng tỏ âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam của các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, phản động ngày càng quyết liệt.

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của người dân, giữ gìn thanh danh của đạo Phật

Thực ra không phải bây giờ mà từ lâu các thế lực thù địch, phản động luôn coi vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những trọng điểm của âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, khi có điều gì đó liên quan đến các tôn giáo, các đối tượng luôn tìm mọi cách để biến “đốm lửa nhỏ” thành “ngọn lửa to” nhằm thu hút sự quan tâm của một số cơ quan, tổ chức, lực lượng vốn không có thiện chí với Việt Nam để cùng nhau “đồng thanh tương ứng” xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Mặc dù vụ việc xảy ra ở chùa Ba Vàng là do bản thân một số người lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, trục lợi chứ không phải do sự tác động của chính quyền; nhưng do sự hiềm khích với chính quyền đã “ăn sâu” vào máu của những kẻ chống phá nên chúng chẳng tìm ra được căn cứ, bằng chứng gì thì cứ nói theo kiểu “lấp liếm, lu loa” để đánh lạc hướng dư luận và làm “mồi nhử, thả thính” đối với người nhẹ dạ cả tin! Do vậy, thủ đoạn này không thể xem thường.

Đảng, Nhà nước Việt Nam nhiều lần khẳng định, tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước không chỉ tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; mà còn luôn tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng. Đồng thời, pháp luật cũng nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi đôi với tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức tôn giáo trong nước hoạt động đúng giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức và trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật, là điều bình thường đối với bất cứ nhà nước, chính quyền nào. Mỗi người thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn liền với thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của công dân.

Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, những năm qua, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều có tinh thần dân tộc, yêu nước, gắn bó với Tổ quốc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo và đời, giữa giáo lý, giáo luật và pháp luật. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Phật giáo Việt Nam nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng đã có nhiều đóng góp về mặt văn hóa cho xã hội. Tuy Phật giáo không thể làm thay các chức năng thuộc về thể chế xã hội, nhưng có thể góp phần điều chỉnh khả năng nhận thức, khuyến khích điều thiện và ngăn chặn cái ác, lòng tham, qua đó góp phần xây dựng nền tảng đạo đức xã hội lành mạnh. Với tinh thần từ bi hỉ xả, khuyến khích sự hài hòa, bình đẳng và phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, Phật giáo Việt Nam đã góp phần khơi dậy và phát huy tinh thần khoan dung, dân chủ, yêu nước thương nòi, động viên mọi người cùng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thực hiện phương châm “Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội”, các tăng ni, phật tử đã có nhiều hoạt động thiện nguyện, nhân văn để góp phần làm đẹp thêm cuộc sống, xã hội. Được biết, hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 46 trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi với 1.330 trẻ em và 160 bảo mẫu; 15 trung tâm nuôi dưỡng người già neo đơn với 576 cụ được chăm sóc; 33 phòng khám Đông y với 206 lương y tham gia cộng tác và 10 phòng khám Tây y có với 40 bác sĩ tham gia cộng tác để khám, chữa bệnh và phát thuốc miễn phí cho người dân nghèo.

Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp cũng như những việc làm thiện nguyện, vì cộng đồng mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các tăng ni, phật tử và cơ sở Phật giáo trên khắp mọi miền đất nước đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam ghi nhận, đánh giá cao. Điều này thêm một lần minh chứng sinh động về việc Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, phát huy những giá trị nhân văn của các tôn giáo, trong đó có Phật giáo để góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Thế nên, lợi dụng vụ việc sai phạm xảy ra trong hoạt động tôn giáo của một ngôi chùa để bôi nhọ hình ảnh Phật giáo Việt Nam là một hành vi xúc phạm đến giới tăng ni, phật tử cả nước, xúc phạm đến niềm tin thiêng liêng của người dân Việt Nam vào giá trị nhân văn của đạo Phật, xúc phạm đến sự đóng góp nhiều mặt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với xã hội, đất nước. Cũng cần nhắc lại rằng, việc chính quyền, cơ quan chức năng vào cuộc xử lý kịp thời vụ việc sai phạm xảy ra trong hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động, sinh hoạt của tôn giáo phù hợp với giáo lý, giáo luật và pháp luật, qua đó góp phần giữ gìn thanh danh của mỗi tôn giáo trong xã hội.

LỢI DỤNG VỀ NHỮNG SAI PHẠM TRONG KẾT QUẢ THI TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG TRUNG HỌC NĂM 2019 ĐỂ CHỐNG PHÁ
                                          
Theo kết quả điều tra, ở tỉnh Hòa Bình có 64 thí sinh (63 của năm 2018 và 1 của năm 2017) được sửa điểm thi, có bài thi Hóa học được nâng 9,25 điểm, có thí sinh được nâng tổng cả 3 môn là 26,45 điểm. Ở tỉnh Sơn La, có 44 thí sinh với 95 bài thi trắc nghiệm và 02 bài thi Ngữ văn được sửa điểm, có bài thi Toán được nâng 9,00 điểm, có thí sinh được nâng tổng cả 3 môn là 26,55 điểm. Thống kê cho thấy tiêu cực thi cử xảy ra phần nhiều ở các đối tượng đăng ký xét tuyển vào các trường khối công an, quân đội.
Theo quy định của Quy chế thi THPT quốc gia và xét công nhận tốt nghiệp THPT áp dụng cho năm 2018, kết quả chấm thẩm định này là kết quả chính thức của Kỳ thi THPT quốc gia 2018; được sử dụng thay thế kết quả do các Hội đồng thi THPT quốc gia năm 2018 công bố trước đây để xét công nhận tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2018.
Nắm bắt được sức nóng cực lớn của vụ việc này, trên các phương tiện thông tin và trang mạng xã hội cũng đang dồn dập đưa tin, bình luận rất đa chiều. Trên các trang mạng như facebook, youtube… có rất nhiều video, bài viết, comment đã được các thế lực thù địch tung ra nhằm mục đích tuyên truyền, kích động, nói xấu và xuyên tạc trắng trợn về bản chất sự việc. Xu thế chung của chúng là lợi dụng vụ việc để quy chụp rằng “nền giáo dục Việt Nam đã lũng đoạn hơn bao giờ hết”; chúng cho rằng bản chất của thi cử ở Việt Nam là “sự mua bán và đổi chác”. Chúng còn trắng trợn kích động, kêu gọi phải bỏ ngay kỳ thi tốt nghiệp THPT vì “lãng phí và vô ích”. Chúng phê phán cách vào cuộc của cơ quan công an là “vô cùng chậm chạp”; chúng nhấn mạnh rằng hầu hết các thí sinh trúng tuyển trong những năm vừa qua ở khối các trường công an, quân đội đều là “do mua - bán”
Và thậm chí: Trang của Việt tân khóc lóc nỉ non cho giáo dục nước nhà trong khi vụ gian lận điểm thi chấn động nước Mỹ thì không hề khóc lấy một câu”. Thực tế, tiêu cực trong thi cử không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà ngay cả trên đất nước Mỹ cũng có hiện tượng này. Mới đây, kênh CNN dẫn lại cáo trạng của tòa án cho hay William Rick Singer - người sáng lập tổ chức giáo dục Key Worldwide và Mark Riddell đã trực tiếp cầm đầu và tổ chức đường dây gian lận thi đại học cực khủng khiến dư luận Mỹ choáng váng. Theo đó, Riddell chính là người làm bài thi tiêu chuẩn thay cho con cái của giới giàu có và nổi tiếng hoặc sửa lại câu trả lời của họ từ sai thành đúng sau đó. Singer và Riddell cũng đút lót các nhà tổ chức kỳ thi để Riddell có thể can thiệp vào bài thi trót lọt. Vụ việc cuối cùng cũng đã được đưa ra ánh sáng, kẻ chủ mưu William Rick Singer, 58 tuổi, đã nhận tội với 4 cáo buộc: âm mưu kiếm tiền phi pháp, rửa tiền, gian lận thuế và cản trở công lý. Singer hiện phải đối mặt với tối đa 65 năm tù và 1,25 triệu USD tiền phạt. Riddell cũng đang bị điều tra và sẽ chịu sự trừng phạt nghiêm minh của công lý và dư luận.

LỢI DỤNG "THỈNH VONG, CÚNG OAN GIA TRÁI CHỦ" Ở CHÙA BA VÀNG ĐỂ TUYÊN TRUYỀN SAI SỰ THẬT
                                             
Sự việc sảy ra ở Chùa Ba Vàng thuộc phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh có hoạt động "thỉnh vong, cúng oan gia trái chủ" được dư luận xã hội quan tâm, cơ quan chức năng vào cuộc làm rõ những sai phạm tại cơ sở thờ tự này, bước đầu đã có kết luận được công bố. Tuy nhiên, nhiều đối tượng lợi dụng vụ việc tiêu cực này để kích động, xuyên tạc và vu cáo; không những thế chúng còn cắt ghép hình ảnh không đúng sự thật
Chiều 26/3, đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: Đại đức Thích Trúc Thái Minh và chùa Ba Vàng đã “làm tổn thương đến thanh danh Giáo hội, Tăng đoàn”; Đại đức Thích Trúc Thái Minh, trụ trì chùa Ba Vàng, phải chịu toàn bộ trách nhiệm vì để phật từ Phạm Thị Yến (pháp danh Tâm Chiều Hoàn Quán, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Cúc Vàng) đăng đàn thuyết pháp tại chùa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam yêu cầu chùa Ba Vàng chấm dứt việc tổ chức “thỉnh oan gia trái chủ”. Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo đã ra quyết định đình chỉ tất cả các chức vụ trong Giáo hội Phật giáo với Đại đức Thích Trúc Thái Minh, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.
Đối tượng có tên tài khoản Do La Tram trên mạng xã hội facebook còn trắng trợn cắt ghép hình ảnh trụ trì chùa Ba Vàng để vu cáo nói xấu lực lượng công an nhân dân. Rõ ràng cầu vai của ảnh trên là trung tướng nhưng đối tượng Do La Tram không hiểu lại xuyên tạc thành đại tá. Điều này cho thấy những kẻ hận thù luôn bất chấp mọi thủ đoạn để gắn ghép, cắt ghép vu vạ, la làng là "sư quốc doanh", sư của Đảng, Nhà nước
Từ sự việc trên, trong những ngày qua đã có nhiều bài viết bình luận xung quanh những kẻ mượn danh Nhà Phật, nhân danh đạo pháp để kích động, gây rối loạn, hoài nghi trong dư luận xã hội ở nhiều góc độ khác nhau, làm cho “dư luận dậy sóng”. Những ai quan tâm thì đều biết trên các trang điện tử lớn như VNTB, VOA... trong tuần qua đã đăng tải nhiều bài viết, hình ảnh của nhiều tác giả như: Hoa Nghi, An Viên, Mạnh Kim, Minh Châu... đã thổi phồng sự kiện, nhằm minh chứng cho sự việc sai trái ở chùa Ba Vàng như một hệ quả tất yếu cần phải chỉnh đốn như: “Sự đốn mạt của Phật giáo quốc doanh: cần một cuộc chỉnh đốn”, “tha hóa phật giáo ở Việt Nam”; “Nếu không có người chống lưng chắc chắn họ không dám làm như thế!”; “Chùa Ba vàng hóa số phận chính khách”; “Đảng hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam”... Phải chăng đây là cơ hội để những bút danh thể hiện cái hiểu biết tường tận, nhìn nhận đánh giá khách quan có lịch sử và sự phát triển để cung cấp cho độc giả nhưng thông tin “đáng tin cậy”.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2019


Đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam – vẫn “bổn cũ soạn lại”
Trong thời gian Việt Nam báo cáo kết quả thực thi Công ước quốc tế các quyền dân sự và chính trị tại phiên họp lần thứ 3 Ủy ban công ước về các quyền dân sự và chính trị Liên Hợp quốc vào ngày 11 và 12-3-2019, Bộ Ngoại giao Mỹ đã có những nhận xét, đánh giá “vô lý” về tình hình nhân quyền năm 2018 của Việt Nam, đi ngược lại xu thế phát triển tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước. Điều này được thể hiện trên những điểm cơ bản như sau:
1. Danh không chính, ngôn không thuận
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều có cơ quan chức năng phụ trách về đối ngoại – Bộ Ngoại giao và được gọi khác nhau tương ứng với từng quốc gia nhất định. Tuy nhiên, điểm chung của Bộ Ngoại giao các nước đều là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại, gồm: Công tác ngoại giao, biên giới, lãnh thổ quốc gia, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, quản lý các cơ quan đại diện nước mình ở nước ngoài, hoạt động của các cơ quan đại diện nước ngoài tại nước mình… Bộ Ngoại giao Mỹ cũng vậy. Song, Bộ Ngoại giao Mỹ lại tự cho mình “được có quyền” nhận xét, đánh giá về các vấn đề đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung, vấn đề nhân quyền ở các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng? Tiếng nói của quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế thông qua người phát ngôn của Bộ Ngoại giao để đưa thông điệp đến các quốc gia trong mối quan hệ song phương, đa phương và thế giới. Những phát ngôn đó đều thể hiện lập trường trong mối quan hệ mang tính chất ngoại giao, hướng tới hòa bình, phát triển, thịnh vượng của nhân loại. Trái ngược với xu thế chung đó, Bộ Ngoại giao Mỹ tự cho mình cái quyền “được phán xét” tạo sự méo mó, gây phương hại cho các quốc gia “bị phán xét”. Điều này thật “vô lý” trong xu thế “toàn cầu” hiện nay.
2. Sự quy chụp, thiếu khách quan
Muốn nhận xét, đánh giá về một lĩnh vực nào đó của bất cứ quốc gia nào cần dựa trên cơ sở khoa học, phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Căn cứ thực tiễn, đánh giá trung thực, xuyên tạc, bóp méo; nhìn nhận toàn diện vấn đề được đánh giá trong mối liên hệ với những vấn đề khác, nhất là trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật của nước đó; sự đánh giá phải trên cơ sở so sánh theo chiều dài lịch sử vấn đề của quốc gia đó và đi vào cụ thể những biểu hiện của vấn đề, thấy được ưu điểm, hạn chế, nhìn nhận theo chiều hướng tích cực của sự phát triển đi lên. Song, Bộ Ngoại giao Mỹ lại không như vậy! Những nhận xét, đánh giá về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam lại chủ yếu dựa vào những bản án tù của những đối tượng đã bị tuyên án vì hành vi “tuyên truyền chống phá nhà nước Việt Nam; lật đổ chính quyền nhân dân…”. Những đối tượng đó đã vi phạm pháp luật, đã và đang phải chấp hành án theo quy định của pháp luật Việt Nam. Những đối tượng đó đều có được chế độ “tù nhân” như nhau theo từng bản án nhất định, được xét xử công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và sẽ được ân xá nếu có tiến bộ rõ rệt, có xu hướng phấn đấu hoàn lương trong thời gian chấp hành án. Đây là sự ưu việt của chế độ ta. Vậy mà, Bộ Ngoại giao Mỹ lại cố tình đưa ra “nhận xét, đánh giá” thiếu khách quan, quy chụp Việt Nam tăng cường đàn áp, thực hiện những bản án nặng nề và phân biệt đối xử, tra tấn về thể xác, tinh thần đối với những “tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị”. Điều này không có cơ sở khoa học, hoàn toàn là quy chụp, xuyên tạc nhân quyền ở Việt Nam. Thử hỏi, bất kỳ cá nhân nào có hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn của nước Mỹ sẽ bị trừng trị hay được tha bổng để sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật? Thực tiễn chứng minh, Việt Nam luôn đảm bảo các quyền cơ bản của con người, của công dân; những quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được thừa nhận, bảo đảm. Quyền đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm; sự tự do nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật thì mới đảm bảo công bằng, an toàn cho xã hội; tự do không theo khuôn khổ quy định của pháp luật thì xã hội sẽ loạn, môi trường sống của con người không có sự an toàn. Việt Nam xây dựng đất nước từ xuất phát điểm rất thấp do hậu quả nặng nề của chiến tranh gây ra. Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã và đang chứng minh cho thế giới thấy sự tiến bộ mọi mặt, trong đó có vấn đề nhân quyền. Ngày 25-1-2019, Nhóm làm việc về Rà soát Định kỳ Phổ quát chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc đã đồng thuận thông qua Báo cáo về kết quả rà soát của Việt Nam và khẳng định: Việt Nam luôn đảm bảo những quyền tự do cơ bản của công dân phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người. Sự đảm bảo đó được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm trên thực tế ở Việt Nam. Trong thời gian tham dự phiên họp Việt Nam luôn nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tình hình thực thi các cam kết quốc tế, cung cấp cho quốc tế bức tranh tổng thể các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Ủy ban Công ước cũng đã đánh giá cao việc tham gia vào đối thoại của đoàn Việt Nam, ghi nhận những kết quả đáng khích lệ của Việt Nam trong việc thực thi công ước và tin tưởng Việt Nam tiếp tục bảo vệ và phát huy ngày càng tốt hơn quyền con người và quyền công dân.
3. Nhận xét, đánh giá thiếu khách quan, sai lệnh
Kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ luôn tìm mọi cách để chống phá cách mạng nước ta, bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình” để thay đổi màu sắc thể chế chính trị xã hội ở Việt Nam; thông qua ngoại giao, phát triển kinh tế, đầu tư, lợi nhuận để cài cắm mầm mống chủ nghĩa tư bản, lấy lợi ích để mua chuộc, phát triển “lợi ích nhóm” – biến tướng bằng tên gọi “chủ nghĩa tư bản thân hữu” để giằng co, kéo chệch mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đặc biệt, sử dụng các tổ chức mang tên gọi “dân chủ, nhân quyền” để câu móc, đào tạo các thành phần bất hảo, chống đối, tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Những đối tượng đó thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, bị trừng trị theo quy định của pháp luật Việt Nam thì các tổ chức được mang danh “vì tự do, dân chủ, nhân quyền” đó lại chống phá nước ta bằng luận điệu “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, đi theo sau đó là nhận xét, đánh giá của Bộ Ngoại giao Mỹ. Không những thế, sự can thiệp vô lý của những tổ chức đó bằng vận động gây áp lực với Việt Nam thông qua các mối quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, ngoại giao theo phương châm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, buộc Việt Nam thay đổi thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa. Giá trị lớn nhất về nhân quyền là sự tự do, môi trường sống trong hòa bình, ổn định, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực con người. Hãy tự trả lời cho những lần “xả súng kinh hoàng” tại nước Mỹ, những thảm khốc sau khói súng mà nước Mỹ mang đến cho các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa, sẽ thấy được “nhân quyền của nước Mỹ ra sao”? Bản chất của “nhận xét, đánh giá” về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ, thiếu tính khách quan, sai lệch thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam. Điều vô lý đó cũng được Mỹ áp đặt với những quốc gia khác và đương nhiên sẽ chẳng thể phủ nhận được sự tiến bộ toàn diện của nước ta, không thể xóa đi sự đảm bảo về những quyền cơ bản của con người, công dân ở Việt Nam. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được đảm bảo trong Hiến pháp, pháp luật và trong thực tiễn đời sống chính trị xã hội ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nó còn đi ngược lại sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, khi mà quan hệ giữa hai nước đã ngày càng trở nên sâu sắc, đa dạng hơn với việc thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực; bằng chứng mới nhất là Việt Nam nước chủ nhà vừa tổ chức an toàn tuyệt đối Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều Tiên.
Hồng Phú/Báo CAND

Bất tuân dân sự - vấn đề không thể mất cảnh giác, xem nhẹ
 "Bất tuân dân sự " với nguồn gốc là một phong trào đấu tranh của người dân nhằm phản kháng những đạo luật không công bằng. Nhưng gần đây, nó đã bị biến tướng, trở thành một công cụ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động sử dụng để chống phá các nước không theo quỹ đạo của chúng, trong đó, Việt Nam là mục tiêu mà chúng tập trung hướng đến. Ở Việt Nam, những hoạt động mang tính chất "bất tuân dân sự" đã diễn ra từ nhiều năm trước đây. Tuy nhiên, nhận thức chung về vấn đề này chưa thực sự rõ ràng; thường được nhìn nhận như là một dạng thức chống đối song hành cùng các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, bất mãn... mà chưa thấy hết tính chất phức tạp, nhạy cảm của nó. Đó chính là các hoạt động, công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số luật lệ nhất định của nhà nước (đây không phải là phản đối toàn thể hệ thống), nó diễn ra dưới hình thức phản kháng, không tuân thủ, không phục tùng, không hợp tác cơ bản là ôn hòa, bất bạo động. Mặc dù không phải tất cả các hoạt động "bất tuân dân sự" là hành vi vi phạm pháp luật; nhưng tính chất của nó là hành vi phản kháng, không tuân thủ, không phục tùng những luật lệ đã được ban hành (bị cho là thiếu công minh, công bằng, vi hiến...); được thực hiện thông qua hình thức "bất bạo động" (hay "phi bạo lực") mà phần nhiều các hình thức đó vi phạm pháp luật (như chiếm cứ bất hợp pháp các khu vực trung tâm; không đóng thuế; không thực hiện nghĩa vụ quân sự...)
Vừa quan trên trang Chân Trời Mới Media có đăng tải bài viết "20 cách bất tuân dân sự - Phản kháng dễ làm nhưng hiệu quả". Bài viết này đã kêu gọi người dân Việt Nam trong nước thực hiện một số cách bất tuân dân sự như: Đóng tiền điện trễ đến mức có thể (14 ngày); Đóng tiền nước trễ đến mức có thể (2 tháng); Không giữ tiền trong ngân hàng; Không mua sách báo lề đảng, không xem truyền hình (vì đây là công cụ tuyên truyền và bán quảng cáo); Nghỉ việc về quê sinh sống để tránh thức ăn độc và khỏi bị bóc lột; Nông dân không canh tác quy mô như xưa (để tránh vướng nợ vì không bán được nông phẩm); Gia đình nếu có thể dạy cho con cháy thì không gởi con cháu đến trường nữa; Không đóng một số khoản phí phi. Còn đối với người Việt Nam ở nước ngoài: Không gửi tiền về giúp nghèo, chỉ giúp các cơn ngặt, khi tuyệt đối cần; Không về Việt Nam ăn chơi, tiêu xài; Không đầu tư hợp tác với các tổ chức kinh tài của cộng sản.

Đây là âm mưu thâm độc, hèn hạ và bỉ ổi của bè lũ cơ hội chính trị, bán nước, hại dân, đi ngược lại đường lối chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta, đi ngược lại khát vọng hòa bình, nhân ái, khoan dung của dân tộc Việt Nam. Do đó mỗi người dân Việt Nam cần cảnh giác, đề cao trách nhiệm, lòng tự tôn dân tộc, tuyệt đối không nhẹ dạ, cả tin, a dua làm theo sự kích động, xúi bẩy của các đối tượng cơ hội, phản động… Đồng thời nêu cao ý thức, kiên quyết đấu tranh với mọi luận điệu sai trái, kịp thời phát hiện tố giác những hành vi và đối tượng có hành vi kích động, lôi kéo biểu tình hoặc tham gia các hoạt động chống lại luật pháp, chống lại đảng và đường lối lãnh đạo của đảng./.

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2019


LÝ LUẬN ĐI ĐÔI VỚI THỰC TIỄN
HỌC TẬP THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Khi nghiên cứu về vai trò của lý luận và thực tiễn trong cải tạo và xây dựng xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, lý luận là những kinh nghiệm đã được tổng kết đúc rút từ thực tiễn và khái quát hoá trong ý thức con người, lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là nguồn gốc, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý. Lý luận và nhận thức là hai mặt của quá trình nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. V.I Lênin, người đặt nền móng cho nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước Nga đã đặc biệt quan tâm đến nguyên lý kết hợp giáo dục với lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng, Người nói: “Người ta không thể hình dung được xã hội lý tưởng tương lai mà trong đó nền giáo dục lại sẽ không kết hợp với lao động sản xuất hoặc lao động sản xuất không có sự giảng dạy và giáo dục thích hợp”.
Kế thừa tư tưởng về kết hợp giáo dục với lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng trong chỉ đạo xây dựng nền giáo dục ở Việt Nam đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều tới vấn đề giáo dục “Học đi đôi với hành, lý luận gắn với gia đình và xã hội”. Trong lần nói chuyện với cán bộ, học sinh Trường Chu Văn An – Hà Nội, Người đã nhấn mạnh: “Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường học đi đôi với lao động, lý luận đi đôi với thực tiễn”.
Bác Hồ là người Thầy vĩ đại, người Cha thân yêu của lực lượng vũ trang, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến xây dựng Quân đội về mọi mặt, đặc biệt là vấn đề giáo dục cán bộ, chiến sĩ. Khi bàn về vấn đề huấn luyện quân nhân, các nội dung huấn luyện đã toát lên tư tưởng của Người về huấn luyện phải bảo đảm tính toàn diện, tính thiết thực và tính hệ thống. Tính toàn diện mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra bao hàm cả chính trị, văn hoá, lý luận và nghề nghiệp, Người khái quát: “Quân nhân phải biết võ, biết văn, võ là như tay phải, văn là như tay trái của quân nhân. Biết võ biết văn mới là quân nhân hoàn toàn”.
Đối với công tác huấn luyện bộ đội, Người đặc biệt nhấn mạnh huấn luyện phải thiết thực, nội dung huấn luyện phải gắn với hoạt động thực tiễn của bộ đội. Trong bài “Nói về công tác huấn luyện và học tập”, Người đặt vấn đề thiết thực lên hàng đầu. Người đưa ra và tự trả lời cho các câu hỏi: “Huấn luyện ai? Ai huấn luyện? Huấn luyện gì? Huấn luyện như thế nào? Tài liệu huấn luyện ở đâu?”.
Theo tư tưởng của Người, tính thiết thực phải xuyên suốt trong tất cả các khâu của quá trình huấn luện. Từ việc xác định mục đích, vai trò đến cấu trúc chương trình, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức huấn luyện.
Nội dung thiết thực có ý nghĩa là trong huấn luyện phải lựa chọn những nội dung ngắn gọn, đầy đủ sát với thực tiễn chiến đấu của Quân đội ta – phải thực sự cần thiết, sát thực, không thiếu, không thừa theo chức trách, nhiệm vụ mà người quân nhân đảm nhiệm, sau khi học tập người học có thể áp dụng, thực hành được ngay. Người nói: “Những tài liệu huấn luyện phải nhằm vào sự cần dùng, cần thiết của quần chúng. Phải hỏi: người đến chịu huấn luyện rồi, có áp dụng được ngay không? nếu không thiết thực như thế, thì huấn luyện mấy năm cũng vô ích”.
Đối với huấn luyện quân sự, nghiệp vụ, nhất là trong điều kiện có chiến tranh hoặc trong những điều kiện hoạt động nghiệp vụ có tính chất khó khăn, phức tạp, thì yêu cầu tính thiết thực trong huấn luyện càng phải nghiêm ngặt hơn. Người phê phán mọi biểu hiển của việc huấn luyện thiếu thiết thực như: “Dạy chính trị thì mênh mông, học rồi không dùng được”, Người chỉ ra phải chống các bệnh “chủ quan, hẹp hòi, ba hoa” trong huấn luyện đó là chứng bệnh huấn luyện không thiết thực.
Về con đường và cách thức huấn luyện, tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn hoạt động quân sự. Huấn luyện không được tách rời công tác và chiến đấu của quân nhân. Người nói: “Học tập thì theo nguyên tắc kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”. Người phê phán mọi biểu hiện tách rời giữa lý luận với thực tiễn: “Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông, thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay mù quáng”(5). Người chỉ ra cách thức kết hợp lý luận với thực tiễn là: “Phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm”.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG LẠI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC
CỦA KẺ THÙ VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
                                                                              
Chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay, một trong những thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch vẫn là ra sức xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. 
          Cách mạng Việt Nam đã và đang là một tâm điểm chống phá của các thế lực thù địch. Đã có rất nhiều chiến dịch quy mô quốc tế, dưới nhiều phương thức khác nhau, nhằm bôi đen, xuyên tạc, vu khống những người cộng sản, các vị lãnh tụ cách mạng Việt Nam được nhân dân yêu mến, nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc. Chúng tập trung xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng: Hồ Chí Minh thực chất chỉ là người “dân tộc chủ nghĩa” và cố chứng minh tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, không có gì quý hơn độc lập tự do của Hồ Chí Minh là “phi nhân tính”… Chúng suy luận: “Nhân dân Việt Nam đi theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh là sai lầm, là đi vào ngõ cụt”. Chúng ngụy tạo những câu chuyện hoang đường về thân thế, đời tư của Người cùng với việc vẽ lên “chân dung” người cộng sản không có tình cảm, tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em... Bọn phản động trong nước và quôc tế còn công khai mục tiêu đạp đổ thần tượng Hồ Chí Minh, phá bỏ huyền thoại Hồ Chí Minh ...
          Về thân thế, sự nghiệp và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
          Hiện nay, đã có rất nhiều công trình khoa học, chương trình nghiên cứu, bài nói, bài viết của các học giả, nhân sĩ, trí thức, nhà chính trị… trong nước và trên thế giới bàn tới. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể Việt Nam; kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ luôn phấn đấu thực hiện, mà còn truyền dạy cho các thế hệ cách mạng và người dân Việt Nam về tư tưởng đó. Chính vì vậy, Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, suốt cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người là nhà chiến lược, nhà tổ chức thiên tài trong cuộc chiến đấu khổng lồ của nhân dân Việt Nam chống mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn và lạc hậu, tiến bước lên con đường XHCN. Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, một chiến sĩ quả cảm không ngừng đấu tranh cho hòa bình và sự tiến bộ xã hội. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi sự giải phóng, từ giải phóng dân tộc, đến giải phóng xã hội - giai cấp, đều nhằm tới giải phóng con người, trên bình diện quốc gia và quốc tế. Vì vậy, Người được toàn dân Việt Nam nhiều thế hệ và nhiều tổ chức, cá nhân có lương tri trên thế giới tôn vinh. Một trong số đó là Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO). Năm 1987, tổ chức này đã ra Nghị quyết về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, đánh giá Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Mặc dù qua đời đã hơn 40 năm, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có sức thẩm thấu và lan tỏa mạnh mẽ trên thế giới; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển; cùng với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế giới biến đổi không ngừng và có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh luôn sống cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại và dân tộc Việt Nam.

GÓP PHẦN NHẬN DIỆN CHỦ NGHĨA DÂN TÚY
 VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ
                
Trong thời gian gần đây cụm từ “chủ nghĩa dân túy” được nhắc nhiều trên chính trường và báo chí thế giới, đặc biệt nhân dịp các cuộc bầu cử, trưng cầu dân ý ở nhiều nước châu Âu, châu Mỹ. Ngay ở châu Á, nơi vốn được xem là “bình lặng” cũng đã có những chính trị gia đạt đến đỉnh cao quyền lực bằng và thông qua những phát ngôn, hành động dân túy. Rất nhiều hãng tin và tờ báo lớn đã có những bài viết phân tích tình hình chính trị thế giới năm 2016, 2017 và 2018: “Khi chủ nghĩa dân túy lên ngôi”, “Chủ nghĩa dân túy và những cơn địa chấn”… Giới phân tích chính trị thì lo lắng sự thắng thế của làn sóng dân túy có thể dẫn đến những kết quả khó đoán, bất ngờ và tác động bất ổn đến nền chính trị các nước, các khu vực và thế giới.
Hơn một thế kỷ trước, vào năm 1890, thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” được sử dụng rộng rãi tại Mỹ trong phong trào thúc đẩy người dân nông thôn và đảng Dân chủ chống lại những người đảng Cộng hòa thường sống tập trung ở đô thị. Nó cũng được sử dụng để nói đến phong trào của các trí thức ở Nga tự ghét bỏ tầng lớp của mình và đồng cảm với giai cấp nông dân, ấp ủ mộng ước xây dựng những “công xã nông thôn” cho giai cấp nông dân dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, nó lại trở thành trào lưu tư tưởng cản trở sự phát triển, là một trở ngại cho việc truyền bá Chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Những sai lầm, bản chất phản động, đi ngược lại lý luận của Chủ nghĩa Mác của phái này đã bị V.I.Lênin phê phán mạnh mẽ trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào, họ đấu tranh chống những người dân chủ-xã hội ra sao”.
Để hiểu một cách hoàn chỉnh, thống nhất về khái niệm chủ nghĩa dân túy là một vấn đề khó. Những khái niệm như chủ nghĩa dân túy, phong trào dân túy, hành động dân túy, phát ngôn dân túy… được đưa ra trong những bối cảnh, hành động khác nhau có cách hiểu và tác động khác nhau.Khoa học xã hội xem dân túy như một khuynh hướng tư tưởng và chính trị nhấn mạnh sự tương phản giữa “nhân dân” với tầng lớp “tinh hoa”, thể hiện trong những tuyên bố cho là mình đứng về phía “dân thường”. Có quan điểm xem dân túy như một ý thức hệ, nhưng chỉ là một “ý thức hệ mỏng”, không có hệ thống quan điểm riêng, không có nhân tố cấu thành cốt lõi tư tưởng của chính mình nhằm phân biệt với các hệ tư tưởng khác. Ý kiến khác lại xem dân túy là “một phong trào chính trị nhấn mạnh lợi ích, đặc điểm văn hóa và tình cảm tự phát của những người dân bình thường, trái ngược với những người của một tầng lớp đặc quyền”. Dưới góc độ phong cách ngôn ngữ và một phương thức hành động, dân túy “là chính sách của kẻ cơ hội tìm cách để giành được lòng tin của quần chúng”.Trong ngôn ngữ hằng ngày ở châu Âu, châu Mỹ lẫn ở châu Á, dân túy thường dùng để chỉ trích một đảng phái, một vài chính trị gia nào đó đang tìm kiếm sự thu hút, ủng hộ của dân chúng và dư luận bằng những lời hứa êm tai nhưng trống rỗng, thậm chí thiếu trách nhiệm đối với tương lai chính trị của đất nước, mang nặng cảm xúc nhất thời, thiếu triết lý bền vững cho những mục tiêu chính trị lâu dài và giải pháp hiệu quả cho các vấn đề hiện tại.
Từ các cách tiếp cận khác nhau, có thể hiểu khái niệm dân túy thường được dùng để nói về những thủ đoạn chính trị mang tính mị dân, đánh vào tâm lý của đám đông để kêu gọi, tổ chức phong trào nhằm lôi kéo, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận và quần chúng nhân dân.Trong thời gian gần đây chủ nghĩa dân túy, phong trào dân túy, các cá nhân theo đường lối dân túy có xu hướng phục hồi, phát triển - Có thể tìm thấy lý do cho sự trỗi dậy ấy từ những nguyên nhân chủ yếu sau: 
Sự trì trệ về kinh tế, sự già hóa dân số và mức thu nhập không tăng đã làm cho đời sống người dân, nhất là của những người yếu thế không được cải thiện làm gia tăng sự bất mãn của người dân.

“VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ LỆ THUỘC VÀO TRUNG QUỐC

Trong thời gian vừa qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm 40 năm cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (17/02/1979 - 17/02/2019), lợi dụng sự kiện này, ngày 16/02/2019, trên trang www.danluan.org Mạnh Kim – một nhà báo tự do đã có bài viết “40 năm sau cuộc chiến, Việt Nam  đang trở thành gì của Trung Quốc”. Trong bài viết, Mạnh Kim đã cố tình xuyên tạc tình hình kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng của nước ta khi cho rằng “Biển Đông đang bị gặm nhấm lấn mòn. Chủ quyền biên cương đang bị đe dọa. Cả “chủ quyền” kinh tế cũng bị thao túng”. Từ đó Y đã đưa ra luận điệu mang tính chất nhảm nhí, mù quáng, công kích, phản động khi xác định “Việt Nam đang lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc”.
Có thể thấy, qua những lời lẽ, giọng điệu trên của Mạnh Kim thực chất là nhằm gây phức tạp tình hình, “đánh lận con đen”; hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, làm cho nhân dân dần mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, kích động tâm lý chống Đảng, Nhà nước.
Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thực hiện sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã chứng minh Việt Nam không bao giờ lệ thuộc vào Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về mọi mặt và cần có sự ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Trung Quốc, ngày 5/6/1964, trước câu hỏi của nữ nhà báo Pháp Danielle với Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Cơ quan Phát thanh-Truyền hình Quốc gia Pháp: “Có một vài ý kiến cho rằng miền Bắc Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh khá cô lập và nói một cách chính trị, khó có thể tránh khỏi thành một thứ vệ tinh của Trung Quốc. Ông có thể nói gì về việc này?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời một từ chắc nịch “Không bao giờ”- Câu trả lời của Người đã thể hiện bản lĩnh, ý chí của Đảng, Nhà nước, nhân dân và dân tộc ta.

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HỌC TẬP QUÁN TRIỆT THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Chủ tịch Hồ Chí Minh người cha kính yêu của dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, người anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới. Người đã giành trọn đời cho mục tiêu độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người đã để lại cho dân tộc ta một di sản tư tưởng hết sức to lớn và vô cùng giá trị; trong đó tư tưởng về nhà nước pháp quyền có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
Ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được vai trò quan trọng của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội của Nhà nước. Để có được những tư tưởng tiến bộ, đúng đắn về Nhà nước pháp quyền, Người đã trải qua một quá trình nghiên cứu công phu cả về lý luận và thực tiễn, nhất là trong các tác phẩn của các nhà kinh điển Mác – Lênin. Người đã buôn ba nhiều nơi, nghiên cứu không ít mô hình nhà nước khác nhau trên thế giới, những di sản văn hoá pháp luật của thế giới trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1789), Tuyên ngôn độc lập (1776) và Hiến pháp (1789) của nước Mỹ, các tác phẩm về pháp luật của Mông-te-xki-ơ và Rút-xô, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Người cũng đã trải qua việc tìm hiểu thực tiễn sinh động của các kiểu nhà nước của Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc... và một số mô hình các nước trên thế giới.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu về khoa học pháp lý, tinh hoa văn hoá pháp luật của nhân loại, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn các kiểu nhà nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã luận giải cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mang lại hạnh phúc cho nhân dân ta, nhằm thiết lập và kiến tạo một nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, là cuộc đấu tranh “hợp lẽ tự nhiên” cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn – lịch sử. Nó hướng theo và tuân thủ những giá trị nhân bản mà loại người đã nhận thức được qua nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển. Người đã chỉ ra cái bản tính chung cơ bản nhất của con người bằng cách dẫn ra những luận đề bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, đó là quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc của mọi dân tộc, mọi con người. Từ thực tiễn tình hình đất nước ta, năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc-Xây Yêu sách của nhân dân An Nam, có 4 trong 8 điểm của Yêu sách đề cập đến vấn đề pháp quyền, đặc biệt ở điểm 7 có viết: “thay thế chế độ ra Sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Với tầm hiểu biết sâu sắc về nhà nước và pháp luật, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng nhà nước hợp pháp, hợp hiến và đặt nền móng cho một Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh một cách đậm nét tư tưởng lớn đó của Người. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương “Thành lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ thuộc địa và các khu giải phóng. Đầu tháng 8 năm 1945 dù tình thế rất khẩn trương, Hồ Chí Minh kiên quyết triệu tập Đại hội quốc dân Tân Trào cử ra “Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam”. Lần đầu tiên một tổ chức có tính chất tiền Chính phủ được đại biểu của nhân dân bầu ra đảm bảo tính hợp pháp để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập. Người chỉ rõ: “Uỷ ban Dân tộc Giải phóng cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này hãy đoàn kết xung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước”(1). Bởi thế cho nên ngay từ khi giành được độc lập, Người tuyên bố: “Chúng tôi lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký kết về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”(3). Người cũng đi đến một kết luận quan trọng khẳng định cần phải có một lý luận quan trọng làm thay đổi diện mạo dân tộc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân: “Trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân, tức là của các giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Bốn giai cấp ấy do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước, để thực hành dân chủ chuyên chính”(6).

CẦN LÊN ÁN NGAY KIỂU SUY LUẬN VỀ CỘNG SẢN CỦA NGUYỄN HẬU
Trong mỗi chúng ta đều biết: Quốc tế Cộng sản là sự kế tiếp hợp quy luật, phản ánh kết quả đấu tranh của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế suốt hàng thế kỷ được soi sáng và dẫn dắt bởi học thuyết khoa học và cách mạng - chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản đã để lại những giá trị lịch sử không thể phủ nhận đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Tuy vậy, các thế lực thù địch và chủ nghĩa cơ hội, luôn phủ nhận những giá trị của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự chống phá càng gia tăng sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
Trong giai đoạn hiện nay, sự chống phá đó tiếp tục diễn ra quyết liệt khi các nước xã hội chủ nghĩa còn lại dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, song vẫn kiên định con đường, mục tiêu chủ nghĩa xã hội, thực hiện đổi mới, cải cách và tiếp tục phát triển. Cụ thể sự chống phá trên trang facebook Ngày 16/3/2019 nick của Nguyễn Hậu có đưa ra một khẳng định cho rằng: “Cộng sản cũng như loài đỉa mang bản chất của loài sống ký sinh (bám trên cơ thể của kẻ khác mà sống - không có khả năng độc lập), nếu không tham nhũng, không hút máu được thì chúng sẽ chết”. Đây là một quan điểm hết sức phản động, sai lầm, hoàn toàn sai trái với bản chất của chủ nghĩa cộng sản.
Như chúng ta đã biết Đỉa là loài động vật sinh sống chủ yếu bằng con đường ký sinh hút máu các loài động vật khác để tồn tại. Nếu không tìm được chủ thể giúp chúng sống ký sinh chúng sẽ chết.
Còn chế độ cộng sản chủ nghĩa là chế độ được xây dựng nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có quyền tư hữu đối với tư liệu sản xuất, mà trong đó mọi người đều bình đẳng, không có hiện tượng “người bóc lột người” và tiến tới sự xóa bỏ nhà nước. Khi đó người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau và ở đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra dồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” nghĩa là ở chế độ cộng sản người dân là chủ của đất nước, họ có đủ khả năng lo cho cuộc sống của mình.
Những quan điểm tiến bộ, cách mạng, đứng vững trên lập trường mác-xít khoa học và cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã từng bước lấn át, đẩy lùi, khắc phục những quan điểm “lầm đường, lạc lối” của phái “tả khuynh”, cơ hội, xét lại; giảm bớt tác hại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đó không những làm trong sạch phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển mới và đúng hướng của phong trào. Lịch sử ra đời và tồn tại của Quốc tế Cộng sản cũng đồng thời là lịch sử đấu tranh không ngừng nghỉ chống các phần tử cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc, để khẳng định, bảo vệ và phát huy những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn.

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2019

MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CHỐNG THAM NHŨNG CỦA VIỆT NAM


MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CHỐNG THAM NHŨNG CỦA VIỆT NAM
Tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, xuất hiện và tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới. Nguyên nhân dẫn đến tham nhũng không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước. Cảnh báo về sự gia tăng của những tổn thất kinh tế - xã hội do tham nhũng gây ra đối với nền kinh tế thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết những ước tính gần đây cho biết tham nhũng gây thiệt hại 1.500-2.000 tỷ USD/năm, tương đương khoảng 2% GDP toàn cầu. Không những thế, những tổn thất gián tiếp cũng nghiêm trọng không kém như tăng trưởng kinh tế sụt giảm, bất bình đẳng thu nhập, bất ổn xã hội gia tăng... Chẳng thế mà đối mặt hiểm họa lớn nêu trên, Hội nghị Thượng đỉnh quốc tế về chống tham nhũng lần đầu họp tại Luân Đôn (Anh) tháng 5-2016 kêu gọi phát động một phong trào toàn cầu thực sự để đánh bại tham nhũng.
Do đó, việc các thế lực thù địch, phản động rêu rao rằng: “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra…”; “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”… thực chất là lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, nói xấu hòng làm suy giảm uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa  ở Việt Nam.
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đang được Đảng, Nhà nước Việt Nam chỉ đạo thực hiện quyết liệt, được nhân dân hết sức ủng hộ, đạt những kết quả tích cực thời gian gần đây là minh chứng bác bỏ các luận điệu xuyên tạc đó. Những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt lạc lõng ấy không làm suy giảm quyết tâm phòng, chống tham nhũng của của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Cộng đồng quốc tế và những người khách quan đều đánh giá tích cực về nỗ lực này của Việt Nam.
Đề cập cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam trong hai năm qua, giáo sư Carl Thayer (Học viện Quốc phòng Australia) nhận định: "Đây không chỉ là xử lý một nhóm các quan chức có sai phạm, mà còn giải quyết các lỗ hổng trong hệ thống quản trị, pháp quyền và thói quen “chung chi” đã ăn sâu trong một số người, do đó được người dân rất ủng hộ".
Đồng quan điểm này, giáo sư Dennis McCornac (ĐH Loyola Maryland, Mỹ) cho rằng, rõ ràng là mọi chuyện đã có chuyển biến khi luật pháp nghiêm minh hơn. Hiện giới đầu tư nước ngoài tin tưởng rằng Việt Nam đang quyết tâm đẩy mạnh chống tham nhũng, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, không còn nhũng nhiễu, hối lộ.
Ông Miguel Chanco, chuyên gia ASEAN của tổ chức nghiên cứu Economist Intelligence Unit (Anh) bác bỏ quan ngại cho rằng công cuộc chống tham nhũng tại Việt Nam sẽ làm chùn chân các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại về một môi trường chính trị bất ổn. "Trên thực tế, không có bằng chứng nào cho thấy điều đó. Các con số thống kê đều chứng minh: Đầu tư nước ngoài và các hạng mục đầu tư vẫn tiếp tục ở mức mạnh và ổn định kể từ đầu năm 2016, thời điểm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đẩy mạnh công cuộc này"- ông Chanco nhấn mạnh.
Theo tiến sĩ Edmund Malesky, trưởng nhóm điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tại Việt Nam, những nghiên cứu gần đây cho thấy cảm nhận về tham nhũng của người dân và doanh nghiệp đã có chuyển biến. “Đã có những thay đổi tích cực về thủ tục hành chính, luật lệ và tiếp cận thông tin. Tất cả đều nhằm giải quyết những hệ quả tiêu cực của tham nhũng đối với cảm nhận người dân", ông Malesky kết luận.
Để nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế, như tham gia Công ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc; trao đổi, học tập kinh nghiệm, hợp tác phòng, chống tham nhũng với nhiều nước trong APEC, ASEAN, châu Âu, các tổ chức quốc tế…, đóng góp tích cực vào nỗ lực chung. Nhiều giải pháp của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và học hỏi để vận dụng.  
Kết quả tích cực bước đầu cùng sự đánh giá cao của quốc tế sẽ là động lực để công cuộc phòng, chống tham nhũng của Việt Nam tiếp tục mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn để làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước hơn nữa, mang lại nhiều hơn niềm tin trong nhân dân trên con đường phát triển đất nước./.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2019

phi chính trị hóa quân đội

Sự thật đằng sau luận điệu tuyên truyền xây dựng quân đội chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Phi chính trị hóa” Quân đội là một thủ đoạn nguy hiểm mà các thế lực thù địch thực hiện, nhằm vô hiệu hóa công cụ bạo lực để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Tuy không mới, nhưng hết sức nguy hiểm, cần cảnh giác và chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh bằng các giải pháp phòng, chống hiệu quả.
The Army depoliticalization is a devious scheme implemented by hostile forces to netralize the violent tool of protecting our Party, state and regime. This is not strange, yet extemely dangerous. Therefore, it is requred to constantly stay vigilant and proactively uncover this plot via the effective preventative measures.
Thời gian qua, trên một số trang báo điện tử của các tổ chức phản động, thù địch xuất hiện nhiều bài viết hô hào về xây dựng quân đội chuyên nghiệp ở Việt Nam với những luận điểm như: Với trình độ lạc hậu của Quân đội Việt Nam hiện nay thì không thể bảo vệ được chủ quyền biển đảo, cần phải có quân đội chuyên nghiệp và hiện đại. Muốn vậy thì nên bỏ lực lượng dân quân tự vệ, giảm quân số chính quy, chỉ tập trung xây dựng quân đội chuyên nghiệp; quân đội chuyên nghiệp là của nhà nước, chỉ phục tùng nhà nước, do dó phải luật hóa để quân đội đứng ngoài chính trị… Đây là những luận điệu phi khoa học, phản thực tiễn, đi ngược lại đường lối của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và quan điểm “Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân”
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân và vì dân, là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với quan điểm quốc phòng hòa bình và tự vệ, tất yếu Quân đội đó cần phải được xây dựng hùng mạnh, nhưng hiện đại từng bước phù hợp với thực tiễn Việt Nam (ảnh minh họa- nguồn: chinhphu.vn)
Trên thế giới hiện nay, nhiều nước, nhất là các nước phương Tây đã và đang xây dựng loại quân đội này. Ở nước Mỹ, những người có nhu cầu, được đăng ký tình nguyện tham gia quân đội chuyên nghiệp, được tuyển chọn, huấn luyện kỹ lưỡng và được trả lương. Tuy nhiên, luật pháp nước Mỹ cũng qui định, không chỉ có quân đội chuyên nghiệp (nhà nghề) mà còn qui định cả quân đội nghĩa vụ, khi cần thiết nhà nước tiến hành động viên quân dịch. Điều đó cho thấy, quân đội chuyên nghiệp chỉ là một bộ phận, chứ không phải là duy nhất.
Hiện nay, trong Quân đội nhân dân Việt Nam cũng có một bộ phân chuyên nghiệp, đó là những người làm việc ở những lực lượng, bộ phận đặc thù, đòi hỏi chuyên môn sâu như lái máy bay, tàu ngầm… đó là những công dân Việt Nam được tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện kỹ lưỡng để trở thành những người lính chuyên nghiệp và họ sẽ gắn bó suốt cuộc đời quân ngũ với nhiệm vụ của mình cho đến khi nghỉ hưu hay xuất ngũ. Thế nhưng, Đảng và Nhà nước ta lại không chủ trương xây dựng Quân đội chuyên nghiệp, bởi vì chúng ta xây dựng Quân đội là để bảo vệ Tổ quốc, còn nhiều nước khác trên thế giới, họ xây dựng quân đội với mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia của họ, mà lợi ích quốc gia của họ lại mang tính toàn cầu. Nói một cách khác là họ có thể đưa quân để giải quyết “các vấn đề” ngoài quốc gia của họ.
Luận điệu cho rằng trình độ của Quân đội Việt Nam lạc hậu, cần phải tiến thẳng lên hiện đại, chuyên nghiệp mới đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo là luận điệu suy đoán, phi thực tiễn. Bởi sự thất bại “tâm phục, khẩu phục” của quân đội không chỉ của một nước, mà của một số nước có tiềm lực rất mạnh trên thế giới khi xâm lược Việt Nam là thực tiễn hùng hồn để minh chứng sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Còn “lời khuyên” phải tiến ngay lên hiện đại, chuyên nghiệp trong xây dựng quân đội của những người “tâm huyết với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” lại cho thấy “sự khiếm khuyết không hề nhỏ” về kiến thức quân sự, quốc phòng và thực tiễn Việt Nam. Bởi tính chất hiện đại của quân đội phụ thuộc tiên quyết vào điều kiện kinh tế và trình độ khoa học, công nghệ của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương tiếp tục xây dựng Quân đội từng bước hiện đại là hoàn toàn đúng đắn. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân và vì dân, là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với quan điểm quốc phòng hòa bình và tự vệ, tất yếu Quân đội đó cần phải được xây dựng hùng mạnh, nhưng hiện đại từng bước phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, bên cạnh đội ngũ những người hiện đại, chuyên nghiệp để làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại trong Quân đội thường trực, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, Việt Nam cần một lực lượng rất hùng hậu những công dân biết kỹ năng, kỹ thuật, chiến thuật, nghệ thuật quân sự Việt Nam để sẵn sàng huy động tạo lên sức mạnh đối phó thắng lợi với chiến tranh (nếu xảy ra). Điều này cho thấy, những luận điệu tuyên truyền, hô hào của các thế lực thù địch đều hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn đất nước và đi ngược đường lối, quan điểm quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Mục đích của các thế lực thù địch, phản động hướng đến trong các luận điệu tuyên truyền đó là “phi chính trị hóa” Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bởi theo luận điệu của họ thì khi thúc đẩy xây dựng Quân đội ta theo hướng quân đội chuyên nghiệp thì đi liền với nó cũng là quá trình Quân đội thoát li ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng ta. Đây là luận điệu phi hoa học, phản thực tiễn. Về mặt lý luận cho thấy, bất kỳ quân đội nào ra đời đều gắn liền với một giai cấp thống trị xã hội và nhà nước của giai cấp ấy. Giai cấp, nhà nước nào tổ chức ra, nuôi dưỡng quân đội thì chi phối quyết định đến bản chất chính trị giai cấp, mục tiêu chiến đấu của quân đội và quân đội đó sẽ trở thành công cụ bạo lực để bảo vệ địa vị thống trị và lợi ích của giai cấp, nhà nước đã tổ chức ra, nuôi dưỡng nó. Ngay từ thời cổ đại ông Claurơvit (nước Phổ) cũng đã từng khẳng định chiến tranh là sự kế tục của chính trị (là qui luật) và quân đội là lực lượng nòng cốt để tiến hành chiến tranh. Như vậy, quân đội không thể và không bao giờ thoát ly khỏi chính trị. Quân đội là công cụ bạo lực của một nhà nước, tất yếu nó mang bản chất giai cấp và chiến đấu vì mục tiêu chính trị của một nhà nước nhất định. Thực tiễn trên thế giới (nhất là các nước phương tây – những nước hô hào, chủ xướng về vấn đề này) cũng đã chứng minh rõ ràng, mọi giai cấp thống trị xã hội và nhà nước của nó đều trực tiếp tổ chức ra, nuôi dưỡng và sử dụng quân đội làm công cụ bạo lực để bảo vệ địa vị thống trị của mình, không có và không thể có quân đội phi giai cấp, phi chính trị, trung lập. Đây là vấn đề có tính qui luật.
Nhà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước ta tổ chức ra, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, nuôi dưỡng Quân đội nhân dân Việt Nam thì Quân đội ta tất yếu là công cụ bạo lực chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì hạnh phúc của nhân dân. Chính vì vậy mà để thay đổi, chuyển hóa chế độ chính trị xã hội ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức hô hào quân đội phải được xây dựng chuyên nghiệp, phải tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tách rời khỏi trách nhiệm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nghĩa là nhằm tước bỏ công cụ bạo lực  của Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác, luận điệu tuyên truyền thù địch, phản động của chúng còn nhằm ý đồ làm suy yếu tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, tiến đến làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc và triệt tiêu những cơ sở, điều kiện để chúng ta tiến hành chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Đồng thời, còn làm cho Quân đội ta xa rời nhân dân, biến cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trở thành những người lính chuyên nghiệp hưởng lương (như quân đội Ngụy Sài Gòn trước đây), nhưng lại không có sức mạnh bởi không có lý tưởng đúng đắn và kết quả cuối cùng là làm cho Quân đội mất phương hướng chính trị và mục tiêu chiến đấu, dẫn đến rệu rã, suy yếu và bị vô hiệu hóa. Bài học đắt giá từ sự “phi chính trị hóa” quân đội của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn../.