Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2023

VẬN DỤNG TRIẾT LÝ “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG

 Không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là Nhà ngoại giao thiên tài. Tư tưởng ngoại giao của Người được kết tinh từ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mang giá trị phổ quát, bền vững.

Tháng 5/1946, trước khi lên đường sang Pháp cứu vãn hòa bình cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng - khi đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, rằng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong cụ dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Lời căn dặn của Người đối với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi Người sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, trong điều kiện chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ và đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cũng là lần đầu tiên triết lý "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong công tác đối ngoại được mọi người biết đến.

Hơn 70 năm trôi qua, vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế đã góp phần giúp đất nước có được "cơ đồ, tiềm lực" như ngày nay. Trong bối cảnh tình hình mới, đường lối đối ngoại phù hợp sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ngày phát triển. Đây là yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển đối ngoại và hội nhập quốc tế nói chung, đối ngoại quốc phòng không nằm ngoài yêu cầu đó.

Kim chỉ nam trong công tác đối ngoại

Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi); ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến; tuyệt đối không thể đem cái bất biến ấy ra mua bán, đổi chác.

Tiếp nối lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao ngàn năm lịch sử của cha ông, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” tiếp tục là bản sắc ngoại giao tiêu biểu của Việt Nam. Tính bất biến của bản sắc ngoại giao Việt Nam được thể hiện đậm nét trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, kiên trì lập trường, nguyên tắc về thúc đẩy hòa bình, độc lập dân tộc, chống chiến tranh, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các nước. “Đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” luôn là mục tiêu bất biến, kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại và cần được phát huy, thực hiện hiệu quả hơn nữa trong bối cảnh mới.

Từ nhận thức đúng đắn về cái “bất biến” và cái “vạn biến”, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng và triển khai nhiều chủ trương, chính sách đối ngoại linh hoạt, phù hợp: Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế; từ quan niệm “địch”, “ta”, chuyển sang cách nhìn nhận về đối tác, đối tượng. Theo đó, đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức thế giới và khu vực; tham gia nhiều hiệp ước quan trọng vì sự phát triển, tiến bộ chung trong khu vực và thế giới. Qua đó tranh thủ cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, từng bước củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thay đổi, điều chỉnh đó đã tạo cho Việt Nam một sức mạnh đối ngoại mềm dẻo, được các nước trên thế giới đánh giá cao.

Vận dụng linh hoạt trong đối ngoại quốc phòng

Trong công tác đối ngoại nói chung, đối ngoại quốc phòng luôn là một điểm sáng với nhiều hoạt động phong phú trên bình diện song phương và đa phương. Về tổng thể, chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 nêu rõ: Việt Nam kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”, chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Đồng thời, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Thực hiện Chiến lược Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, là kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình; tạo lập, củng cố niềm tin bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo đảm bình đẳng cùng có lợi; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp, tăng cường vị thế quốc tế và độc lập, tự chủ của đất nước. Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện...

Như vậy, cái “bất biến” của Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược; mang tính hòa bình, tự vệ bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội nhân dân; xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra.

Tuy nhiên, để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sẽ đòi hỏi những biện pháp “ứng vạn biến”. Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm giảm sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối, mà còn là nêu cao, phát huy tính chủ động trong tham gia vào công việc chung của khu vực và quốc tế.

Là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ, đồng thời tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Việt Nam đánh giá cao vai trò của Liên hợp quốc trong các hoạt động gìn giữ hòa bình, ngăn ngừa xung đột, chiến tranh; thực thi những chuẩn mực cốt lõi của quan hệ quốc tế trong Hiến chương Liên hợp quốc.

Quyết định cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam có ý nghĩa chính trị quan trọng đối với thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng theo chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Sau gần 10 năm triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Việt Nam đã cử 786 lượt cán bộ, nhân viên đi thực hiện nhiệm vụ tại các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở cả hình thức cá nhân và đơn vị. Các lực lượng của Việt Nam được triển khai luôn phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trên cương vị, chức trách được giao, được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã thể hiện bước phát triển mới về trình độ hội nhập quốc tế của Quân đội ta khi Quân đội được Bộ Chính trị, Trung ương Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ làm lực lượng tiên phong, đi đầu trong lĩnh vực mới đầy nhạy cảm chính trị, khó khăn và thách thức này.

Đây cũng là công cụ hữu hiệu để chúng ta thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bằng biện pháp hòa bình. Qua đó, khẳng định rõ quan điểm của Đảng là gắn hòa bình, ổn định của quốc gia với giải quyết các vấn đề an ninh, hòa bình đang nổi lên trong khu vực và trên thế giới; tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về quốc phòng, thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước, nâng cao năng lực cán bộ, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Bên cạnh đó, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia; chủ động, tích cực cùng các nước ASEAN xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục đóng góp thực chất và mở rộng quy mô, phạm vi tham gia huấn luyện, diễn tập chung về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tìm kiếm cứu nạn; hợp tác quốc tế khắc phục hậu quả chiến tranh; tích cực tham gia nỗ lực chống phổ biến vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt; hợp tác bảo vệ và giao lưu hữu nghị biên giới./.

Nên có quy định sinh hoạt đảng riêng cho người nghỉ hưu

 Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về chuyển sinh hoạt đảng nêu rõ: Khi đảng viên chuyển đơn vị, nghỉ hưu…, trong vòng 60 ngày phải chuyển hồ sơ sinh hoạt đảng về nơi công tác hoặc nơi cư trú. Điều 8, Điều lệ Đảng cũng đã nêu rõ: Đảng viên không tham gia sinh hoạt hoặc đóng đảng phí 3 tháng trong 1 năm thì bị xóa tên trong danh sách đảng viên... Những quy định nêu trên nếu như áp dụng vào diện đảng viên nghỉ hưu trong thời điểm hiện nay, theo tôi, đã và đang bộc lộ nhưng bất cập nên xem xét để sửa đổi, bổ sung sao cho hợp lý hơn.

Tôi được biết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng vừa ban hành quyết định thành lập Tiểu ban xây dựng Điều lệ Đảng nhằm phục vụ cho nhiệm kỳ Đại hội khoá sau. Căn cứ vào những thực tế của việc sinh hoạt đảng đối với người đã nghỉ hưu mà tôi thấy, xin được góp ý như sau:

1. Về chuyển hồ sơ sinh hoạt đảng về địa phương

Trong thực tế có nhiều đảng viên khi nghỉ hưu không chuyển hồ sơ đảng về sinh hoạt ở địa phương, không thực hiện nhiệm vụ đảng viên theo quy định. Có những người mà tôi biết, tuy sống ở thành phố nhưng lại chuyển hồ sơ về quê xa lắc. Một năm họ về quê kết hợp chuyện gia đình họp một lần cho phải phép rồi bỏ ra vài trăm ngàn cho đến 1-2 triệu góp vui với chi bộ quê mình mà thực chất cũng là anh em, họ hàng của mình. Vậy là vui vẻ cả mà không phải nơm nớp tháng nào cũng đi sinh hoạt ở nơi mình cư trú.

Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến tình trạng họ phải toan tính nói trên. Có trường hợp thì do không nắm rõ thủ tục chuyển hồ sơ về nộp như thế nào nên lấy cớ bỏ luôn sinh hoạt; cũng có thể có lý do về sức khỏe; do đi nước ngoài lâu ngày; lo việc gia đình, ở với con cháu nơi xa; lo làm thêm, mưu sinh vất vả nên không thiết tha nhưng vẫn yêu Đảng, không nỡ bỏ Đảng…

Nhưng có lý do khó thuyết phục khi ai đó lại bao biện rằng mình nay đã nghỉ hưu rồi, đâu còn liên quan gì đến công tác nữa mà cứ phải tham gia sinh hoạt hằng tháng.

Việc nảy sinh tư tưởng không muốn ràng buộc tổ chức, không muốn tham gia các đoàn thể địa phương là khá nhiều. Vô tình, từ những biểu hiện đó đã làm giảm sút niềm tin của quần chúng đối với đảng viên và nó sẽ trở nên hình thức trong sinh hoạt. Nó còn gián tiếp khiến lớp trẻ nhìn vào không hay lắm về tổ chức đảng, tưởng chặt lại hoá lỏng với đảng viên hưu trí...

Chưa nói đến chuyện sâu xa hơn, ngay trong công tác tổ chức cũng còn nhiều bất cập trong việc theo dõi, quản lý đảng viên khi nghỉ hưu. Cơ quan đương sự từng công tác, khi làm thủ tục chuyển đảng lại không có hướng dẫn cụ thể theo đúng nguyên tắc đảng mà cách làm đủ thủ tục cắt chuyển chỉ như hình thức cho xong việc, không hướng dẫn kỹ nên đảng viên dễ viện lý do bị "trục trặc" rồi bỏ, không muốn nộp hồ sơ cho cấp ủy nơi cư trú... Có những đảng viên là cán bộ cao cấp, quan hệ rộng, họ thường xin về sinh hoạt hờ với các đơn vị là doanh nghiệp, hiệp hội để "coi như có" nhưng do biết nơi đó cũng không sinh hoạt đều nên không bị "soi" như chuyển sinh hoạt về địa phương .

Trong quy định hiện nay, theo tôi biết, chúng ta không nêu rõ việc chuyển hồ sơ đảng viên sau khi nghỉ hưu về nơi có hộ khẩu thường trú, quê quán hay nơi cư trú thường xuyên… Phải chăng đây chính là sơ hở trong thủ tục?

Thực ra, nếu đảng viên có công việc, xin phép vắng mặt thì cũng không ai vặn vẹo phải có lý do chính đáng hay không. Song, nếu liên tục xin phép vắng thì cũng khó chấp nhận.

Nên chăng, để cho nghiêm túc trong sinh hoạt chi bộ của người nghỉ hưu, Tiểu ban Điều lệ Đảng nên nghiên cứu cho đối tượng hưu trí sinh hoạt 3 tháng 1 lần (thậm chí có nhiều đồng chí hưu trí còn nêu rằng, có thể 6 tháng/lần), trừ có công việc đột xuất cần phổ biến gấp thì ta vẫn họp. Riêng các đồng chí trong cấp uỷ, các tổ trưởng tổ đảng và các đoàn thể thì vẫn cần sinh hoạt bình thường để nắm bắt tình hình .

Nên chăng cho phép họp trực tuyến với những đảng viên vì bận thật sự mà không thể đến dự. Tôi rất đồng tình việc Ban Tổ chức Trung ương cho thực hiện thí điểm phương thức sinh hoạt này. Hy vọng sẽ kết luận để nhân rộng ra...

Nếu làm như vậy, tôi nghĩ sẽ tránh được hình thức và người còn tha thiết sinh hoạt đảng cũng bớt áy náy khi nói dối. Vậy thì sẽ tốt cho công tác sinh hoạt đảng, nó thực chất hơn, tránh hình thức hơn. Qua đó, những người còn thật sự tha thiết với Đảng sẽ càng thêm tin yêu Đảng.

Kiểu sinh hoạt mà còn diễn ra hình thức là không nên. Nó vô tình không thể hiện được vai trò, sức chiến đấu của tổ chức đảng, tác động tiêu cực đến tính tích cực của đảng viên.

2. Hằng năm, việc kiểm điểm đảng viên là đúng và cần thiết dù là đã nghỉ hưu.

Song nếu dập khuôn một mẫu giấy kiểm điểm giữa người đương chức vói người nghỉ hưu thì cần nghiên cứu cải tiến lại. Phải tính sao cho gọn gàng, thực chất hơn, tránh bệnh hình thức. Không khai thì áy náy mà khai thì không biết mình viết cái gì trong đó.

3. Các cấp ủy đảng cần xác định vai trò trách nhiệm trong giáo dục, động viên, hướng dẫn đối với đảng viên khi chuẩn bị nghỉ công tác về địa phương sinh hoạt, tránh chuyện hoặc bỏ sinh hoạt hoặc có sinh hoạt nhưng thực chất là hình thức. Cần khảo sát, đánh giá cho đúng thực trạng hiện nay và xây dựng quy định thủ tục chặt chẽ, kỷ luật nghiêm túc nhằm chấn chỉnh, củng cố sức chiến đấu của Đảng và của mỗi đảng viên.

Ngày xưa, Đảng ta chỉ với 5 ngàn đảng viên, nhưng 5 ngàn đồng chí đó cũng là 5 ngàn bó đuốc soi đường cho toàn dân đứng lên giành chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hôm nay, Đảng có đến gần 5 triệu đảng viên, thử hỏi rằng đó có thật sự là gần 5 triệu bó đuốc hay không?

Điều này rất đáng suy nghĩ để tìm giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng đảng viên.

Trường hợp được miễn sinh hoạt đảng?
Căn cứ theo quy định thì hoạt động sinh hoạt đảng là một trong những nghiệm vụ của mỗi đảng viên phải chấp hành.
Điều 7 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định:
Đảng viên tuổi cao, sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng do chi bộ xem xét, quyết định.
Ngoài ra tại Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về miễn công tác và sinh hoạt đảng đối với đảng viên quy định các trường hợp được miễn sinh hoạt đảng như sau:
- Những đảng viên tuổi cao, sức khỏe yếu và tự nguyện xin miễn công tác và sinh hoạt đảng;
- Đảng viên đi thăm người thân ở trong nước, ngoài nước từ ba tháng trở lên;
- Đảng viên làm việc lưu động hoặc việc làm không ổn định, xa nơi đang sinh hoạt chi bộ, không có điều kiện tham gia sinh hoạt chi bộ theo quy định;
- Đảng viên là cán bộ, công chức nghỉ trước tuổi chờ đến tuổi nghỉ hưu theo chế độ quy định của Nhà nước có nguyện vọng được miễn công tác và sinh hoạt đảng. 

Xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Trong thời gian qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo và yêu cầu các cấp ủy đảng, địa phương, đơn vị tổ chức quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Trung ương. Trong đó, công tác xây dựng Đảng về đạo đức của cán bộ, đảng viên xem là một trong những nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống đáp ứng yêu cầu cách mạng trong tình hình mới. Qua đó, tiếp tục kế thừa và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, về đạo đức cách mạng không chỉ có giá trị lý luận mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay.

1. Xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh về đạo đức - yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng

Để xác định mục tiêu của đảng cộng sản ở từng nước, C.Mác từng chỉ rõ, trước hết phải giành lấy chính quyền, khi đã giành được chính quyền thì đảng phải lãnh đạo nhà nước của dân, do dân và vì dân để xây dựng xã hội mới. Do vậy, vai trò lãnh đạo của đảng lại càng cần thiết. Bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là sứ mệnh cao cả mà nhân dân trao cho đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhu cầu phát triển của Đảng. Mỗi bước phát triển của cách mạng đòi hỏi phải giải quyết các mâu thuẫn cơ bản một cách sâu sắc, toàn diện và triệt để, khi ấy tất yếu phải tiến hành những biện pháp để xốc lại đội ngũ, chấn chỉnh lực lượng, tăng thêm sức mạnh của Đảng.

Để Đảng làm tròn sứ mệnh của mình trước những chuyển biến của cách mạng, của đời sống xã hội, tất yếu Đảng phải thường xuyên làm trong sạch đội ngũ của mình, phải nâng mình lên ngang tầm với lịch sử, phải chỉnh đốn và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tiếp thu tư tưởng của C.Mác, V.I.Lê-nin về đổi mới, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam và đưa ra những quan điểm hết sức sâu sắc. Người nhận định, “trong hàng chục vạn cán bộ và đảng viên xứng đáng, còn lẫn vào một số người thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng. Họ còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân trong mình. Đứng trong hàng ngũ chiến đấu của Đảng mà họ không có dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vươn lên phía trước. Họ hững hờ như những người không có lý tưởng, đến đâu hay đó, qua tháng qua ngày. Đối với công việc của cách mạng, không có thái độ người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm, mà thường bị động ngồi chờ”(1). 

Vì những lý do trên mà Đảng phải thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về đạo đức là đòi hỏi khách quan và cũng là yêu cầu sống còn để bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, nâng cao bản lĩnh chính trị và sức chiến đấu của Đảng, khắc phục những hạn chế, sai lầm khuyết điểm; tạo môi trường và điều kiện để mỗi đảng viên và cán bộ hoàn thiện nhân cách, trở thành người cộng sản chân chính, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

2. Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927, ngay trang đầu tiên của tác phẩm, Người đã nêu lên 23 điều về tư cách của người cách mạng, tập trung giải quyết ba mối quan hệ cơ bản, đó là với mình, với người, với việc. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(2). Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”(3).

Vai trò nền tảng của đạo đức được Người khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa”(4), “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không” (5), “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng” (6).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức còn có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi mới xã hội cũ thành một xã hội mới và xây dựng thuần phong mỹ tục. Người cho rằng: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”(7).

Qua nghiên cứu các quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, có thể khái quát lại thành những chuẩn mực đạo đức cơ bản sau: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; yêu thương con người, sống có tình, có nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng. Phẩm chất “trung”, “hiếu” là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống của người phương Đông, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng và đưa vào những nội dung mới, tiến bộ hơn, phù hợp hơn, vượt qua những hạn chế trước đây. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thì trung với nước là trung thành với sự nghiệp cách mạng, với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân chính là chủ nhân đích thực của nước. Từ chỗ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân”. Bác đã chỉ ra: Nhân dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn, phải được chăn dắt, sai khiến trở thành lực lượng làm nên lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Trước kia quan là phụ mẫu của dân, thì nay Đảng, cán bộ, đảng viên là “’đầy tớ trung thành của nhân dân”. Theo Người, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho cách mạng, ra sức làm việc giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lấy dân làm gốc, tiếp thu trí tuệ của dân, học hỏi dân, phải biết làm học trò của dân mới làm được thầy của dân. Như thế, sự nghiệp cách mạng mới thành công.

“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là phẩm chất đạo đức thể hiện rõ qua hệ thống phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là các hoạt động hằng ngày của Người. Trong các tác phẩm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại nói về đạo đức cách mạng như: Đường cách mệnh 1927, Đạo đức cách mạng 1958…, những phẩm chất trên được Người đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất. Bác không những giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà Người còn nêu lên mối quan hệ giữa 4 phẩm chất đó: Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Một con người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn. So với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, Người cho rằng: “Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người”(8). Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ, đảng viên lại rất cần thiết, bởi vì “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”(9). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, càng có chức, có quyền càng phải cần, kiệm, liêm, chính “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”(10).

Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là “lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Thực hành chí công vô tư là phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng, trái với nhân cách, phẩm chất của một người cộng sản chân chính. Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, bởi “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(11).

Tuy nhiên, cần nhận thức về sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, cần phân biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân thì việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”, chỉ lo “mình béo mặc thiên hạ gầy”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu. Con người không phải thánh thần, có tốt, có xấu. Chúng ta cần làm cho phần tốt của mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi.

Đạo đức của Đảng hàm chứa tình nhân ái, rộng lớn, bao la. Tình yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng, mà trước hết giành cho những người mất nước, người cùng khổ. Yêu thương con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la, vừa gần gũi, bao trùm cả cộng đồng đến từng số phận con người, đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con người, tạo điều kiện cho họ đứng dậy vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Tình yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, mang tính nhân loại, vừa bốn biển năm châu, vừa bốn phương vô sản. Đó chính là tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.

Có thể khẳng định, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, về đạo đức cách mạng là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc ta, việc vận dụng và phát triển các giá trị tư tưởng đó vào sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nước trong điều kiện hiện nay là việc làm không chỉ có giá trị lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 1958!

     “Cá nhân chủ nghĩa đẻ ra hàng trăm tính xấu như siêng ăn, biếng làm, kèn cựa, nghĩ đến mình không nghĩ đến đồng bào, tham danh lợi, địa vị.v.v...”!

Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí minh tại buổi nói chuyện với giáo viên và học sinh Trường Phổ thông cấp III Chu Văn An - Hà Nội ngày 31 tháng 12 năm 1958.

Chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh ví như “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng” và nó như một thứ vi trùng độc hại, là rác rưởi làm tha hóa các mối quan hệ vốn có của mỗi cán bộ, đảng viên. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà cán bộ, đảng viên phạm nhiều sai lầm, cần phải kiên quyết đấu tranh, sửa chữa, quét sạch.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ ra tội ác của chủ nghĩa cá nhân; đó là: Sống ích kỷ, sống thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Từ sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy, muốn quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn học tập để nâng cao và thấm nhuần đạo đức cách mạng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận; nâng cao dân trí, thực hiện và phát huy quyền dân chủ thực sự và rộng rãi, tăng cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng nhân dân; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, đề cao tự phê bình và phê bình và tích cực xây dựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp, để dẹp cái xấu, lấy xây là chính... Quan niệm và những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phòng tránh, đấu tranh hiệu quả chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng có giá trị lâu dài và tính thời sự cấp thiết.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; đặt ra yêu cầu cao về tính tập thể, về mối quan hệ gắn bó đồng chí, đồng đội, quan hệ quân - dân... đã trở thành lời thề danh dự của người quân nhân, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta, được nhân dân yêu mến, tin tưởng tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”./.
Môi trường ST.

Quân ủy Trung ương quyết liệt thực hiện việc điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề để xây dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

 Năm 2024 là năm bản lề có ý nghĩa quan trọng để phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ Quân đội. Đây cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện lớn, trong đó có kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ, 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân.

Dự báo tình hình khó khăn, thách thức sẽ nhiều hơn thuận lợi, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu Quân ủy Trung ương cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chức năng tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng.

Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, nắm chắc tình hình tham mưu với Đảng, Nhà nước các đối sách thích hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tuyệt đối không được chủ quan, mất cảnh giác, không để bị động, bất ngờ” – Tổng Bí thư nhấn mạnh và yêu cầu Quân ủy Trung ương tiếp tục tham mưu ban hành các chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

NXV.


Trong mọi tình huống đều phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

 

Tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Hội nghị Trung ương 8 tập trung làm rõ những thuận lợi, cơ hội cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức phải vượt qua để chủ động từ sớm, từ xa, trong mọi tình huống đều bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị chú ý phân tích, làm rõ, tạo sự thống nhất cao về bối cảnh tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới, sự phát triển và thay đổi về nhu cầu, lợi ích của các giai tầng xã hội hiện nay; những kết quả, thành tựu chủ yếu cần tiếp tục được phát huy; những hạn chế, khuyết điểm cần sớm được khắc phục, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm được rút ra, và chủ trương, chính sách tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc.

NXV.


VIỆT NAM - THẾ GIỚI: CÚ HÍCH TĂNG HẠNG VIỆT NAM TRÊN BẢNG XẾP HẠNG THẾ GIỚI!

     Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín tiếp tục đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế Việt Nam và dự báo sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới!

Tăng trưởng vượt bậc về giá trị thương hiệu quốc gia
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) mới đây công bố báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) với bước tiến bộ rõ nét của Việt Nam trong năm 2023. Trong bảng xếp hạng mới này, vị trí của Việt Nam tăng 2 bậc so với năm 2022 và xếp hạng ở vị trí 46/132 quốc gia, nền kinh tế.

Ở trong bảng xếp hạng này, Việt Nam duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Quốc gia thu nhập trung bình thấp xếp trên Việt Nam là Ấn Độ với thứ hạng 40.

Ngoài ra, có 5 quốc gia có thu nhập trung bình cao xếp trên Việt Nam là Trung Quốc (xếp hạng 12), Malaysia (xếp hạng 36), Bulgari (xếp hạng 38), Thổ Nhĩ Kỳ (xếp hạng 39) và Thái Lan (xếp hạng 43). Còn lại, tất cả các quốc gia xếp trên Việt Nam đều là các nước có nền công nghiệp phát triển, thuộc nhóm thu nhập cao.

Phát biểu trước nghị trường Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, với những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được trong các tháng năm 2023, nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta và dự báo Việt Nam sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn báo cáo của Brand Finance, trong đó nêu rõ giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất thế giới giai đoạn 2019 - 2022 (tăng 74%), năm 2022 đạt 431 tỉ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.

Đáng chú ý, theo báo cáo của Brand Finance, sự gia tăng lớn về giá trị thương hiệu của Việt Nam tương quan với việc Việt Nam đang ngày càng được nhận định là một nơi an toàn và ổn định để đầu tư khi mà nhiều nhà sản xuất tìm cách điều chuyển các hoạt động ở châu Á để tới Việt Nam.

Các nghiên cứu mới của Brand Finance không phải là định giá tổng hợp các thương hiệu của Việt Nam mà là định giá thương hiệu của chính quốc gia Việt Nam.

Phân tích về những điểm sáng kinh tế Việt Nam trong các năm gần đây, TS Nguyễn Minh Phong nhìn nhận, không chỉ trở thành điểm sáng khu vực và thế giới về kiểm soát dịch bệnh và tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo đói, Việt Nam còn ghi nhận nhiều điểm sáng khác trong xếp hạng quốc tế.

Ông Phong dẫn dữ liệu cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế uy tín là Moody's, S&P và Fitch đều duy trì, nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.

IMF đồng thời nhận định, Việt Nam là một điểm sáng trong "bức tranh xám màu" của kinh tế toàn cầu.

“Với đường lối phát triển kinh tế, đường lối ngoại giao sáng suốt, đúng đắn trong một thế giới đầy biến động hiện nay với kết quả đạt được trong nửa nhiệm kỳ qua đã tạo cơ sở cho niềm tin vào việc kinh tế nước ta sẽ đạt được những mục tiêu của cả giai đoạn 2021-2025 mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra” – TS Nguyễn Minh Phong nhận định.

Động lực từ chính sách điều hành linh hoạt
Khi nói về những kết quả nổi bật của nền kinh tế đất nước trong năm 2023, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương nhấn mạnh: Để có sự phục hồi như vậy, rõ ràng chúng ta đã khá lên sau từng tháng, kết quả tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau đạt cao hơn quý trước.

Chúng ta đã ứng phó thành công với những "cơn gió ngược" của năm nay nhờ cách chỉ đạo điều hành linh hoạt, kịp thời của Chính phủ trong bối cảnh kinh tế thế giới, tình hình lạm phát toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế trong nước.

Cùng với dữ liệu tích cực khi vượt qua "cơn gió ngược" về lạm phát, giải ngân đầu tư công với lượng vốn đầu tư công cao nhất từ trước đến nay, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cũng lưu ý điểm nổi bật trong năm nay khi bối cảnh thế giới nhiều biến động, Việt Nam đạt được nhiều kết quả rất tốt về đối ngoại. Đây là nội dung rất quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng cả năm.

Khi nói về cách thức Chính phủ Việt Nam ứng phó với những "cơn gió ngược", ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam - cho rằng, ADB đánh giá cao những phản ứng chính sách chủ động của Chính phủ, cân bằng ổn định kinh tế vĩ mô với hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy đầu tư công. Các chính sách kinh tế vĩ mô bao gồm các biện pháp tài chính và tiền tệ. Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã đi đúng hướng và kịp thời.

Tuy nhiên, ông Shantanu Chakraborty cũng cho rằng, còn nhiều điểm Việt Nam có thể cải thiện hơn nữa, đơn cử như đầu tư công còn nhiều dư địa.

Việc thực thi chính sách tài khóa có thể được đẩy mạnh hơn nữa để tăng cường cầu trong nước và kích thích các hoạt động kinh tế.

Việt Nam cũng rất thành công trong chiến lược phát triển kinh tế những năm gần đây nhưng có thể chú trọng hơn nữa vào phát triển kinh tế tư nhân, khu vực đóng vai trò then chốt của nền kinh tế. Những 'lỗ hổng", thiếu hụt về hạ tầng hiện nay còn lớn, các khoản ODA còn hạn chế.

Cần khuyến khích hơn nữa khu vực kinh tế tư nhân
Cũng theo ông Shantanu Chakraborty, Việt Nam cần huy động hơn nữa nguồn lực từ khu vực tư nhân cho hạ tầng, nhất là hạ tầng có khả năng chống chịu với sự biến đổi khí hậu. Muốn vậy, Việt Nam cần cải tổ về chính sách để khuyến khích hơn nữa khu vực kinh tế tư nhân phát triển./.

Yêu nước ST.

THẾ GIỚI VẤN ĐỀ-SỰ KIỆN: DỰ ĐOÁN VỀ TÌNH HÌNH UKRAINA HAI NĂM NHÌN LẠI!

"SAI LẦM TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO ĐÃ ĐẨY UKRAINA XUỐNG BỜ VỰC THẲM!
Dưới gầm trời này, không chỉ Ukraine là quốc gia mà lịch sử bắt họ phải nằm cạnh một nước lớn. Nhiều nước trên thế giới cũng phải tự sinh tồn trong điều kiện sống gần những gã hàng xóm khổng lồ. Nước nhỏ hơn, nếu không biết cách chung sống hòa bình thì sơm muộn đều phải nhận trái đắng. Từ cổ chí kim, nhiều quốc gia nhỏ bé nhưng biết lựa chọn cho mình con đường trung dung, hài hòa với các nước lớn thì dân tộc đó tồn tại và ngược lại. Nhiều quốc gia đã bị xóa sổ vĩnh viễn trên bản đồ thế giới, kể từ khi xã hội bắt đầu phân chia giai cấp. Vấn đề Ukraine hiện nay là ví dụ điển hình cho những nước đi sai lầm, khó cứu vãn của các nhà lãnh đạo Ukraine. Họ lựa chọn Mỹ và châu Âu và đưa đất nước vào thế đối đầu với Nga - quốc gia hùng cường!

Cả Nga và Ukraina đều là những đất nước có ơn với Việt Nam ta, trước đây là anh em một nhà, trong đại gia đình Liên Xô vĩ đại. Ukraine được coi là một nước hùng mạnh ở châu Âu, quốc gia này đã từng có diện tích đất lớn thứ hai ở châu Âu, với ngành nông nghiệp khá phát triển và giá trị sản lượng chiếm 20% GDP trong nước. Với điều kiện tự nhiên tuyệt vời và một vị trí địa lý độc đáo nên Ukraine thường xuyên bị quấy nhiễu và đã trở thành chiến trường từ thời cổ đại do xung đột lợi ích.

Đến thời kỳ Liên Xô cũ, Ukraine là một thành viên chủ chốt của Liên bang Xô Viết, thừa hưởng nhiều di sản của Liên Xô cũ và đã có một vị trí nhất định ở châu Âu. Nhưng cùng với việc xa rời Nga và xây dựng đường lối thân Mỹ, chiến lược của Ukraine có thể coi là sai lầm nối tiếp sai lầm và đã rơi vào tình trạng nội chiến liên miên. 
Ukraine đã thực sự không nhận ra đạo lý "bán anh em xa mua láng giềng gần" và ngày càng nhích lại gần hơn với Mỹ, điều này cuối cùng đã dẫn đến cuộc khủng hoảng Crimea. Đến nay, Chính phủ Ukraine vẫn chưa có lại được vị trí ở Đông Âu. Nền kinh tế trong nước thì suy sụp, sức mạnh quân sự suy yếu nghiêm trọng và thậm chí vấn đề an ninh lương thực cũng chưa được giải quyết. Nguyên nhân của tất cả điều này là do đường lối thân Mỹ của Ukraine và bị Nga “chèn ép”, bao vây. Nhưng liệu Mỹ có giúp đỡ Ukraine thoát khỏi khốn cảnh này?

Hiện nay Crimea đã thuộc về Nga và hai vùng lãnh thổ của Ukraine là Donetsk và Lugansk đã tự tuyên bố thành lập Cộng hòa nhân dân Lugansk (LPR) và Cộng hòa nhân dân Donetsk (DPR). Điều đáng nói, cả hai vùng tự trị này đa số là người gốc Nga và họ đã được cấp quốc tịch Nga. Chiến lược thân Mỹ của Ukraine dường như không được Washington coi trọng, và việc xin gia nhập NATO của Ukraine cũng bị Mỹ “lạnh lùng” phủ quyết. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cho rằng, Ukraine đang đứng trước "cánh cửa để ngỏ” gia nhập NATO nhưng việc mở rộng liên minh này có thể làm tăng rủi ro Mỹ bị kéo vào một cuộc chiến tranh với Nga và châm ngòi cho cuộc xung đột lớn giữa NATO và Nga. Việc Mỹ không hỗ trợ Ukraine trong hoạt động chống lại lực lượng nổi dậy ở đông Ukraine cũng bị truyền thông các nước chỉ trích.

Giới phân tích cho rằng, đây là điều dễ hiểu, bởi vì Mỹ theo đuổi chủ nghĩa đơn phương và luôn đặt lợi ích của mình lên hàng đầu, viện trợ cho Ukraine trong thời gian này sẽ chỉ mang lại nguy hiểm cho Quân đội Mỹ. Không ngoa ngôn nhưng rõ ràng nước Nga với tiềm lực quân sự và lợi thế về tài nguyên, khoáng sản của mình, sẽ là nơi bất khả xâm lược. Nato chẳng đoàn kết để vì một Ukraina què quặt mà đắc tội với Nga. Châu Âu đang phụ thuộc quá nhiều vào lượng nhiên liệu, chất đốt của Nga. Hãy nhìn người Đức khốn khó thế nào khi mùa đông đến để biết rằng, người châu Âu cần Nga như thế nào. Ngoài mặt họ ủng hộ Ukraina nhưng rõ ràng là Nato sẽ không dám động binh để giải cứu Ukraina, vì các thành viên Nato thừa hiểu sức mạnh quân sự của Nga. 

Phía Ukraine cũng lên án sự “lạnh lùng” của Quân đội Mỹ vào thời điểm quan trọng. Chính phủ Ukraine rất không hài lòng với cách tiếp cận của Quân đội Mỹ, Ukraine cáo buộc Mỹ đã “thất hứa” khi không cung cấp bất kỳ sự hỗ trợ nào cho Ukraine như đã từng hứa hẹn. Phải thôi, người Mỹ đứng ngoài kích động, mục đích là muốn Nga phải lao tâm khổ tứ ở Ukraina, để họ đắc lợi ở trung đông và nhiều điểm nóng khác trên thế giới. Chẳng đời nào họ mang quân đội sang giúp Ukraina đánh Nga. Mặc cho Ukraina kêu gào nhưng tất cả đều án binh bất động. Tại thời điểm khó khăn như hiện nay, Ukraine lại chưa nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào từ Mỹ, ngoài việc lên án bằng lời nói, thì Ukraine có lẽ cũng không còn biện pháp nào để “đe dọa” Mỹ và điều này cũng tiếp tục chứng minh sự sai lầm trong chính sách thân Mỹ của Ukraine.

Bàn cờ thế giới nhìn có vẻ bao la nhưng thực chất là cuộc chơi của các nước lớn, Ukraina sai lầm trong quan hệ với các nước lớn, tự chui đầu vào cái bẫy mà người Nga, Mỹ, Nato giăng ra. Lãnh thổ, lãnh hải mất, đất nước nội loạn, bất ổn liên miên. Nói thế để hiểu rằng cha ông và Đảng ta đã khôn khéo như thế nào. Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính; trên tinh thần tranh thủ sức mạnh của thời đại để phát triển đất nước. Sẵn sàng làm bạn với các nước trên thế giới, miễn là tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi. Một nước nhỏ mà tự mình chọn cách đối đầu với nước hàng xóm khổng lồ thì chẳng khác nào tự mình giết mình; tạo cớ cho nước lớn xâm chiếm. Lịch sử thế giới đã chứng minh, một khi chiến tranh xảy ra thì chiến trường luôn nằm trên lãnh thổ các nước nhỏ, ngọc đá đều tan. Volodymyr Oleksandrovych Zelensky là một diễn viên hài nổi tiếng ở Ukraina nhưng làm chính trị thì khác xa với diễn hài. Mỗi một sai lầm trên bàn cờ chính trị sẽ phải trả giá bằng máu và nước mắt và Ukraina đã chọn cho mình nước đi tối nhất."./.




Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG TẬP TRUNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔNG HỢP SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN ĐỘI!

     Chiều 29-12, dưới sự chủ trì của Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Hội nghị Quân chính toàn quân năm 2023 tiếp tục nội dung thảo luận, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2023; xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2024!

Hội nghị có tham dự của Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; các đồng chí Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Ủy viên Quân ủy Trung ương; thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Kết quả và quyết tâm từ đơn vị
Phát biểu tại hội nghị, ngoài đánh giá kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình, các đại biểu còn thể quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ năm 2024. Trung tướng Lê Đức Thái, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng cho biết: Năm 2023, Bộ đội Biên phòng triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý, gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và cải cách thủ tục hành chính; đã làm thủ tục xuất nhập cảnh cho gần 15 triệu lượt người, tăng 328% so với năm 2022.

Đấu tranh thành công hàng trăm chuyên án, bắt hơn 7.100 vụ với gần 17.000 đối tượng. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở với hơn 600 cán bộ tham gia cấp ủy địa phương các cấp; nhận nuôi 350 cháu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Nêu kiến nghị trong thời gian tới, Trung tướng Lê Đức Thái đề nghị cấp trên chỉ đạo đầu tư, xây dựng duy tu, bảo dưỡng các công trình quản lý, bảo vệ biên giới; trang bị kỹ thuật cho các đồn biên phòng theo hướng hiện đại, nhằm từng bước nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biên giới và bảo đảm hội nhập quốc tế.

Theo Trung tướng Trần Hoài Trung, Chính ủy Quân khu 7: Nhờ triển khai quyết liệt các giải pháp về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, năm 2023, Quân khu 7 có trên 98% tổ chức Đảng và 98% đảng viên hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngày được nâng cao, đặc biệt là, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, các quy chế, quy trình lãnh đạo; khắc phục hiệu quả các yếu, kém; mọi vấn đề đều được thường vụ, Đảng ủy dân chủ quyết định theo đa số.

Trao đổi bên lề hội nghị, Thiếu tướng Trương Mạnh Dũng, Tư lệnh Quân đoàn 12. cho biết: Là đơn vị mới nhận quyết định thành lập, năm 2024, Quân đoàn 12 nghiêm túc quán triệt và thực hiện nghiêm các nhiệm vụ, giải pháp mà Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã xác định, quyết tâm xây dựng Quân đoàn theo hướng "tinh, gọn, mạnh", tiến lên hiện đại; trọng tâm là đột phá vào nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức cơ động cao. Đặc biệt, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc nghị quyết của cấp trên về điều chỉnh tổ chức biên chế bảo đảm chặt chẽ.

Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội
Phát biểu kết luận hội nghị, thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang biểu dương các cơ quan, đơn vị đã chủ động, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2023. Trên cơ sở dự báo, phân tích tình hình thế giới, khu vực, trong nước liên quan đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu các cấp chủ động, nhạy bén, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước xử lý thắng lợi các tình huống về quân sự, quốc phòng, không để bị động, bất ngờ. Phối hợp triển khai hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mớ.

Tiếp tục xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ các cấp vững chắc. Thực hiện tốt chủ trương kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế-xã hội theo các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh đối với các vùng, địa bàn trọng điểm. Quản lý, sử dụng đất quốc phòng đúng quy định. Triển khai đồng bộ giải pháp nâng cao tính thiết thực, hiệu quả công tác quốc phòng và giáo dục quốc phòng an ninh; xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên.

Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tăng cường trinh sát điện tử, tác chiến không gian mạng, quản lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển, biên giới nội địa, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ, các hoạt động phát triển kinh tế biển; phối hợp giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn cả nước. Tổ chức chặt chẽ, chất lượng, an toàn các cuộc diễn tập.

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc chặt chẽ Nghị quyết của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Chỉ đạo huấn luyện, đào tạo đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế, đúng phương châm, quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp. Đẩy mạnh xây dựng chính quy, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương.

Thực hiện nghiêm chủ trương, chỉ đạo của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Nghiêm túc quán triệt, học tập, nghiên cứu và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận quy định của Đảng. Thực hiện nền nếp, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chỉ đạo chặt chẽ Đại hội Thi đua Quyết thắng từ cấp cơ sở đến cấp trực thuộc Bộ Quốc phòng giai đoạn 2019-2024 và các hoạt động kỷ niệm, trọng tâm là kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, 80 năm ngày thành lập QĐND Việt Nam, 35 năm Ngày hội QPTD.
Trung tướng Nguyễn Văn Gấu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam phát động phong trào thi đua năm 2024 với chủ đề: “Đoàn kết, mẫu mực, kỷ cương, chủ động, sáng tạo, quyết thắng”.
Bảo đảm đầy đủ, kịp thời hậu cần, kỹ thuật cho các nhiệm vụ. Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác tư pháp, thanh tra, pháp chế, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và giải quyết khiếu nại tố cáo. Triển khai các hoạt đối ngoại quốc phòng linh hoạt, hiệu quả…

Tại hội nghị, Bộ Quốc phòng công bố quyết định và trao thưởng cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào đua năm 2023; Trung tướng Nguyễn Văn Gấu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam phát động phong trào thi đua năm 2024 với chủ đề: “Đoàn kết, mẫu mực, kỷ cương, chủ động, sáng tạo, quyết thắng”./.

Yêu nước ST.

 CẦN LOẠI BỎ NHỮNG CÁN BỘ “GIÃ CÀO”(!)


Trước hết, tôi có mấy lời về hai chữ: “Giã cào”! Quê tôi thuộc một tỉnh vùng biển. Bà con ngư dân làm nghề biển thường sử dụng nhiều loại lưới để đánh bắt hải sản. Trong đó có một loại lưới vừa to, vừa cao, vừa dày, các mắt lưới được đan rất nhỏ khiến những con tôm, con tép, con cá nhỏ xíu, thậm chí cả đến những đàn cá lòng tong vừa mới nở cũng không thoát khỏi loại lưới này. Đó là loại lưới giã cào. Đã có nơi, chính quyền địa phương phải ban hành lệnh cấm bà con ngư dân sử dụng loại lưới giã cào, vì nếu không thì loại lưới này sẽ “tiêu diệt” sạch sành sanh các loài tôm, cá vừa mới nở, sẽ làm cho vùng biển đó kiệt quệ, tôm cá không kịp lớn và sẽ không có cơ hội sinh sôi nảy nở.


Trong xã hội của chúng ta ngày nay, đại đa số cán bộ của Đảng và Nhà nước đều ra sức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, phấn đấu để thực hiện tốt những lời Bác Hồ đã dạy: “Cán bộ là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, nên họ được nhân dân quý trọng, tin tưởng, mến phục. Nhưng thật đau lòng, vì hiện tại, vẫn còn không ít những cán bộ thoái hóa, biến chất, vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng. Họ dùng tiền để mua chức tước, rồi dùng chức tước để vơ vét tiền. Họ lợi dụng chức quyền để tìm cách tham ô tài sản của Nhà nước, nhận hối lộ để làm giàu cá nhân. Bằng nhiều thủ đoạn tinh vi mánh lới xảo trá, họ vơ vét không nương tay trong mọi cơ hội, mọi trường hợp của mọi đơn vị, địa phương và mọi người, miễn sao trong két sắt nhà họ luôn đầy ắp tiền, vàng là được. Người có cấp chức to thì “ăn” ở các dự án (dự án có thật và cả dự án “ma” - nghĩa là họ tự vẽ ra dự án để lừa bịp mọi người, không cần biết dự án đó có khả thi hay không - và thực tế đã có rất nhiều dự án bị phá sản). Họ “ăn” trong các công trình xây dựng, như nhà cửa, cầu cống, đường sá, thủy lợi, kể cả việc bán đất, bán nhà, họ đều có cách để “ăn”. Họ “ăn” trong việc mua đi, bán lại các trang thiết bị công cộng, và họ “ăn” trong các hợp đồng bán đất, bán ruộng, bán tài nguyên khoáng sản ở địa phương. Và thậm chí họ còn “ăn” trong việc xét khen thưởng huân, huy chương các loại... Những đơn vị đang có vấn đề về tham nhũng, và làm ăn thua lỗ, đang lừa dối khách hàng, nhưng lại muốn có huân, huy chương để lừa bịp dư luận, họ sẵn sàng bỏ ra tiền tỉ để kiếm các danh hiệu ảo. Người có cấp chức trung thì “ăn” khi xét duyệt để nhận người vào cơ quan, rồi xét duyệt vào biên chế chính thức, xét duyệt lên lương... Việc điều động cán bộ từ nơi này đi nơi khác, nhất là cán bộ, nhân viên từ vùng sâu, vùng xa về đồng bằng, thành phố... Tất cả đều có giá cụ thể. Từ một việc nhỏ như xét tuyển một nhân viên vào các cửa hàng, công ty, xí nghiệp làm tạp vụ, đến việc xét tuyển một sinh viên vừa tốt nghiệp đại học mới ra trường, xin vào cơ quan nhà nước đều có giá từ vài ba chục triệu đến hàng trăm triệu đồng cho một trường hợp cụ thể. Đó là chưa nói đến việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, cất nhắc cán bộ hoặc giới thiệu nhân sự vào các cơ quan dân cử, ở nơi này, nơi khác đã có hiện tượng không trong sáng của một số cán bộ chỉ nghĩ đến việc đòi hỏi thủ tục “Đầu tiên” (nói lái là “Tiền đâu”?). Những cán bộ như vậy nhân dân thường gọi là những cán bộ “Giã cào” ! 


Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Chỉ thị của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thiết nghĩ mọi người chúng ta hãy kiên quyết đấu tranh loại bỏ những cán bộ “Giã cào” ấy ra khỏi bộ máy công quyền của Đảng và Nhà nước ta. Có như thế chúng ta mới phấn đấu thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Đạo đức là cái gốc của người cán bộ cách mạng!”./. 




 THI ĐUA YÊU NƯỚC, PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG


Nhắc tới Đại tướng Nguyễn Chí Thanh-một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta nhớ tới hình ảnh một vị tướng luôn lăn lộn với thực tế chiến trường, với cuộc sống lao động sản xuất của nhân dân để tổng kết, khái quát và phát động các phong trào thi đua yêu nước, nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng.


Trên từng cương vị, chức trách, đồng chí đều chú trọng công tác xây dựng phong trào, chỉ đạo quá trình thực hiện. Rất nhiều phong trào đã ghi dấu ấn sâu đậm về khả năng tổ chức tài tình của Đại tướng.


Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là người thực hiện xuất sắc tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí được quân và dân ta gọi bằng các danh xưng rất gần gũi, thân thương, giản dị như: “Đại tướng của nông dân”, “Đại tướng của phong trào” hay “Đại tướng bám đội, lội đồng”... Trong giai đoạn cách mạng mới, việc đúc kết, làm rõ nghệ thuật về tổ chức các hoạt động thi đua yêu nước của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhằm phát huy cao độ nhân tố con người và khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; đồng thời, là cơ sở để tham khảo, tổ chức các phong trào thi đua đạt hiệu quả cao hơn. Nghệ thuật này được thể hiện sinh động trên một số phong trào tiêu biểu sau:


Người khởi xướng, dẫn dắt Phong trào thi đua “Ba nhất”


Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã vận dụng một cách sáng tạo vào chỉ đạo tổ chức công tác thi đua thành hành động cách mạng của hàng triệu quần chúng, bộ đội. Ngay sau khi được Đảng, Chính phủ điều động vào Quân đội và giao trọng trách Phó bí thư Tổng Quân ủy, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tại Hội nghị cán bộ chính trị chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới năm 1950, đồng chí đã căn dặn cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chính trị các đơn vị tham gia chiến dịch phải làm thật tốt các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị; đặc biệt, cần phải phát động một cuộc vận động lập công.


Trong những năm 1954-1958, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã cùng với Tổng Quân ủy, Tổng cục Chính trị đề ra chủ trương và chỉ đạo toàn quân đẩy mạnh các phong trào thi đua nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng Quân đội chính quy, hiện đại, góp phần củng cố, bảo vệ miền Bắc và sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Quán triệt chủ trương này, Lữ đoàn 364 pháo binh mở phong trào học tập, rèn luyện trở thành “Pháo thủ toàn năng”. Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 305 bộ binh phát động phong trào “Vượt lên hàng đầu”. Quân khu Tả Ngạn phát động và lãnh đạo phong trào rèn luyện thể lực mang tên “Đại đội gió”, bắt đầu từ Đại đội 2, Trung đoàn 50... Trước những diễn biến này, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã thường xuyên theo dõi, chỉ đạo chặt chẽ các đơn vị, tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm đưa phong trào thi đua vào chiều sâu, có chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, tháng 11-1958, Tổng Quân ủy phát động Phong trào thi đua “Tiến nhanh hoàn thành vượt mức kế hoạch xây dựng Quân đội”.


Để phong trào thi đua đạt được hiệu quả, thiết thực, cần phải tìm ra các nhân tố mới, phát hiện các điển hình tiên tiến; đồng thời, chú trọng công tác tổng kết kinh nghiệm để phát huy. Thấu triệt quan điểm đó, đồng chí Nguyễn Chí Thanh luôn dành thời gian đến với các đơn vị cơ sở để phát hiện và tạo dựng phong trào. Ngay khi đến Đại đội 2, Trung đoàn 68 pháo binh, Đoàn Vinh Quang (Sư đoàn 304), đồng chí đi sâu tìm hiểu tình hình và phát hiện, đơn vị đã dựa vào chi bộ, chi đoàn để phát động quần chúng và đề ra khẩu hiệu “Tiến công vào khoa học-kỹ thuật, làm chủ vũ khí, trang bị mới”. Với sự lan tỏa mạnh mẽ của phong trào và ý chí quyết tâm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, ở hội thi bắn đạn thật toàn quân (tháng 6-1960), Sư đoàn 304 đạt đơn vị bắn giỏi nhất, đoàn có nhiều phân đội tham gia nhất, thành tích đều nhất. Tại lễ trao Huân chương tặng Đại đội 2, Trung đoàn 68 pháo binh, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã khái quát những thành tích của đơn vị là “Ba nhất”. Nội dung của “Ba nhất” (nhất về huấn luyện quân sự, rèn luyện kỹ thuật; nhất về mặt gương mẫu, kỷ luật; nhất về lao động và sản xuất) đã lôi cuốn các đơn vị trong toàn quân, mở rộng ra cả những đơn vị dân quân, thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa bộ đội thường trực và lực lượng hậu bị, củng cố khối đoàn kết công-nông-binh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


“Ba nhất” được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng phát động thành phong trào thi đua trong toàn quân. Đó là một phong trào thi đua, một hình tượng thi đua điển hình vừa cụ thể vừa sinh động, lấy huấn luyện chiến đấu, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu làm trung tâm, lấy việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị mình làm mục tiêu thi đua cụ thể. Với ý nghĩa đó, “Ba nhất” được nêu lên như một khẩu hiệu hành động có sức hấp dẫn mạnh mẽ, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ toàn quân hăng say thi đua sáng tạo, lập công.


Dấu ấn phong trào thi đua “Gió Đại Phong”


Những năm đầu thập niên 1960, miền Bắc bước vào thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) đề ra. Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được Đảng điều động và phân công làm Trưởng ban Công tác nông thôn (sau đổi là Ban Nông nghiệp Trung ương). Từ một vị tướng cầm quân đánh giặc, Đại tướng được giao trọng trách người đứng đầu, là “Tư lệnh ngành” để chỉ đạo một lĩnh vực kinh tế trọng yếu của đất nước, trực tiếp liên quan đến sự đói no của hàng chục triệu con người, đến nguồn lương thực cung cấp cho miền Nam đánh Mỹ. Thời điểm này, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đưa nông dân vào làm ăn tập thể còn gặp không ít khó khăn, khi phần lớn nông dân Việt Nam đã quen với cách làm ăn manh mún, nhỏ lẻ và rất ngại thay đổi.


Sau khi nhận nhiệm vụ Trưởng ban Công tác nông thôn, đồng chí Nguyễn Chí Thanh luôn canh cánh trong lòng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phong trào mới nhóm, trầm trầm. Chú hãy cố gắng tìm cho được điển hình tốt, rút kinh nghiệm và phát huy nó lên, để đánh tan bầu không khí kém phấn khởi”. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã đi nhiều địa phương, xuống nhiều hợp tác xã, từ đồng bằng đến miền núi, từ những địa phương thuận lợi đến những địa phương còn khó khăn. Ngay sau khi được giao nhiệm vụ, đồng chí đã lên huyện Bằng Mạc, tỉnh Bắc Giang nghiên cứu Hợp tác xã Nà Cà, đi tiếp lên một bản huyện Lộc Bình, Lạng Sơn chưa lập hợp tác xã xem nguyên nhân do đâu..., đồng thời tranh thủ tìm hiểu tình hình về hợp tác hóa nông nghiệp ở một số nước bạn như Trung Quốc, Triều Tiên. Trên cơ sở thực tiễn, đồng chí đã phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm và xây dựng điển hình tiên tiến là Hợp tác xã Đại Phong (huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình).


Hợp tác xã Đại Phong ban đầu chỉ có 24 hộ với 24 mẫu ruộng. Đây là quy mô khá khiêm tốn so với nhiều hợp tác xã ở miền Bắc lúc đó. Sau khi nắm bắt tình hình, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã nêu khẩu hiệu “phá xiềng 3 sào”; đồng thời, giúp hợp tác xã quản lý tốt, phân công lao động hợp lý, vừa khuyến khích khai hoang, phục hóa, vừa tăng cường xen canh, gối vụ, tăng năng suất... Chỉ trong vòng 3 năm, Hợp tác xã Đại Phong đã phát triển thành hợp tác xã bậc cao với 455 hộ và 1.113 mẫu ruộng. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển, đời sống xã viên ngang với mức trung nông.


Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã kịp thời chỉ đạo công tác tổng kết, rút kinh nghiệm và đề nghị với Trung ương Đảng phát động Phong trào thi đua “Học tập, đuổi kịp và vượt hợp tác xã Đại Phong”. Sau gần hai tháng phát động, đã có hơn 1.000 hợp tác xã đăng ký thi đua với Đại Phong. Một trong những xã có phong trào thi đua sôi nổi và đạt nhiều thành tựu về mọi mặt, được ví như “Đại Phong của miền Bắc” đó là Hợp tác xã Tòng Bạt ở Ba Vì (Hà Nội). Điều đó chứng tỏ sức mạnh to lớn của nông dân nước ta trên con đường hợp tác hóa, xây dựng đời sống hạnh phúc, ấm no, đem lại những thành tựu quan trọng về phát triển hợp tác xã và sản xuất nông nghiệp; góp phần to lớn vào việc xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Khi đánh giá về phong trào này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là một phong trào rất tốt và rất mạnh mẽ, nó chứng tỏ tinh thần hăng hái, lực lượng to lớn và khả năng dồi dào của đồng bào nông dân ta". 


Kiến tạo các phong trào thi đua giết giặc, lập công


Từ năm 1964, đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh và chư hầu vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam. Đây là thời điểm có tính bước ngoặt chiến lược của cuộc chiến tranh. Cách mạng Việt Nam đứng trước thử thách mới. Tháng 10-1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương điều vào miền Nam cùng Trung ương Cục trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, với cương vị Bí thư Trung ương Cục, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam.


Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã phân tích: “Mỹ vào miền Nam trong thế thua, thế bị động về chiến lược, Mỹ có cả một đống vũ khí nhưng lại vấp phải cả một đống mâu thuẫn, Mỹ là tỷ phú về đô la nhưng quân và dân ta lại tỷ phú về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, có đường lối chiến tranh, chiến thuật đúng, bắt Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta, chúng bị tréo giò như “ăn cháo bằng dĩa”, nên ta nhất định thắng”. Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Chí Thanh cùng Bộ tư lệnh Miền chỉ đạo đánh thắng Mỹ ngay từ những trận đầu. Cùng với đó, quân và dân ta tiếp tục thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công và sáng tạo nhiều cách đánh mới trên chiến trường. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã chỉ đạo tổ chức Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua các LLVT giải phóng miền Nam lần thứ nhất từ ngày 2 đến 6-5-1965 tại Chiến khu Dương Minh Châu, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí giải phóng quê hương miền Nam. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nêu khẩu hiệu nổi tiếng “Cứ tìm Mỹ mà đánh sẽ tìm ra cách đánh thắng”.


Luôn sâu sát thực tiễn, nắm bắt nhanh nhạy thực tiễn chiến đấu của các đơn vị, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã tổng kết nên các phương châm chỉ đạo tác chiến quan trọng, trở thành những khẩu hiệu hành động cách mạng, nhanh chóng đi vào lòng người và lan tỏa thành các phong trào thi đua giết giặc lập công trên toàn chiến trường miền Nam như: “Ở gần đánh gần”, “Không cho Mỹ, ngụy phân tuyến”, “Vành đai diệt Mỹ”, thi đua “Tìm Mỹ mà đánh, gặp ngụy là diệt”, phấn đấu trở thành “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt xe tăng”... Đặc biệt, chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm “Nắm thắt lưng địch mà đánh” gắn liền với tên tuổi của Đại tướng. Với cách đánh này, vừa phát huy được nghệ thuật quân sự của quân ta, vừa hạn chế tối đa ưu thế vốn có của quân đội Mỹ.


Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, nếu như Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng Phong trào Thi đua yêu nước dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, thì Đại tướng Nguyễn Chí Thanh chính là người thực hiện xuất sắc tư tưởng thi đua yêu nước của Người trong hai cuộc kháng chiến. Bất cứ ở đâu, trên các cương vị khác nhau, đồng chí đã kiến tạo nên các phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu, động viên sức mạnh của hàng triệu con người vào sự nghiệp cách mạng. “Ba nhất”, “Gió Đại Phong” hay “Nắm thắt lưng địch mà đánh”... đã, luôn và mãi được nhắc đến như những phong trào thi đua tiêu biểu gắn liền với vai trò to lớn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Đó là những bài học còn nguyên giá trị để chúng ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào các phong trào thi đua hiện nay, nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.