Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2023


 NHẬN THỨC TÍNH ĐÚNG ĐẮN CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ, CHỐNG CÁC LUẬN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC


Là đảng cách mạng, ngay từ khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuân thủ những nguyên tắc của Đảng kiểu mới do V.I.Lênin đề ra. Nguyên tắc tập trung dân chủ được đặt lên hàng đầu và đã sáng tỏ trong nhận thức trên những vấn đề căn bản.


Đảng thống nhất nhận thức lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm học thuyết lý luận, khoa học và là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Cùng với tuân theo học thuyết lý luận, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải theo lý tưởng cách mạng, ra sức đấu tranh theo Cương lĩnh, đường lối của Đảng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, mục tiêu cách mạng Đảng đã đề ra, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của Đảng và đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên. Phải thực hiện nghiêm chỉnh kỷ luật và các quy định của Điều lệ Đảng và đảng viên phải sinh hoạt trong một tổ chức đảng là chi bộ.


Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng và yêu cầu xây dựng Đảng, Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) đã xác định: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng. Nội dung của nó là tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Mục đích của nó một mặt là phát huy và nâng cao tính tích cực cách mạng, tính sáng tạo của đông đảo đảng viên và các tổ chức của Đảng, mặt khác là bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động và gìn giữ kỷ luật của Đảng. Đảng phải luôn luôn nắm vững lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp với phân công phụ trách. Đảng chống mọi hiện tượng phân tán, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật cũng như chống mọi hiện tượng tập trung quan liêu, sự vụ, gia trưởng, độc đoán, coi thường tập thể, coi thường cấp dưới”. Đó là bản chất cách mạng, khoa học và tính đúng đắn của nguyên tắc tập trung dân chủ và được thực hiện nhất quán trong quá trình lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các đảng cộng sản cầm quyền ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam và chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy vậy, mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm chậm được sửa chữa. Điều đó dẫn tới khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô (1989-1991). Nguyên nhân khách quan là chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân chủ quan là các đảng cộng sản cầm quyền đã rời bỏ nền tảng tư tưởng, lý luận và Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã hạ vũ khí trên mặt trận tư tưởng trước sự tiến công hiểm độc của kẻ thù. Các đảng cộng sản đã không kiên định và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, để cho những quan điểm sai trái về đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, công khai hóa, dân chủ hóa lộng hành dẫn tới sự rối loạn trong Đảng và xã hội, Đảng không kiểm soát được tình hình và mất vai trò lãnh đạo, cầm quyền.


Ở Việt Nam, lợi dụng tình hình xấu đi của các nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch ở trong nước và lưu vong ra sức phá hoại hòng đưa đất nước rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, ngay từ năm 1989, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu, đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa... Về nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa, không phải dân chủ tư sản. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội”.


Trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng đã lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) trong tổng kết công tác xây dựng Đảng đã nêu rõ kinh nghiệm hàng đầu là: “Nâng cao bản lĩnh chính trị; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để đổi mới sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện cơ hội chính trị”.


Thực hiện nghiêm các nguyên tắc, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng và Nhà nước đã xử lý thành công các nội dung cơ bản.


Một là, thực hiện tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo tập trung của Đảng, Nhà nước với thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sự lãnh đạo tập trung trước hết phải thống nhất về nền tảng tư tưởng, học thuyết lý luận là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lãnh đạo bằng đường lối đổi mới, cương lĩnh, chính sách, pháp luật không ngừng được bổ sung, phát triển, bảo đảm tính đúng đắn, hiện thực và hiệu quả. Phát huy dân chủ trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội dựa trên nâng cao trình độ trí tuệ và nâng cao dân trí. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Kiên quyết chống tập trung quan liêu, lộng quyền, lạm quyền, tha hóa quyền lực, phải có cơ chế kiểm soát quyền lực. Khắc phục biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan và lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, xã hội.


Hai là, xử lý tốt mối quan hệ giữa mở rộng dân chủ với tăng cường, siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ thực chất là mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đề cao trách nhiệm, trí tuệ, quyền hạn, góp phần xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật và tự giác thực hiện. Kỷ luật, kỷ cương của Đảng đòi hỏi cá nhân phục tùng tập thể, tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương. Phải giữ nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng đã xử lý đúng đắn những mối quan hệ lớn. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”.


Ba là, nguyên tắc tập trung dân chủ luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ thống nhất, đồng bộ với các nguyên tắc khác về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đó là các nguyên tắc tự phê bình và phê bình; đoàn kết thống nhất trong Đảng; gắn bó mật thiết với nhân dân, hiểu dân, tin dân và vì dân; thực hiện chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Sự thống nhất của các nguyên tắc đó bảo đảm không ngừng nâng cao bản chất cách mạng và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ một số hạn chế trong việc thực hiện các nguyên tắc của Đảng “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chưa nghiêm, thậm chí có nơi còn vi phạm nghiêm trọng. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện hiệu quả thấp, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi”. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần được quy định cụ thể, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và trách nhiệm nêu gương.


Các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ với luận điệu ở Việt Nam chỉ có một đảng lãnh đạo, không có dân chủ và Đảng độc đoán, chuyên quyền. Đó là sự xuyên tạc, nhắm mắt trước sự thật, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng phải không ngừng hoàn thiện và thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, tiếp tục xử lý đúng đắn quan hệ giữa lãnh đạo tập trung và phát huy dân chủ, bảo đảm nguyên tắc đó không chỉ cần thiết của Đảng cầm quyền mà còn trở thành nguyên tắc quản lý của một xã hội văn minh, hiện đại.


Thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng là những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ từ một nước nghèo kém phát triển trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Chính trị ổn định. Văn hóa, xã hội phát triển. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, từ 58% hộ nghèo năm 1993, nay còn dưới 3%. Quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc. Đối ngoại và hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ. Trong phòng, chống đại dịch Covid-19, Việt Nam là một điểm sáng trên thế giới. Cả hệ thống chính trị và toàn dân tập trung hành động vừa phát triển kinh tế, vừa kiểm soát dịch bệnh. Lực lượng các ngành y tế, quân đội, công an thật sự là “lá chắn thép” bảo vệ nhân dân. Điều đó tỏ rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.


Bản chất của Đảng Cộng sản, của chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng. Hiện nay, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ tốt với hơn 200 đảng cầm quyền, đảng chính trị trên thế giới, trong đó có những đảng cầm quyền ở các nước tư bản hàng đầu. Nhà nước Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 187 nước trong 193 nước thành viên Liên hợp quốc, quan hệ kinh tế, thương mại với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu gần như tuyệt đối 192/193. Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) nhận được hơn 500 điện, thư chúc mừng của các đảng, các tổ chức, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội trên thế giới. Việt Nam đang từng bước sánh vai với các cường quốc trên thế giới như ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.


Thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Tập trung dân chủ là nguyên tắc mang tính khoa học và hiện thực trong xây dựng Đảng và có vai trò rất quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, bảo đảm phát huy dân chủ thực chất và giữ vững kỷ luật, kỷ cương. Nguyên tắc đó vì thế có giá trị bền vững trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa./. 



 VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI LÀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN


Thời gian gần đây, việc xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được các thế lực thù địch tiến hành ráo riết và quyết liệt. Chúng cố tình xuyên tạc, cho rằng một đảng duy nhất cầm quyền sẽ đồng nhất với “mất dân chủ”, “độc tôn, độc tài”, cổ xúy cho đa nguyên, đa đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc. Chúng vu khống Đảng “đứng trên Hiến pháp và pháp luật”...


Cần khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội với vai trò là một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về quyết định của mình. Là đảng duy nhất cầm quyền, nhưng Đảng ta không cho phép ai đứng trên pháp luật, đứng ngoài Hiến pháp, các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Việc xử lý cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước thời gian qua đã cho thấy không có “ngoại lệ”, “vùng cấm”, Đảng luôn đặt mình trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.


Sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội thể hiện ở đường lối nhất quán về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân; thực hiện dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh nguyên tắc Đảng lãnh đạo, bộ máy Nhà nước hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản khác như: tập trung dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điểu này bác bỏ quan điểm xuyên tạc của các đối tượng thù địch cho rằng các cơ quan nhà nước được đặt ra chỉ để mị dân, không có thực quyền.


Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội được khẳng định ở sự tiêu biểu về trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng đã đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Đảng luôn bám sát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, tiếp thu ý kiến của Nhân dân để hoàn thiện đường lối và phương pháp lãnh đạo của mình. Điều này thể hiện khi xây dựng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nhất là khi chuẩn bị Đại hội Đảng, Đảng luôn tổ chức cho Nhân dân thảo luận, góp ý xây dựng văn kiện của Đảng, các ý kiến góp ý được tổng hợp, chắt lọc, tiếp thu, làm cho các Nghị quyết của Đảng trở thành sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Điều này khẳng định không có sự “mất dân chủ”, “độc tôn, độc tài” như các đối tượng thù địch rêu rao.


Sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay đã đưa đất nước ta đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, tạo ra “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” chính là minh chứng bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội./. 


Nhận thức về cục diện quốc tế

Trong hơn 20 năm trở lại đây, thuật ngữ “cục diện” bắt đầu được đề cập nhiều trong văn bản chính sách, trên các loại hình báo chí, ấn phẩm khoa học ở Việt Nam... Tuy nhiên, cách hiểu về cục diện vẫn còn khá chung chung và khác nhau. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường hiện nay, việc nghiên cứu nội hàm về “cục diện” giúp nhận định kịp thời và chính xác hơn sự thay đổi của các tác động từ cục diện đến quan hệ quốc tế, cung cấp thêm cơ sở để dự báo tình hình quốc tế nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.

Trong nghiên cứu quốc tế, “cục diện” là một thuật ngữ chưa có khái niệm. Việc nghiên cứu chủ yếu hướng tới một số yếu tố lớn của môi trường quốc tế và có tác động nhiều đến quan hệ quốc tế, như hệ thống, cấu trúc, trật tự, kiến trúc… Các thuật ngữ này thường được xây dựng dưới những cách tiếp cận và quan điểm khác nhau. Có thể thấy, nhận thức về cục diện quốc tế được nghiên cứu bắt nguồn từ những yếu tố cơ bản - nguồn gốc sinh ra tác động từ cục diện tới quốc gia và quan hệ quốc tế. Đồng thời, sự vận động của những yếu tố này, cũng như mối quan hệ giữa chúng sẽ tạo ra biến đổi của những tác động. Theo đó, cục diện quốc tế xác định bảy yếu tố chính, bao gồm: Sự phân bố quyền lực, mẫu hình quan hệ phổ biến, thể chế chung, lực lượng, các xu hướng lớn trong đời sống quốc tế, những vấn đề chung.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỪ CHẤT ĐẠO ĐỨC ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY!

     Là một Đảng lãnh đạo, cầm quyền, trước những trọng trách mới và thách thức hiện nay, Đảng ta đặt vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đó cũng chính là xây dựng sức mạnh nội sinh bền vững của cách mạng, bảo đảm cho toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng không có mục đích nào khác ngoài mục đích xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh và hạnh phúc của Nhân dân!

Chưa bao giờ như hiện nay, lịch sử phát triển của thế giới và đất nước là lịch sử của sự phát triển ngắn hạn, nhất là về kinh tế. Có thể đạt được sự tăng trưởng, thậm chí nhảy vọt về kinh tế, chỉ trong vài chục năm, nhưng, chưa thấy một quốc gia, dân tộc phát triển nào phát triển bền vững và nhân văn lại buông lơi văn hóa, trong đó lại buông lơi văn hóa và nghèo nàn về đạo đức xã hội.

Một dân tộc sẽ không thể gọi là dân tộc hoàn thiện, khi không coi trọng văn hóa, trực tiếp là đạo đức xã hội không tương dung, dù kinh tế có thể đạt được mức tăng trưởng kinh ngạc nhất thời nào đó. Kinh nghiệm lịch sử của những quốc gia hoạch phát, hoạch tàn về kinh tế và xã hội đều cho thấy, họ thường thiếu một triết lý văn hóa về phát triển, cụ thể hơn là một nền đạo đức của sự phát triển mạnh mẽ, bền vững và nhân văn.      

Xây dựng Đảng về đạo đức - điểm đột phá mới mẻ, quan trọng
Là một Đảng lãnh đạo, cầm quyền, trước những trọng trách mới và thách thức hiện nay, Đảng ta đặt vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đó cũng chính là xây dựng sức mạnh nội sinh bền vững của cách mạng, bảo đảm cho toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng không có mục đích nào khác ngoài mục đích xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh và hạnh phúc của Nhân dân. 

Do đó, hơn hết lúc nào, hiện nay, trước những nguy cơ hiện hữu, những tổn thất khôn lường đe dọa vận mệnh đất nước, chế độ XHCN và sức sống của Đảng (tệ tham nhũng, lợi ích nhóm tiêu cực, tư duy nhiệm kỳ, tệ lãng phí…) chính là do sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm xã hội nhức nhối, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bị xâm hại… đang đặt trước chúng ta những vấn đề nan giải. Sức mạnh nội sinh của đất nước, vì thế, nguy cơ cũng bị xâm hại.

Khi Đảng lãnh đạo, cầm quyền, quyền lực ở nơi này, người kia đang bị tha hóa, bởi những cá nhân được trao quyền. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi lòng dạ họ không còn trong sáng nữa, họ không thường xuyên tự tu dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng… đã làm cho tình hình phức tạp và nguy hiểm; đến lượt mình, họ cũng tự chuốc lấy những sự xuống cấp, băng hoại về đạo đức và bị đào thải, và chúng ta mất cán bộ, uy tín chính trị của Đảng bị xâm hại.

Những kết quả bước đầu trong thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" cho thấy, khi Đảng ta giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; khi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng gương mẫu đi đầu thì niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được giữ vững, củng cố và tăng cường. Và, sức mạnh của cách mạng vì thế được khơi nguồn, giữ gìn, phát huy cao nhất.

Thực tiễn ấy khẳng định việc xây dựng Đảng về đạo đức phải là một trong những lĩnh vực cơ bản, một trong những giải pháp chủ yếu và quan trọng để củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng, đoàn kết nhân dân và đoàn kết quốc tế, trực tiếp xây dựng, nhân lên sức mạnh nội sinh của cách mạng. Và, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25.10.2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là sự tiếp tục tự nhiên vấn đề cơ bản, nhu cầu tự nhiên đó.

Xây dựng Đảng về đạo đức là điểm đột phá mới mẻ, công việc rất quan trọng. Nó góp phần quyết định hoàn thiện bản chất của Đảng, phát triển công tác xây dựng Đảng ở tầm mức mới cả về định tính và định lượng, ở quy mô và tính chất, nhằm không ngừng nâng cao sức sống, bảo đảm sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức" trở nên hoàn bị, hài hòa và thiết thực, ngang tầm vị thế và trách nhiệm lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Đạo đức là những chuẩn mực giá trị được hình thành một cách khách quan trong xã hội, có tác dụng chi phối hành vi của con người. Đạo đức của Đảng ta là đạo đức cách mạng. Đó là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân, phát triển trên nền móng đạo đức dân tộc Việt Nam từ truyền thống tới hiện đại và thâu hóa tinh hoa văn hóa nhân loại.

Đạo đức cách mạng là nền tảng, là vấn đề cốt lõi chi phối toàn bộ hoạt động, mục tiêu, lý tưởng chính trị và phẩm chất chính trị của Đảng nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng nói riêng. Xây dựng về đạo đức trong công tác xây dựng Đảng tự nó trở nên hết sức quan trọng, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đạo đức là gốc của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, làm cách mạng là công việc to tát, nếu không có đạo đức thì làm sao làm nổi; làm sao lãnh đạo được nhân dân. Người dạy, Đảng ta là đạo đức, là văn minh và phải là Đảng đạo đức, Đảng văn minh. Như vậy, vấn đề đạo đức của đảng viên và xây dựng đạo đức trong Đảng phải được coi là vấn đề rất quan trọng, phải được quan tâm xứng đáng và ngang tầm trọng trách trong tất cả các giai đoạn cách mạng.

Vấn đề đạo đức có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức hay kinh tế, xã hội, ngoại giao, an ninh, quốc phòng. Mục tiêu chính trị của Đảng ta là gì, nếu không phải là vì độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Đó là lý tưởng chính trị. Vì lý tưởng cao cả đó, biết bao chiến sĩ cộng sản đã hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó chính là đạo đức chính trị. Mục đích cao nhất của đạo đức chính trị của Đảng Lao động Việt Nam gọn gồm 8 chữ: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” (Chủ tịch Hồ Chí Minh). Trung với nước, hiếu với dân là một phẩm chất đạo đức, đồng thời là lý tưởng chính trị của những đảng viên chân chính, về tư tưởng chính trị. Tư tưởng đạo đức không chỉ thể hiện nhận thức đúng đắn về các giá trị đạo đức, mà còn chi phối hành động đạo đức. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, không thể không quan tâm đến xây dựng tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng về tổ chức, dù hàng vạn chi bộ hay cơ sở đảng, hàng triệu đảng viên nhưng được tổ chức chặt chẽ, để Đảng trở thành một khối thống nhất như “cha con một bụng”, trăm người như “huynh đệ một nhà”, “muôn cành chung một cội”. Để tạo nên một tổ chức như vậy, không thể chỉ quan tâm đến các nguyên tắc, dù cực kỳ căn bản, mà coi nhẹ hoặc lãng quên giáo dục đạo lý, tình thương, lẽ phải… tức là đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đó là đạo đức chính trị và một nền chính trị đạo đức.

Đối với Đảng ta, đạo đức chính là chính trị
Yếu tố đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh về đạo đức đã nằm trong tất cả các hoạt động xây dựng Đảng, trong mục tiêu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Không phải ngẫu nhiên, suốt gần 50 năm, ngay từ “Tư cách của người cách mạng" ở tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) và trong “Mười hai điều xây dựng Đảng cách mạng chân chính” ở tác phẩm ‘Sửa đổi lối làm việc" (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Và, trong Di chúc (năm 1969), Người vẫn căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư".

Đạo đức của Đảng biểu hiện tập trung ở mục tiêu, lý tưởng chính trị và hành động lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đó là tiên phong thực hiện sứ mệnh giải phóng con người, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Từ mục tiêu, lý tưởng đó, toàn Đảng và từng cán bộ, đảng viên trong mọi suy nghĩ và hành động phải quán triệt và thấm nhuần sâu sắc phương châm: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Thời kỳ phát triển mới của đất nước, hơn lúc nào hết, đòi hỏi tư duy về phát triển, hoạch định chính sách phát triển đều phải tự nó hàm chứa và thấm đẫm yếu tố đạo đức và văn hóa. Mọi quyết sách của Đảng về sự phát triển đất nước tự nó phải mang tính chính trị và văn hóa trước khi là một quyết sách về kinh tế hay phát triển công nghệ đơn thuần. Phát triển kinh tế - xã hội vừa phải được định hướng chính trị, vừa được bảo đảm bởi sức mạnh đạo đức và văn hóa, trước hết là đạo đức, văn hóa của Đảng trong điều kiện của một đảng lãnh đạo, cầm quyền. Đó là yêu cầu tất yếu của mục tiêu phát triển đất nước bền vững, dưới ngọn cờ của Đảng. Đó là đạo đức chính trị trong kinh tế một cách nhân văn.

Đối với Đảng ta, đạo đức lại là kinh tế

Đạo đức của Đảng nói chung và đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng, là tư chất của Đảng. 

Từ thực tiễn suốt 93 năm lịch sử của Đảng, không phải tới Đại hội XII, Đảng mới đề cập đến vấn đề rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên, và công việc này là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt phải đặc biệt quan tâm, qua từng kỳ đại hội. Và, tùy vào tình hình, mức độ và yêu cầu thực tiễn đặt ra trong từng giai đoạn, từng nhiệm kỳ để Đảng xác định cụ thể về nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về đạo đức. Bởi lẽ, đạo đức là "cái gốc" để tạo nên sức mạnh chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng để Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh.

Đối với Đảng ta, chính trị, ngoại giao là đạo đức!

Từ khi ra đời, nhất là hơn 78 năm cầm quyền, Đảng ta trở thành người đồng chí, người bạn của hơn 80 đảng cộng sản và công nhân, các đảng cầm quyền và liên minh các đảng cầm quyền khắp các châu lục, đầy tin cậy và tôn trọng; dưới ngọn cờ của Đảng, nước ta đặt mối giao hảo chính trị, hợp tác toàn diện ở các tầm mức khác nhau, với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trong tình bạn thủy chung, đối tác tin cậy… Vị thế chính trị quốc gia, nhờ đó, được khẳng định và uy tín chính trị dân tộc không ngừng được nâng cao. Nền tảng làm nên và là riềng mối bảo đảm các mối quan hệ chính trị ấy là gì, nếu không phải là tình hữu ái nhân loại, tình đồng chí, tình bầu bạn… nghĩa là đạo đức chính trị nhân văn Việt Nam!

Thêm một lần nữa, càng rõ ràng: Đối với Đảng ta, chính trị, kinh tế hay ngoại giao suy cho tới cùng là đạo đức!

Xây dựng, phát triển nền móng đạo đức xã hội, trước hết là đạo đức đảng viên, để Đảng thực sự là biểu tượng của văn hóa Việt Nam
Đạo đức là yếu tố làm nên sức mạnh chính trị của Đảng, tạo ra sự hấp dẫn của Đảng đối với Nhân dân ta, bạn bè, đồng chí quốc tế và làm cho Đảng trở thành một Đảng chân chính, vĩ đại, ngang tầm và xứng đáng với Dân tộc. Đặc biệt, khi Đảng trở thành một đảng cầm quyền, hơn thế nữa, lại cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, thì không chỉ là tầm nhìn, trí tuệ, nhất là việc phát triển không ngừng đạo đức, bắt đầu từ mỗi đảng viên, là công việc vừa mang tính cấp bách, trước mắt vừa thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa thành bại, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vùa là người "đày tớ" thật trung thành của Nhân dân vừa là "đứa con nòi" của Dân tộc. 

Phải thừa nhận rằng, trước tình hình mới, đặt vấn đề và xử lý vấn đề như thời gian vừa qua, vẫn chưa ngang tầm và chưa đủ mức với sự phát triển của Đảng, yêu cầu phát triển của đất nước, nhịp bước cùng thời đại. Và, Đại hội XII của Đảng lĩnh nhiệm yêu cầu lịch sử và trọng trách cần phải có của Đảng và quyết định phải: Xây dựng Đảng về đạo đức là công việc ngang hàng trong tổng thể các công việc xây dựng Đảng, chỉnh đốn về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; và rộng hơn, đối với toàn bộ công việc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng từ chính trị, kinh tế tới xã hội, ngoại giao… một cách ngang tầm văn hóa, thấm đẫm nhân văn là do vậy.

Lý tưởng chính trị của Đảng quyện trong đạo đức, trở thành đạo đức chính trị của Đảng; đến lượt nó, đạo đức của Đảng cũng chính là mục tiêu chính trị của Đảng, bảo đảm công cuộc lãnh đạo, cầm quyền nhân văn của Đảng thành công bền vững. Lịch sử xác tín rằng, những người vĩ đại nhất không ai không có đạo đức thật sự nhân bản và ngang tầm.  

Theo đó, tư chất đạo đức của đảng viên hiện nay, cần phải thể hiện trong thực tiễn, tối thiểu những nhân tố sau:
Một là, yêu nước thương nòi, tận trung với Đảng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Kiên định và phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và suốt đời phấn đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. 

Mọi lúc, mọi nơi phải đặt lợi ích của quốc gia, danh dự của dân tộc, lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết; toàn tâm, toàn lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Kiên quyết đấu tranh với mọi tư tưởng và hành động làm hại đến vị thế, vai trò của Đảng, sức mạnh và uy tín của đất nước.

Sống hài hòa và tận tụy làm việc trong Nhân dân. Chăm lo, nâng cao đời sống mọi mặt của Nhân dân; tôn trọng, vai trò, phát huy quyền và phát triển lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Phải được Nhân dân yêu mến, tín nhiệm.

Hai là, tuân thủ, tự cường, đổi mới, sáng tạo
Chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các quyết nghị của Đảng; gương mẫu thực thi pháp luật của Nhà nước và điều lệ, quy định của các cơ quan, tổ chức liên quan.

Giữ vững khát vọng tiến bộ, ý thức tự lực, tự cường, vươn lên trong học tập, công tác, lao động sản xuất. Dũng cảm đổi mới cách nghĩ, cách làm năng động, sáng tạo theo chức trách và nhiệm vụ vì lợi ích chung.

Chủ động góp phần đẩy nhanh và bảo vệ đất nước hội nhập quốc tế, thiết thực xây dựng cộng đồng quốc tế hòa bình, ổn định và tiến bộ. 

Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công tư
Cần cù, tận tụy, tâm huyết và trách nhiệm với nhiệm vụ được giao. Tiết kiệm, không xa hoa, không lãng phí. Trung thực, công tâm, khách quan và luôn đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.

Giữ gìn trong sạch, không quan liêu, không tham nhũng, lãng phí, không tư lợi cô độc, không vụ lợi hẹp hòi, không cơ hội a dua, không sa vào lợi ích nhóm hay nhóm lợi ích. 

Không giấu giếm khuyết điểm, không a dua bè phái, không nói trái sự thật, không tập trung độc đoán, không dân chủ giả hiệu; kiên quyết phê phán cái sai, kiên trì sửa cái lạc hậu; dũng cảm bảo vệ lẽ phải và bảo vệ người tốt. 

Bốn là, đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm
Nêu cao ý thức, trách nhiệm xây dựng, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong Nhân dân, trước hết là ở chi bộ, cơ quan, đơn vị công tác và nơi cư trú. Nghiêm chỉnh và thành tâm thực hiện nguyên tắc hoạt động của Đảng, trước hết nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; thật sự yêu thương đồng chí, đồng sự, giúp nhau cùng tiến bộ; thành thực yêu mến đồng bào, sống sống thủy chung tình nghĩa. 

Không đố kỵ, tỵ hiềm, không lợi dụng chức vụ, cương vị để tư lợi cá nhân, vụ lợi phường hội. Không bị tác động xấu, không bị cám dỗ, lôi kéo… Phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cục bộ, bè phái, bản vị địa phương, gây mất đoàn kết nội bộ.

Năm là, tiền phong, gương mẫu, tự soi, tự sửa
Đi đầu trong việc mới, việc khó, tự tu dưỡng và hoàn diện nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tổ chức sáng tạo thực hiện hiệu quả đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Nêu gương về học tập, lao động, công tác và cuộc sống hàng ngày, ở nơi làm việc, nơi cư trú và nơi đi công tác. Giữ chức vụ càng cao càng phải nêu gương; cấp trên gương mẫu trước cấp dưới; cấp ủy gương mẫu trước đảng viên; đảng viên gương mẫu trước Nhân dân. Nói ít làm nhiều, nói đi đôi với làm.

Thành tâm và nghiêm khắc tự soi, tự sửa, khiêm tốn, cầu thị; đề cao tự trọng, giữ gìn danh dự; chống mọi biểu hiện làm tổn hại tới danh dự của bản nhân, sức mạnh và uy tín của tổ chức đảng. Xây đi đôi với chống; bảo vệ đất nước, bảo vệ Đảng và bảo vệ Nhân dân.

Trong bối cảnh mới, từ yêu cầu thực tiễn sau 37 năm đổi mới càng đòi hỏi cấp bách, chưa bao giờ như bây giờ, trên lộ trình phát triển, phải bảo đảm sự cân bằng và hài hòa một cách toàn diện giữa các phương diện phát triển chính trị - kinh tế - văn hóa và xã hội, chúng ta cần kiến tạo và thực thi một triết lý phát triển mạnh mẽ, bền vững và nhân văn Việt Nam.

Nghĩa là, phải vươn tới xác lập một nền văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ, bền vững và nhân văn, với nền tảng là bản sắc văn hóa dân tộc và hiện đại - và xung lực là kinh tế tri thức, kinh tế số - và môi trường sinh thái phát triển hài hòa, bảo đảm sự ổn định toàn vẹn nền chính trị đất nước, trong thời đại ngày nay. Do đó, trước hết và sau cùng, càng cần phải xây dựng và phát triển nền móng đạo đức xã hội, đạo đức công dân, trước hết là đạo đức của mỗi đảng viên, để Đảng thực sự là một biểu tượng của văn hóa Việt Nam.

Một cách tự nhiên như nhiên, đảng viên của một Đảng lãnh đạo, cầm quyền, nếu đạo đức kém hay không có đạo đức, nhất định tối thiểu sẽ không thể xứng đáng làm người chân chính, càng không thể thuyết phục và dẫn dắt được ai./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH LÀ TƯƠNG LAI, LÀ SINH MỆNH CỦA ĐẤT NƯỚC!

     Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh, trong bất kỳ giai đoạn, triều đại hay chế độ nào, việc dùng người luôn là công việc hệ trọng liên quan trực tiếp tới sự an-nguy, thịnh-suy của một quốc gia!

Vì thế, ngay từ khi nước Việt Nam mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc phát hiện, rèn luyện, sử dụng cán bộ là khâu trọng yếu. Và theo Người, phẩm chất đầu tiên của một cán bộ tốt là phải giữ được 4 đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính.

Cần, kiệm, liêm, chính- là cốt lõi đạo đức cách mạng

Tấm gương cần, kiệm, liêm, chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khái quát: "Bốn chữ Cần, Kiệm, Liêm, Chính-là cốt lõi đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đạo đức ấy của Bác là “tinh hoa của dân tộc”, là “lương tâm của thời đại”. Bác Hồ là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bác là điển hình của sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và lối sống, suốt đời vì nước vì dân". Cũng về điều này, đồng chí Trường Chinh trong bài viết đăng trên Báo Nhân Dân, số 8, ngày 13-5-1951 viết: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đó là đại cương đạo đức của Hồ Chủ tịch, mà toàn dân ta, trước hết đồng chí chúng ta cần phải học tập và thực hành".

Chủ tịch Hồ Chí Minh là gương sáng, là hiện thân của đức tính “cần, kiệm, liêm, chính”. Thực hành tiết kiệm; giữ liêm khiết, trong sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi. Người sống trung thực, chân thành với chính mình và với người khác. Đời sống của Người thanh cao và giản dị, trọn đời vì nước, vì dân "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể lay chuyển, uy lực không thể khuất phục", bởi vì Người trước sau một lòng "trung với nước, hiếu với dân", là vì Người luôn nêu gương "chí công vô tư", cả đời gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính.

Tại sao cán bộ, nhân dân, mọi tầng lớp trong xã hội lại phải cần, kiệm, liêm, chính? Bác dạy rằng: Muốn giàu có thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, kết quả sẽ là những thứ gì cũng sẽ đầy đủ, dư dật. Cần tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ là công tác gì. Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của dân. Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của nhân dân. Chính tức là việc phải dù nhỏ cũng làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh. 4 điều này luôn phải đi liền với nhau và khái quát ở tầm cao là sự chí công vô tư. Suy rộng ra, đã là người cán bộ thì làm việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã... có khó nhọc thì mình nên đi trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Những cán bộ nào không làm được như vậy, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích của tập thể, thấy vật chất muốn hưởng thụ, có công việc không dám xung phong, cán bộ đó ắt đã biến chất. Từ sự biến chất ấy sẽ đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lãng phí... và như vậy, chủ nghĩa cá nhân chính là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của cần, kiệm, liêm, chính.

Người cán bộ cần, kiệm, liêm, chính thì tài năng thêm phát triển

Có thể thấy rõ việc Bác dạy cán bộ, đảng viên và Bác gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính là Bác muốn rèn luyện đạo đức cho mỗi người cán bộ. “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Mà cái gốc của người cán bộ như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong bài viết "Về một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng" đã chỉ rõ: "Người cán bộ phải vừa có Đức vừa có Tài, trong đó Đức là gốc". Nhìn rộng ra, người cán bộ có đức thì nhất định phải là người cán bộ cần, kiệm, liêm, chính; và người cán bộ cần, kiệm, liêm, chính là người cán bộ có đạo đức. Người cán bộ có đức sẽ làm cho tài năng thêm phát triển, bởi người thực sự có đức bao giờ cũng khiêm tốn, chịu khó học tập, phấn đấu nâng cao tài năng của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng giao cho.

Điều này phù hợp với định hướng của Đảng ta về công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược. Khi đề cập đến công tác cán bộ, theo nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan: Trong tình hình mới có nhiều thay đổi, công tác rèn luyện cán bộ của chúng ta còn nhiều sơ hở, liên quan tới cả cán bộ cấp cao, có cả cấp Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương, bộ trưởng... Để đào tạo được đội ngũ cán bộ chiến lược mẫu mực, cần cả "tâm" và "tầm". Tâm và tầm thực chất chính là đạo đức và tài năng. Càng là cán bộ cấp cao thì càng đòi hỏi cao hơn về hai yếu tố này. Bởi vì, người cán bộ cấp cao, cán bộ chiến lược điều cần nhất là sự trong sạch (trong sạch ắt phải là người cần, kiệm, liêm, chính), vì không trong sạch thì không thể nói được ai, chỉ đạo được cái gì. Còn tài năng chính là việc nhìn xa trông rộng. Cán bộ chiến lược khác người thường ở chỗ, người thường chỉ nhìn cái cụ thể, còn cán bộ chiến lược phải có hiểu biết rộng, từ đó đề ra những quyết sách mang tính chiến lược của quốc gia.

Như vậy có thể thấy, tư tưởng của Bác về cần, kiệm, liêm, chính không chỉ dừng ở những chi tiết cụ thể, mà từ những điều cụ thể ấy, nó bao hàm ý nghĩa lớn lao hơn rất nhiều, đó là tương lai, là sinh mệnh của đất nước. Điều ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị nhân văn và tính thời sự, có ý nghĩa thiết thực đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn dân.

Cần, kiệm, liêm, chính thời nào cũng vậy, đó là sự chăm chỉ, khoa học, có tính toán cẩn thận để sao cho tiết kiệm sức người, sức của, tiết kiệm thời gian... mà năng suất lao động, hiệu quả cao. Đi ngược lại là lãng phí vật tư, thời gian, tiền bạc của nhân dân, của đất nước mà công việc không hoàn thành, làm nghèo đất nước, kìm hãm sự phát triển của xã hội và gây bất bình trong nhân dân. Còn về liêm, chính, Bác dạy rằng, cán bộ đương nhiên là có quyền, nếu có quyền mà lợi dụng để tham ô, đục khoét thì làm sao mà lãnh đạo cơ quan, làm sao mà nói để dân tin được. Cán bộ thời nào cũng thế, nếu không giữ được mình trong sạch, sa vào hưởng thụ, tham lam là có tội với nước, với dân. Vì thế, với người cán bộ của Đảng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ, trước hết là nghĩa vụ của mỗi công dân; không chỉ tạo nên giá trị chân chính cho mỗi người mà còn hun đúc nên giá trị cao quý cho cả một dân tộc, một quốc gia.

Ngày nay, cần, kiệm, liêm, chính được phát triển lên tầm cao mới, đi vào đời sống thực tiễn sẽ có vai trò, tác dụng và ý nghĩa vô cùng to lớn, tạo nên thương hiệu một quốc gia. Có thể lấy ví dụ về những thương hiệu quốc tế về cần, kiệm, liêm, chính, như: Nước Đức được mệnh danh là đất nước của những công dân cần cù, khoa học, chính xác; Singapore nổi tiếng với nền hành chính sạch, quan chức liêm khiết; Nhật Bản nổi tiếng với sự tiết kiệm, sáng tạo... Nhìn ra thế giới mới thấy những lời Bác dạy vẹn nguyên tính thời sự: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm sỉ, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.

Chỉ có trong sạch thì Đảng mới vững mạnh

Trong bối cảnh đất nước và quốc tế hiện nay, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính càng đặc biệt đúng trong công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên trước nguy cơ không ít cán bộ sa vào ăn chơi, hưởng thụ quá sức lao động, quan liêu, tham nhũng... Và để thỏa mãn những ham muốn thấp hèn của bản thân, họ đã tìm mọi cách để đục khoét ngân sách nhà nước. Những đại án nghìn tỷ, chục nghìn tỷ đang để lại hậu quả mà phải mất rất nhiều năm để khắc phục, nhưng nỗi đau về niềm tin mà nhân dân dành cho Đảng thì phải rất lâu, rất khó để lấy lại.

Xác định rõ nguy cơ này, từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh việc chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên. Trong bối cảnh có biến động rất đáng lo ngại về mặt đạo đức, lối sống và nhận thức của không ít cán bộ, đảng viên, mới thấy thấm thía hết ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao trong việc triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân gắn với rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “cần, kiệm, liêm, chính” nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thực tiễn đã chỉ ra, một xã hội muốn phát triển tất yếu phải chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đồng thời phải giáo dục mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Việc tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức đối với cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp thiết. Như lời Bác dạy, cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính quan trọng của con người, giống như trời có bốn mùa xuân-hạ-thu-đông; đất có 4 phương đông-tây-nam-bắc... Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người. Điều này được Bác nhắc lại trong bản Di chúc bất hủ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...”./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH, NHÀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ XUẤT SẮC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ QUÂN ĐỘI TA!

     Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực, vị tướng tài trí, mưu lược. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Đại tướng cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhân dân và Quân đội. Đóng góp to lớn, nổi bật của Đại tướng thể hiện trên nhiều mặt, trong đó có những đóng góp xuất sắc về lý luận chính trị quân sự. 

1. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đặc biệt coi trọng và luôn khẳng định vị trí, vai trò tiên phong của lý luận chính trị quân sự đối với Quân đội nhân dân Việt Nam
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, đồng chí Nguyễn Chí Thanh nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò tiên phong của lý luận chính trị quân sự đối với sự nghiệp cách mạng. Bởi vì: “lý luận và đường lối cách mạng tự nó đã chứa đựng một tiềm lực lớn lao, cung cấp không ngừng cho chiến tranh cách mạng những lực lượng vật chất cần thiết để đánh đổ lực lượng vật chất của đối phương”(1).

Đồng chí khẳng định: “Nếu nói rằng sự lãnh đạo của Đảng ta là nhân tố bao trùm, quyết định sự thắng lợi của cách mạng thì cũng có thể nói thêm được rằng lý luận Mác-Lênin là nhân tố quyết định cho sự tồn tại, phát triển và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng”(2).

Thấu triệt quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng chí nhấn mạnh sự cần thiết phải tổ chức ra Quân đội để thực hiện nhiệm vụ chính trị: “Quân đội phải luôn nhằm vào mục tiêu chính trị của Đảng để phấn đấu thực hiện. Ngoài mục tiêu đó ra, Quân đội không còn mục tiêu chính trị nào khác”(3).

Quân đội phải luôn nhằm vào mục tiêu chính trị của Đảng để phấn đấu thực hiện. Ngoài mục tiêu đó ra, Quân đội không còn mục tiêu chính trị nào khác.

Đồng chí yêu cầu cán bộ các cấp phải quán triệt, thực hiện tốt quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Quân sự phải tuyệt đối phục tùng chính trị, phải thấu triệt quan điểm “người trước, súng sau”, thực hành đến cùng nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Đó là cơ sở lý luận, nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Đồng chí cho rằng, lý luận cách mạng là ngọn đèn pha hướng dẫn Quân đội, là một nguyên nhân căn bản của sự lớn mạnh và chiến thắng của Quân đội.

2. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh góp phần xây dựng, bổ sung, phát triển lý luận chính trị quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngày 11/7/1950, Tổng cục Chính trị được thành lập theo Sắc lệnh số 121/SL về tổ chức Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh được giao làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ Tổng Tư lệnh.

Từ thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lượng công tác chính trị, đồng chí có những chỉ đạo sâu sát, đề xuất với Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy các chủ trương, biện pháp đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận chính trị quân sự, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp ứng yêu cầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh cho rằng: “lãnh đạo chính trị là một vấn đề căn bản trong cuộc đấu tranh cách mạng giữa ta và địch, làm gốc cho mọi vấn đề khác, cho tất cả các mặt khác, các ngành khác của mọi hoạt động quân sự”(4).

Theo đó: Muốn lãnh đạo Quân đội về chính trị phải xây dựng vững chắc vị trí, vai trò của Đảng trong Quân đội. Vấn đề mấu chốt và trọng tâm của công tác chính trị là phải nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Đây là nhân tố quyết định sự tồn tại, trưởng thành của Quân đội.

Kết hợp kinh nghiệm thực tiễn với trí tuệ tập thể, đồng chí Nguyễn Chí Thanh lãnh đạo, chỉ đạo Tổng cục Chính trị xây dựng các kế hoạch, biên soạn các tài liệu về công tác chính trị và hướng dẫn thực hiện thống nhất; tham mưu giúp Tổng Quân ủy-Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo kịp thời, hiệu quả các đợt chỉnh huấn chính trị toàn quân.

Đặc biệt, đồng chí có nhiều bài phân tích sâu sắc về mối liên hệ cơ bản giữa Quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thể hiện tư duy lãnh đạo, trình độ lý luận chính trị xuất sắc của người đứng đầu Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với tư duy lý luận chính trị quân sự sắc sảo, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã góp phần cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy đánh giá chính xác diễn tiến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng lý luận chính trị quân sự làm cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội về chính trị, tư tưởng và cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phản công và tiến công địch liên tục.

Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp là cơ sở nền tảng để Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận chính trị quân sự trong các giai đoạn sau.

3. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh góp phần phát triển, vận dụng sáng tạo lý luận chính trị quân sự của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cho rằng, chú trọng lý luận chính trị là cách tốt nhất để nâng cao trình độ của Quân đội ta, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, góp phần tăng cường sức mạnh của Quân đội về chính trị, tư tưởng, bảo đảm đủ khả năng thực hiện mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh khẳng định: “công tác đảng và công tác chính trị đã là linh hồn và mạch sống của quân đội ta, làm cho quân đội ta thực sự trở thành một đội quân của dân tộc, của giai cấp, một đội quân tất thắng”(5).

Đại tướng chỉ rõ: Nhiệm vụ của công tác Đảng, công tác chính trị là quán triệt sâu sắc sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với Quân đội, tập trung giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng cho Quân đội, củng cố lập trường giai cấp công nhân, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tăng cường củng cố đoàn kết, ý chí chiến đấu của Quân đội.

Cuối năm 1964, trên cương vị Bí thư Trung ương Cục, kiêm Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh khái quát thành tư tưởng, phương châm chỉ đạo chiến lược, cụ thể: Kiên quyết tiến công, liên tục tiến công, cứ đánh Mỹ rồi tìm ra cách đánh Mỹ, buộc Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta…

Bằng sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, từ thắng lợi các trận đánh phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Bàu Bàng, Đất Cuốc… Đại tướng tổng kết thành những phương châm chiến lược: Bám thắt lưng địch mà đánh, 10 kinh nghiệm đánh Mỹ của Củ Chi, Vành đai diệt Mỹ… góp phần quan trọng để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hoạch định đường lối đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó dự báo. Đất nước sau gần 40 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội…

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1/1/1914-1/1/2024), cán bộ, đảng viên, chiến sĩ toàn quân tiếp tục đẩy mạnh học tập, rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng lý luận cách mạng, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; đồng thời, tăng cường nghiên cứu, vận dụng sáng tạo di sản quý về lý luận chính trị quân sự của Đại tướng, cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
_________________
(1) Nhiều tác giả, Tổng tập Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tập 1, quyển 2, Nxb Thời đại, H, 2013, tr.552.
(2) Nhiều tác giả, Tổng tập Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tập 1, quyển 1, Nxb Thời đại, H, 2013, tr.56.
(3) Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2013, tr.241.
(4) Tổng tập Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tập 1, quyển 2, Sđd, tr.39.
(5) Tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.238.
Ảnh: Đại tướng Nguyễn Chí Thanha và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao đổi tình hình chiến sự chiến trường miền Nam (5/7/1967).
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: 10 DẤU ẤN CỦA TUỔI TRẺ TOÀN QUÂN NĂM 2023!

     Ban Thanh niên Quân đội (TNQĐ) cho biết, năm 2023, công tác TNQĐ đã hoàn thành tốt chương trình, nhiệm vụ, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Điều này được minh chứng qua 10 hoạt động tiêu biểu của tuổi trẻ toàn quân!

Rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo
Năm 2023, 100% cơ sở Đoàn đã tổ chức phát động phong trào “TNQĐ rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới”, với các mục tiêu: một tập trung, hai xung kích, ba sáng tạo.

Trong đó, 100% cán bộ, đoàn viên thanh niên (ĐVTN) có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng; trong sáng, mẫu mực về đạo đức, lối sống; chấp nhận gian khổ, hi sinh, quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; kết quả kiểm tra các nội dung huấn luyện 100% đạt yêu cầu, có trên 85% khá, giỏi; không có vụ việc vi phạm kỷ luật nghiêm trọng; 100% tổ chức Đoàn đăng ký và phấn đấu có công trình tham gia Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo (TTST) cấp toàn quân; phối hợp tham gia các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ môi trường; giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; 100% cán bộ Đoàn sử dụng thành thạo phương tiện kỹ thuật phục vụ cho học tập, làm việc, giao tiếp, truyền thông trên nền tảng số…

Triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc
Thực hiện Nghị quyết và cụ thể hóa phân bổ chỉ tiêu nhiệm kỳ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII, toàn quân đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu học tập Nghị quyết với nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục.

Nổi bật như tổ chức 18.200 buổi học tập trung, 9.350 buổi tọa đàm, diễn đàn; 5.674 buổi sinh hoạt chuyên đề; triển khai các công trình nghiên cứu khoa học gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội; tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả nghiên cứu, học tập bằng hình thức thi viết, kết quả có 100% đạt yêu cầu, trên 80% đạt khá, giỏi. 100% các đơn vị hoàn thành việc học tập Nghị quyết đúng kế hoạch của Ban Thường vụ T.Ư Đoàn và hướng dẫn của Ban TNQĐ.

Xuân biên cương, hải đảo - Tết thắm tình quân dân
Đây là chương trình Tết quân dân đặc sắc của tuổi trẻ Quân đội được tổ chức tại hơn 350 điểm trên cả nước. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc, chương trình góp phần đem đến một mùa xuân ấm áp tình quân dân, với nhiều nội dung phong phú.

Trong chương trình, diễn ra nhiều hoạt động như lễ hội “Bánh chưng xanh” kết hợp tuyên truyền, giáo dục về truyền thống văn hóa, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian; tu sửa, thăm viếng gần 2.000 nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ trên địa bàn đóng quân; tặng 68.500 bánh chưng, bánh tét, 20 “Ngôi nhà 100 đồng”; trao hơn 19.000 suất quà, 260 sổ tiết kiệm, 420 học bổng và 250 xe đạp cho các đối tượng chính sách, học sinh vượt khó, học giỏi; khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hơn 20.000 người... với tổng trị giá hơn 35 tỷ đồng.

Vinh danh Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân
Năm 2023, chương trình Tuyên dương Gương mặt trẻ tiêu biểu và Gương mặt trẻ triển vọng toàn quân tiếp tục được Quân ủy T.Ư, Bộ Quốc phòng chủ trì tổ chức, với sự tham dự và phát biểu chỉ đạo của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng. Trong số 10 Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân, có hai cá nhân được bình chọn Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu là Thượng úy Lê Hảo (Quân khu 7) và Đại úy quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Như Thành (Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội); Thượng úy Vũ Trung Kiên (Quân chủng Hải quân) được bình chọn là Gương mặt trẻ Việt Nam triển vọng.

Tôn vinh các nhà khoa học trẻ áo lính
Năm 2023 tiếp tục ghi dấu ấn đậm nét về sự phát triển của phong trào Sáng tạo trẻ và hoạt động Giải thưởng TTST trong Quân đội. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tới dự và phát biểu tại Lễ tổng kết, trao Giải thưởng TTST trong Quân đội lần thứ 23.

Giải thưởng TTST cấp toàn quân lần này có 616 công trình của 43 cơ quan, đơn vị tham gia, tăng 65 công trình so với năm trước. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã tặng Bằng khen cho 20 tập thể; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị tặng Chứng nhận cho 321 công trình đoạt giải nhất, nhì, ba, khuyến khích; T.Ư Đoàn tặng Huy hiệu TTST cho tác giả, nhóm tác giả có công trình đoạt giải nhất. Chủ nhiệm các công trình giành giải ba trở lên được xem xét, đề nghị thăng quân hàm, nâng lương bảo lưu thành tích trước thời hạn, xét nguyện vọng khi tốt nghiệp.

Chiến dịch Thanh niên tình nguyện Hè
Với phương châm “Rộng khắp - an toàn - hiệu quả - bền vững”, chiến dịch tập trung vào các hoạt động: Xung kích hướng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở các cơ quan, đơn vị; tuyên truyền cho ĐVTN về nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, giải pháp xây dựng tổ chức lực lượng, kỹ năng đấu tranh trên không gian mạng; hỗ trợ các cơ sở kinh doanh, tiểu thương gắn mã QR, thanh toán không dùng tiền mặt và các hoạt động an sinh xã hội...

Chiến dịch đã thu hút trên 860 nghìn lượt cán bộ, ĐVTN trong và ngoài Quân đội tham gia; 60.000 lượt ĐVTN và người dân được tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, Luật giao thông đường bộ, nâng cao năng lực ch.uyển đ.ổi s.ố; đăng tải 856 tin, bài, hình ảnh tuyên truyền về kết quả chiến dịch; tặng 10.000 suất quà cho các đối tượng chính sách, học sinh nghèo vượt khó học giỏi; trao tặng 30 “Ngôi nhà 100 đồng”.

Nằm trong chiến dịch, chương trình “Tuổi trẻ với biển, đảo quê hương” được tổ chức sôi nổi, rộng khắp với các hoạt động: Khám, tư vấn sức khỏe, phát thuốc miễn phí cho hàng nghìn người; trao tặng trên 4.000 phần quà, 10.000 cờ Tổ quốc, hàng chục nghìn tấn lương thực, thực phẩm cho các đối tượng chính sách, ngư dân có hoàn cảnh khó khăn, tặng 280 xe đạp cho học sinh nghèo… với tổng trị giá gần 10 tỷ đồng.

Chương trình “Tri ân tháng 7”
Kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, toàn quân đã tổ chức hơn 4.000 buổi sinh hoạt chính trị, tọa đàm, diễn đàn thanh niên, gặp mặt nhân chứng lịch sử với chủ đề “Theo dấu chân những người anh hùng”, “Tri ân những người con trung hiếu” và chương trình “Nhắn tin tri ân Liệt sĩ”.

Tham gia củng cố, tu sửa, vệ sinh, nâng cấp các nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn đóng quân; thăm và tặng hàng chục nghìn suất quà, học bổng; khám bệnh, tư vấn sức khỏe, cấp thuốc miễn phí cho hàng trăm nghìn người thuộc đối tượng chính sách, các cháu học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học giỏi; trao tặng 15 “Ngôi nhà 100 đồng”, với tổng trị giá gần 20 tỷ đồng. Trong đó, điểm nhấn là lễ thắp nến tri ân và giao lưu nghệ thuật “Tiếng gọi non sông - Khát vọng cống hiến” được tổ chức quy mô cấp toàn quân tại Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố Cần Thơ.

Lan tỏa ý thức thượng tôn pháp luật
Năm 2023, các đơn vị trong toàn quân đã tổ chức thành công các cuộc thi về pháp luật và đạt thành tích cao tại các cuộc thi cấp toàn quốc. Tiêu biểu như cuộc thi tìm hiểu “Thanh niên Quân đội thượng tôn pháp luật”, thu hút đông đảo cán bộ, ĐVTN trong toàn quân tham gia với gần 290 nghìn bài dự thi; cấp trực thuộc Quân ủy T.Ư - Bộ Quốc phòng có 2.981 bài thi; cấp toàn quân có 431 bài thi.

Đồng thời, tổ chức và tham gia cuộc thi tiểu phẩm “Tuổi trẻ Việt Nam xung kích, sáng tạo vận động nhân dân chấp hành pháp luật” với 6.268 tác phẩm dự thi. Ở cấp toàn quốc, cơ quan thường trực đã tiếp nhận 746 tiểu phẩm dự thi, trong đó có 345 tiểu phẩm của Quân đội và 401 tiểu phẩm của các tỉnh, thành đoàn, đoàn trực thuộc.

Cùng với đó, tại vòng chung kết Hội thi Olympic toàn quốc các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường” lần thứ V, đội tuyển TNQĐ đã xuất sắc giành giải nhất. Trong cuộc thi tìm hiểu Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII cấp toàn quốc, đội tuyển TNQĐ giành giải khuyến khích.

Ngày hội “Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông”
Ở cấp toàn quân, ngày hội được Ban TNQĐ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức tại hai tỉnh Thái Nguyên và Nghệ An. Hưởng ứng năm An toàn giao thông 2023 với chủ đề “Thượng tôn pháp luật để xây dựng văn hóa giao thông an toàn”, cán bộ, ĐVTN các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Quân đội tham gia ngày hội đã bày tỏ quyết tâm cao thực hiện tốt cuộc vận động “Thanh niên với văn hóa giao thông”; xây dựng văn hóa giao thông văn minh, lịch sự, an toàn; với tinh thần tình nguyện, xung kích, sáng tạo. Trong ngày hội, đã diễn ra hoạt động tuần hành tuyên truyền về văn hóa giao thông, hướng dẫn thực hành lái xe an toàn và hội thi “Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông”.

Tham mưu ban hành các thông tư quan trọng
Theo đó, Ban TNQĐ và các cơ quan, đơn vị liên quan đã tiến hành khảo sát việc thực hiện và những vướng mắc, hiệu quả thực tiễn các Thông tư, Quyết định của Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị về quy chế tổ chức, hoạt động Giải thưởng TTST (Thông tư số 164/2018/TT-BQP) và quy chế bình chọn Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân (Quyết định số 294/QĐ-CT). Trên cơ sở tổng hợp những ý kiến đóng góp thiết thực Ban TNQĐ đã tham mưu với thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị ban hành các thông tư mới phù hợp hơn./.








Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHIỀU ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH XỬ LÝ KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI!

     Bộ Quốc phòng vừa ban hành Thông tư 143/2023 quy định về xử lý kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thông tư có hiệu lực từ 15/2/2024!
Thông tư mới được ra đời thay thế Thông tư 16/2020 của Bộ Quốc phòng về kỷ luật quân đội. So với thông tư cũ có 47 điều, thông tư mới gồm 59 điều, quy định chi tiết về nguyên tắc, thời hạn, hình thức và thẩm quyền xử lý kỷ luật quân đội, nêu rõ hành vi vi phạm và hình thức kỷ luật tương ứng.

Trong đó, về nguyên tắc kỷ luật, mọi vi phạm kỷ luật khi được phát hiện phải ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh. Hậu quả do vi phạm kỷ luật phải được khắc phục theo đúng quy định pháp luật.

Mỗi hành vi vi phạm kỷ luật chỉ bị xử lý một lần bằng một hình thức kỷ luật. Nếu người vi phạm từ 2 hành vi trở lên, phải xem xét, kết luận về từng hành vi và quyết định chung bằng một hình thức cao nhất. Trường hợp xử lý nhiều hình thức kỷ luật do cấp có thẩm quyền quyết định.

Việc xử lý kỷ luật phải bảo đảm khách quan, công bằng, nghiêm minh, chính, xác, kịp thời; đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục; đúng quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Thông tư nêu rõ nguyên tắc đồng bộ giữa kỷ luật quân đội với kỷ luật về Đảng; kỷ luật quân đội không thấp hơn kỷ luật về Đảng và cũng không thay thế kỷ luật về Đảng.

Việc xử lý vi phạm kỷ luật phải căn cứ vào nội dung, động cơ, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm, hoàn cảnh cụ thể, các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng, thái độ tiếp thu sửa chữa, việc khắc phục khuyết điểm, hậu quả.

Thông tư nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hành vi vi phạm trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật; không áp dụng các hình thức kỷ luật khác thay cho hình thức kỷ luật được quy định tại thông tư. 

Về đối tượng xử lý, Thông tư quy định không xử lý kỷ luật tập thể đối với cơ quan, đơn vị hoặc nhóm người vi phạm kỷ luật; chỉ xem xét xử lý kỷ luật thuộc về trách nhiệm của người chỉ huy và từng cá nhân vi phạm.  

Khi xử lý kỷ luật, ngoài hình thức kỷ luật đối với từng hành vi vi phạm, nếu vi phạm gây thiệt hại về vật chất, người vi phạm còn phải bồi thường. Tài sản, tiền, vật chất do hành vi vi phạm mà có phải được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.  

Người chỉ huy các cấp phải chịu trách nhiệm về tình hình vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của quân nhân thuộc quyền, tùy tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả gây ra của vụ việc và mức độ liên quan.

Thông tư cũng quy định người vi phạm sẽ không chuyển công tác khi chưa được xử lý vi phạm.

Với người thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật có dấu hiệu tội phạm, cơ quan, đơn vị không giảm quân số quản lý mà chuyển hồ sơ vi phạm sang cơ quan điều tra trong quân đội để xử lý.

Trường hợp bị tòa án xét xử và tuyên phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo, Thông tư nêu rõ chỉ giải quyết chế độ, chính sách sau khi bản án hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật và đã xử lý hình thức kỷ luật tương ứng quy định./.

Yêu nước ST.

Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2023

Nông dân Việt Nam chủ động, tích cực tham gia hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế

 Nông dân các cấp, nhất là các nội dung liên quan về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tham gia giám sát hoạt động của chính quyền, thực hiện công vụ của đảng viên, cán bộ, công chức. Hội Nông dân các cấp phát huy quyền làm chủ của nông dân ở cơ sở, tham gia giải quyết, hòa giải những mâu thuẫn trong nội bộ nông thôn, giải quyết những khó khăn, bức xúc của nông dân, giữ gìn sự đoàn kết; tích cực tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền, vận động nông dân, ngư dân tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập dân tộc và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước.

Các cấp Hội Nông dân chủ động, tích cực tham gia hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách phát triển đất nước và đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, những thành tựu trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước, những giá trị văn hóa của con người và đất nước Việt Nam đến các tổ chức, đối tác, bạn bè quốc tế.

Các cấp Hội Nông dân cần tăng cường phối hợp và thực hiện có hiệu quả hơn nữa các chương trình phối hợp với các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội cùng cấp; tiếp tục đổi mới phong cách, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội Nông dân các cấp, lấy sự gương mẫu của mỗi đồng chí ủy viên làm nền tảng, tập trung dân chủ là nguyên tắc, vận động, thuyết phục là phương thức hoạt động; nêu cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, nhất là người đứng đầu Hội Nông dân các cấp.

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu ngày càng giàu đẹp, hùng cường; tất cả vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.

NXV.


Đổi mới phương thức hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam ngang tầm nhiệm vụ

 Các cấp Hội cần tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu quả, sáng tạo. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Nông dân các cấp bảo đảm số lượng, chất lượng, đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là ở cơ sở. Cán bộ Hội các cấp nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về hội nhập, hợp tác quốc tế, kỹ năng nghiệp vụ; gắn đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị với nghiệp vụ công tác hội nông dân; quan tâm đến đối tượng chi hội trưởng chi hội nông dân, nâng cao chất lượng hội viên, củng cố cơ sở Hội vững mạnh.

Các cấp Hội cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở; đa dạng hóa công tác tuyên truyền, khơi dậy ý chí, khát vọng của nông dân gắn với các hoạt động thiết thực của Hội...

Tăng cường tham gia đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho nông dân và lao động nông thôn; tuyên truyền, vận động nông dân tham gia học nghề; tư vấn về nghề nghiệp, việc làm, thành lập doanh nghiệp, trang trại và cơ sở sản xuất, kinh doanh. Các cấp Hội làm tốt vai trò là đầu mối, phối hợp tổ chức truyền thông và tham gia tập huấn, đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với các mô hình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi; tổ chức tốt các hoạt động cung ứng thiết bị, vật tư nông nghiệp, hỗ trợ nông dân đầu tư cho sản xuất, nuôi trồng, chăn nuôi...

NXV.



Hội Nông dân Việt Nam đổi mới phương thức hoạt động để ngang tầm với nhiệm vụ

 Trong xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh, cùng cả nước hướng tới mục tiêu trở thành một nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Hội Nông dân cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội; xây dựng Hội Nông dân Việt Nam ngày càng vững mạnh, thực sự là tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân; phát huy thật tốt vai trò là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân, là cầu nối giữa nông dân với Đảng, Nhà nước; là nhân tố tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, liên minh "công nhân-nông dân-trí thức"; chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đối ngoại nhân dân.

Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội phải đáp ứng được yêu cầu nâng cao trình độ, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân cùng với sự phát triển của đất nước; phát huy vai trò nông dân là chủ thể, là trung tâm trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới, tăng cường dân chủ ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tích cực hội nhập quốc tế, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

NXV.



Ngành ngoại giao và Đối ngoại cả nước cần luôn luôn phải quan tâm kết hợp nhuần nhuyễn sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại;

 Ngoại giao Việt Nam luôn luôn phải kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tùy theo từng vấn đề, từng thời điểm và tùy theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: "Dĩ bất biến ứng vạn biến", "thêm bạn bớt thù", "sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai". Việt Nam luôn sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm

với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.

Luôn luôn phải quan tâm xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân như lời căn dặn của Bác Hồ: "Sự nghiệp làm nên bởi chữ Đồng". Đường lối đối ngoại đúng đắn, giương cao ngọn cờ chính nghĩa và sự triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách cụ thể đã góp phần tạo nên sự đồng thuận cao của toàn bộ hệ thống chính trị, sự đoàn kết của toàn dân tộc và sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế” .

NXV.

Phát triển nền đối ngoại, ngoại giao đậm bản sắc 'cây tre Việt Nam'

 Trong gần 40 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên một trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam".

Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được tổ chức vào ngày 14/12/2021, chúng ta đã thống nhất cao khẳng định về sự hình thành, phát triển của Trường phái đối ngoại, ngoại giao "cây tre Việt Nam": Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Ngành ngoại giao và Đối ngoại cả nước cần luôn luôn phải quan tâm kết hợp nhuần nhuyễn sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế; tăng cường công tác nắm bắt tình hình, phân tích, dự báo, kịp thời tham mưu điều chỉnh, bổ sung những xu hướng mới và những vấn đề mới phát sinh để cụ thể hóa, xây dựng và tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chương trình, kế hoạch cụ thể của từng cơ quan, đơn vị một cách đồng bộ, khoa học, bài bản, thống nhất.

NXV.

PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN LÀ CÓ TỘI VỚI NHÂN LOẠI!

 

Tổ chức khủng bố Việt Tân luôn rêu rao: “Đúng 32 năm cái nôi của thế giới cộng sản bị sụp đổ”. Đây chiêu trò, luận điệu sai trái hòng phủ nhận giá trị khoa học, cách mạng và tính thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đặc biệt, sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, các thế lực thì địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản; thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” trong các nước xã hội chủ nghĩa; gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ thì lôi kéo, tiến hành bạo loạn chính trị; làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa; chuyển hoá văn hoá, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo “giá trị Mỹ”, phương Tây; thực hiện âm mưu “phi chính trị hoá” để “vô hiệu hoá” quân đội trong các nước xã hội chủ nghĩa.

 


   Chủ nghĩa Mác ra đời trong lòng các nước tư bản vào những năm 40 của thế kỷ XIX; được Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và đưa chủ nghĩa Mác trở thành hiện thực ở nước Nga Xô viết, mở ra giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, phản ánh đúng quy luật khách quan vận động của lịch sử, là ánh sáng soi đường chỉ lối để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình: xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mặc dù Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ hơn 30 năm, nhưng không thể phủ nhận được giá trị khoa học và tính thời đại của Chủ nghĩa Mác- Lênin. Chủ nghĩa Mác- Lênin vẫn là học thuyết cách mạng nhất, triệt để nhất, hoàn bị nhất, chỉ ra con đường đấu để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh.

 

Trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nói chung, Việt Tân nói riêng đang làm mưa, làm gió trên không gian mạng, mỗi chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này. Trong đó, luôn kiên định và thực hiện triệt để, đồng bộ một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, cùng học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, những thắng lợi "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu của cách mạng Việt Nam ở thế kỷ XX và thành tựu của của gần 40 năm đổi mới của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - cơ sở tiền đề để khẳng định giá trị khoa học, cách mạng và  mang tính của Mác - Lênin.

Thứ ba, nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn chức trách, nhiệm vụ được giao, kiên quyết chống lại các quan điểm sai trái thù địch, đang ra sức phủ nhận vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng hiện nay.

Trước những thông tin xâu đôcc, xuyên tạc của Việt Tân và các thế lực thù địch trên không gian mạng, mỗi chúng ta cần phải hiểu rõ bản chất vụ việc, làm tốt công tác tuyên truyền cho cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị và người thân, làm tốt công tác quản lý tình hình tư tưởng, kỷ luật trong đơn vị, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong thực hiện nhiệm vụ. Khi tiếp xúc với các thông tin có liên quan đến Quân đội ta, mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên, học viên, chiến sĩ toàn quân cần phải hết sức bình tĩnh và tỉnh táo, tìm hiểu và nhận thức rõ bản chất vụ việc để có cái nhìn tổng thể, khách quan, chính xác nhất về bản chất vụ việc để không mắc mưu chia rẽ Quân đội với Nhân dân của các thế lực thù địch, càng không nghe theo bọn xấu xúi giục để có những phát ngôn, hành động gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vi phạm pháp luật; phải vững tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin vào Đảng, Nhà nước, Quân đội; tích cực vạch mặt những âm mưu, luận điệu xuyên tạc, hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội; khi đăng tải, chia sẻ, bình luận phải có trách nhiệm với các bài viết trên mạng xã hội, đừng vì những luận điệu xuyên tạc, không đúng sự thật của lịch sử để dẫn đến mắc mưu, tiếp tay cho các thế lực thù địch, trong đó cả bọn Việt Tân.

                                                                                                BT