Hiển thị các bài đăng có nhãn BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Trị bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên ở cơ sở

 

Cán bộ, đảng viên là hạt nhân xây dựng tổ chức cơ sở đảng, là cầu nối giữa Ðảng với nhân dân; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

TĂNG CƯỜNG ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC, HIỆN THỰC HÓA KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

 


Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “... phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chỉ có thể được hiện thực hóa bằng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, Đảng ta xác định: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Đây là cơ sở để nhận thức và giải quyết tốt vấn đề có tính nguyên tắc của phát triển và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.

Cảnh giác với luận điệu bôi nhọ phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ

 


Xét về bản chất, âm mưu, thủ đoạn nêu trên của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là nhằm tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, chuyển hướng chính trị Quân đội ta từ quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sang kiểu quân đội tư bản, nhà nghề do giai cấp tư sản lãnh đạo, phục vụ cho mục đích của giai cấp tư sản.

Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới

 


Để tiếp tục phát huy truyền thống quân đội, tô thắm danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ trong hoàn cảnh mới đòi hỏi toàn quân phải thực hiện tốt Nghị quyết số 847-NQ/QU/TW ngày 28-12-2021 về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới.Nghị quyết đã thể hiện tính lý luận, tính khoa học, tính thực tiễn, những yêu cầu cấp thiết và giải pháp cơ bản nhằm củng cố sức mạnh cho quân đội phát triển lâu dài.Đồng thời, nghị quyết cũng đề cập rất rõ những đặc trưng cơ bản của Bộ đội Cụ Hồ, có bổ sung nhiều ý mới, làm phong phú hơn nội hàm của vấn đề và những vấn đề cốt lõi không bị bỏ qua.

Giá trị to lớn của danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ

 


Trên thế giới, không có một dân tộc nào giống dân tộc ta, trong 79 năm qua, kể từ ngày giành lại độc lập đã phải tiến hành tới 3 cuộc chiến tranh vệ quốc với mục tiêu cao quý là giành độc lập cho Tổ quốc, thống nhất cho giang sơn, hạnh phúc cho dân tộc.“Làm thế nào mà một dân tộc nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đánh thắng các thế lực ngoại xâm có tiềm lực vật chất hùng hậu gấp bội như vậy?”, nhờ xương máu, mồ hôi và những giá trị cao đẹp được kiên trì theo đuổi, Bộ đội Cụ Hồ đã góp phần lớn lao vào sự nghiệp xây dựng và củng cố cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế mà đất nước ta có được ngày nay.Tình cảm của Bác với quân đội và tình cảm của quân đội với Bác là một mẫu mực hiếm thấy về mối quan hệ giữa lãnh tụ với những cán bộ, chiến sĩ quân đội cách mạng, chỉ thấy ở Bác Hồ, ở danh xưng cao quý mà nhân dân dành cho Bộ đội Cụ Hồ, ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không chỉ dũng tướng mà còn là nhân tướng, là điển hình tiêu biểu cho các tướng lĩnh trong thời đại Hồ Chí Minh, thực sự là người Anh Cả của bộ đội Việt Nam.Mẫu mực ấy còn thể hiện ở hành động dũng cảm hy sinh của lớp lớp chiến sĩ các thế hệ nối tiếp nhau cảm tử để Tổ quốc quyết sinh, tô thắm trang sử vàng truyền thống của quân đội ta, tô thắm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Việc giữ gìn và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bởi danh hiệu cao quý này có từ thời kháng chiến chống Pháp được nhân dân yêu quý trìu mến gọi cho đến ngày nay.

THỜI CƠ CỦA CHIẾN THẮNG 30 – 4 – 1975 VÀ BÀI HỌC CHO HÔM NAY

 


          Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là chiến thắng oanh liệt nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chiến thắng 30 – 4 – 1975 là kết quả hội tụ của nhiều yếu tố, trong đó vấn đề nắm vững thời cơ cách mạng để giành thắng lợi là yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên chiến thắng.

LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN

 


          Thời gian gần đây JB Nguyễn Hữu Vinh viết tại trang “Rfavietnam”: “Chấn hưng văn hóa hay mở cửa cho tham nhũng văn hóa?”. Thông qua bài viết Y đã cố tình xuyên tạc khối liên minh công – nông – trí thức, khi lu loa rằng “đưa giai cấp công nhân được gọi là tiên tiến, giai cấp bần cố nông liên minh lên lãnh đạo xã hội, thực chất là phá vỡ hoàn toàn quy luật kinh tế xã hội và tiêu diệt những mầm mống tinh hoa của nền kinh tế đất nước”.

SỐNG VÀ LÀM VIỆC THEO HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT

 


          Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải gương mẫu thực hiện pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy định của địa phương, đơn vị, thực hiện tốt 10 lời thề danh dự của quân nhân; 12 điều kỷ luật. Nói cách khác, nếu buông lỏng kỷ luật, xa rời hoặc vi phạm nguyên tắc, quân đội không thể hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

PHÁT HUY VAI TRÒ, SỨC MẠNH CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG THỰC HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

      Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược tạo ra sức mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp các ngành. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong đó, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc: lấy dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ của dân, nguồn lực nhân dân, thực hiện đoàn kết toàn dân; lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng và do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động; tổ chức đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất; lấy tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục làm phương thức hoạt động chủ yếu.

ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC - CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA MỌI THÀNH CÔNG

       Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công, chiến thắng. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.

Vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề những năm sau khi đất nước thống nhất bởi hậu quả tàn phá nặng nề của chiến tranh kéo dài chưa kịp được khắc phục, đất nước bị bao vây, cấm vận, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bộc lộ nhiều khiếm khuyết…, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng mặt trận dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc và phát huy mạnh mẽ vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa đất nước tiến lên.

Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội kịp thời có chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp với mọi lực lượng nhân dân tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần động viên nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, mở rộng quan hệ hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng ta và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc” để từng bước đẩy lùi và vượt qua đại dịch COVID-19. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân; vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và các chương trình an sinh xã hội...

Những kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.

       Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH VỚI CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA

       Tăng cường đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phản động và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quá trình thực hiện mục tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ toàn quân cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, trách nhiệm trong chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phát huy vai trò đối ngoại quân sự trong nâng cao năng lực dự báo diễn biến tình hình nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Kịp thời phát hiện, kiên quyết đấu tranh phòng, chống những biểu hiệu tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, bệnh thành tích, không dám xử lý sai phạm; thiếu gương mẫu, xa rời quần chúng; nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm, làm không đến nơi đến chốn, v.v.. Chủ động nắm, quản lý và giải quyết tốt tư tưởng của bộ đội, kịp thời định hướng tư tưởng trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, góp phần nâng cao sức đề kháng, tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ.

     Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ phải thấu suốt các mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới quan điểm, phương châm Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; Bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; chủ động phòng ngừa; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và mà Đảng ta đã xác định. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt, trình độ lý luận chính trị, lập trường tư tưởng kiên định, vững vàng, tuyệt đối tin tưởng, trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, Nhân dân, Quân đội và thành công của công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUAN ĐIỂM CỦA DẢNG VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ VÀ TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ, BẢO ĐẢM KỶ CƯƠNG XÃ HỘI

 Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ lớn được Đại hội XIII của Đảng chính thức bổ sung. Tăng cường pháp chế là yếu tố bảo đảm, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân được thực hành thực chất và rộng rãi trong thực tiễn; trong khi đó, thực hành dân chủ được mở rộng và phát huy sẽ là điều kiện và tiền đề để pháp chế được tăng cường và kỷ cương trong xã hội được tôn trọng. Trong mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội, thì nhân dân luôn vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu.

Một là, cần tăng cường tuyên truyền để nhân dân hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.

Hai là, cần hoàn thiện và tổ chức thực thi có hiệu quả chính sách, pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quyết định những vấn đề lớn của đất nước, sao cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế bảo vệ hiệu quả để người dân thực hiện dân chủ trực tiếp, tham gia quản trị nhà nước, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Ba là, nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đề ra. Đó là, “tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Theo đó, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới, nhất là việc tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và tăng cường trách nhiệm giải trình của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố trung tâm, quan trọng trong giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương, phù hợp với mỗi giai đoạn, bối cảnh cụ thể khác nhau. Không thể đưa phương pháp lãnh đạo thời kỳ này áp dụng cho thời kỳ khác. Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh, kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tận tụy phục vụ nhân dân. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong bộ máy nhà nước có nghĩa vụ làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao theo thẩm quyền và khi có yêu cầu. Thực hiện nghĩa vụ này góp phần quan trọng trong việc minh bạch hóa hoạt động của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin của nhân dân nói riêng và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước nói chung.

Năm là, xử lý kịp thời, công minh các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại quyền làm chủ của nhân dân và các hành vi lạm dụng kỷ cương hạn chế quyền con người, quyền công dân trái Hiến pháp, pháp luật, trên tinh thần hiến định: quyền con người, quyền công dân chỉ có thể hạn chế bằng luật. Hiện nay, chế tài đối với hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đã được pháp luật quy định khá cụ thể; tuy nhiên, đối với hành vi lạm dụng kỷ cương với những hình thức biểu hiện khác nhau để hạn chế quyền tự do, dân chủ trái Hiến pháp, pháp luật, cũng cần bổ sung các quy định xử lý phù hợp để phòng ngừa và ngăn chặn.

VỀ MỐI QUAN HỆ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN VỚI VỚI BẢO ĐẢM KỶ CƯƠNG KỶ LUẬT

 

Trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội, pháp luật, pháp chế tuy là những yếu tố quan trọng để điều hành bộ máy nhà nước, quản lý xã hội nhưng bên cạnh đó không thể thiếu kỷ cương. Pháp luật, pháp chế có đầy đủ đến đâu cũng không thể bao quát hết được các quan hệ xã hội mà nó cần điều chỉnh, nên bên cạnh đó, cần có kỷ cương. Kỷ luật, kỷ cương trong xã hội ở chừng mực nhất định được hiểu là trạng thái ở đó xã hội và các quan hệ tương tác giữa người với người nằm trong một trật tự ổn định; đôi khi còn được hiểu chính là những quy tắc, quy định do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội nhằm duy trì xã hội hoặc các thành tố của xã hội trong một trật tự nhất định.

Kỷ cương đóng vai trò quan trọng cho việc vận hành xã hội có nền nếp, trật tự. Không ai khác, chính nhân dân là chủ thể tạo nên kỷ cương của xã hội. Tuy vậy, nhân dân không thể đứng ngoài hay đứng trên kỷ cương mà nhân dân cũng phải chịu điều chỉnh bởi kỷ cương. Không có kỷ cương thì không có sự phát triển của xã hội và theo đó dân chủ cũng không được phát huy. Kỷ cương được đặt ra để mọi người cùng tuân thủ, chấp hành, chính là vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi công dân khi có quyền làm chủ thì phải tự giác thực hiện nghĩa vụ của người làm chủ. Quyền lợi gắn liền với nghĩa vụ, lợi ích gắn liền với trách nhiệm. Đó là thực chất của dân chủ.

Trong bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, dân chủ và kỷ cương là hai mặt thống nhất trong chỉnh thể cơ chế vận hành đúng đắn, lành mạnh của xã hội, nghĩa là: trong yếu tố dân chủ thực sự đã bao hàm cả yếu tố kỷ cương và kỷ cương để bảo đảm cho tính dân chủ được vững chắc; trong yếu tố kỷ cương đã bao hàm cả tính chất dân chủ của nó. Ngày nay, dân chủ và kỷ cương là hai thành tố (trạng thái) khác nhau nhưng có quan hệ gắn bó, không thể tách rời nhau. Dân chủ là quá trình phát triển từ thấp đến cao, tùy từng giai đoạn nhất định và có giới hạn là kỷ cương, pháp chế, buộc tất cả mọi người phải tuân thủ. Cũng như dân chủ, kỷ cương cũng phải được định chế bởi pháp luật, không lợi dụng kỷ cương để can thiệp vào quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tức là, kỷ cương là nhân tố làm cho dân chủ được phát huy đúng định hướng, không vượt qua giới hạn được phép.

Như vậy, xét tổng thể mối quan hệ trên, nhân dân là nhân tố then chốt, quyết định, kết nối các thành tố cấu thành. Bởi lẽ, nhân dân là trung tâm, là gốc rễ của quyền lực nhà nước, xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”;  “Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Pháp chế, kỷ cương sẽ không được thực hiện nếu không có dân chủ, dân chủ không được phát huy, nhân dân không được làm chủ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy: Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội ít nhiều còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực chưa nghiêm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo còn thiếu tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi còn có biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Ở nơi nào dân chủ không được bảo đảm, thì ở đó, pháp chế, kỷ cương bị buông lỏng và ngược lại… Do vậy, thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội phải được tiến hành đồng bộ, tuyệt đối không được coi nhẹ mà bỏ qua bất kỳ nhiệm vụ nào, trên cơ sở phát huy cao độ vai trò của nhân dân

NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN VỚI TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

        Là người đặt nền móng, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định và quyết tâm thực hiện phương châm: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Thể chế hóa quan điểm này, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Nhân dân là người chủ thực sự của đất nước bởi nhân dân là lực lượng hùng hậu nhất, to lớn nhất, quý giá nhất, tạo nên sức mạnh to lớn “lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong xây dựng và phát triển đất nước.

Sự tồn tại của bất cứ nhà nước nào cũng không thể thiếu pháp luật. Pháp luật là phương tiện quan trọng hàng đầu để nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Không có pháp luật, nhà nước không thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, pháp luật không phải yếu tố duy nhất để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Pháp luật chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi được mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân nỗ lực thực thi trong thực tiễn. Nếu nhân dân không tuân theo pháp luật thì sẽ không có pháp chế và mọi nỗ lực của nhà nước sẽ không mang lại hiệu quả. Hệ thống pháp luật tiến bộ mang trong mình bản chất dân chủ, vì quyền con người, quyền công dân nên đó cũng chính là công cụ, phương tiện để nhân dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình và ngược lại khi pháp chế được thực hiện nghiêm sẽ xử lý theo pháp luật các hành vi xâm phạm tới dân chủ, bảo vệ và nuôi dưỡng thực hành dân chủ chân chính phát triển. Vì thế, việc ban hành pháp luật là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là tổ chức pháp luật trong thực tiễn. “Thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước”. Sự nghiêm minh của pháp luật trong thực tiễn chính là hình thức thể hiện của pháp chế và đòi hỏi phải có sự tham gia của nhân dân, mọi cơ quan, tổ chức.

Dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với pháp luật, thực hiện pháp luật, phát huy vai trò, giá trị của pháp luật trong cuộc sống. Dân chủ và thực hành dân chủ thúc đẩy việc tăng cường pháp chế và sự tăng cường pháp chế là điều kiện căn bản bảo đảm thực hành dân chủ và kỷ cương xã hội. Nhân dân đóng vai trò quyết định trong việc bảo đảm pháp chế, nhưng nhân dân không thể đứng trên pháp luật, pháp chế. Việc tuân theo pháp luật, bảo đảm cho pháp chế được thực thi là trách nhiệm, nghĩa vụ của nhân dân. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để dân chủ được phát huy trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Do đó, cần hoàn thiện và tổ chức thực thi có hiệu quả chính sách, pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quyết định những vấn đề lớn của đất nước, sao cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế bảo vệ hiệu quả để người dân thực hiện dân chủ trực tiếp, tham gia quản trị nhà nước, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

PHÁT HUY VAI TRÒ LÀM CHỦ CỦA NHÂN NHÂN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

          Tiến trình phát triển của Nhà nước và xã hội có những bước thăng trầm ở từng giai đoạn khác nhau nhưng nhân dân luôn giữ vị trí trung tâm, vai trò then chốt trong mọi cuộc cách mạng và trong sự nghiệp đổi mới. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh, ở đâu và khi nào biết lấy dân làm gốc, chăm lo đến đời sống của nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, thì ở đó “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong” và nhấn mạnh thêm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”.

Trong bất kỳ nhà nước nào, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng quản lý. Gốc rễ của quyền lực nhà nước thuộc nhân dân, các cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền thực hiện sứ mệnh vinh quang nhưng cũng không kém phần nặng nề của mình là phục vụ nhân dân theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta là nước dân chủ, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Tinh thần này được thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhận thức rất rõ sự cần thiết của phát huy dân chủ thông qua việc xây dựng Hiến pháp, nền tảng pháp lý quan trọng hàng đầu đối với các quốc gia, dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đặt ra yêu cầu: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Theo đó, một trong ba nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam (Hiến pháp năm 1946) là bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Tinh thần này xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước nói chung và quá trình lập hiến nói riêng. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở Hiến pháp, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng phát huy dân chủ. Đại hội VI của Đảng khẳng định: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là nguyên tắc trong quản lý xã hội. Trên tinh thần đó, thể chế về dân chủ ngày càng được hoàn thiện cả phương diện đường lối, chính sách và pháp luật, cũng như triển khai thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.

Phát huy dân chủ là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn và được thực hiện trên cả hai phương diện: người dân tích cực chủ động trong công việc, Nhà nước quản lý xã hội theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị phải được thiết kế sao cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc nhân dân; cán bộ, công chức, viên chức là công bộc, đầy tớ của nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải thực sự nhận thức được vị trí, vai trò và thực hiện đúng chức trách của mình. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”. “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. “Phải dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”.

Vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền để nhân dân hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Lật tẩy thủ đoạn gây chia rẽ khối đại đoàn kết tôn giáo, chống phá Đảng, Nhà nước

 Thời gian qua, với sự chung tay, đồng lòng của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội và đồng bào các tôn giáo, khối đại đoàn kết các tôn giáo ngày càng vững chắc, đi vào chiều sâu. Tại nhiều cộng đồng dân cư, đồng bào theo hay không theo các tôn giáo tích cực chung tay, phấn đấu để xây dựng quê hương, đất nước, giáo hội ngày càng giàu mạnh. Chính sự gắn kết trong khối đại đoàn kết các tôn giáo đã, đang góp phần tạo nên sức mạnh chung của toàn dân tộc, là động lực giúp đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức để hội nhập và phát triển.

Hiểu rõ ý nghĩa Giỗ Tổ Hùng Vương, phản bác các quan điểm sai trái

 Đã từ lâu, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch hằng năm) đã trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống, có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống người dân Việt Nam. Đây không chỉ là dịp để tưởng nhớ, tri ân, gặp gỡ, giao lưu mà còn là diễn đàn, đợt sinh hoạt chính trị, văn hoá, tập hợp và phát huy sức mạnh của các tổ chức, cá nhân, là chất keo kết dính khối đại đoàn kết toàn dân tộc cùng nhau xây dựng đất nước ngày càng ấm no, hạnh phúc.

NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIẾN BƯỚC CÙNG NHÂN LOẠI

 


            Gần đây bài viết “Nền văn hóa lạc loài” của Nguyễn Ngọc Già được phát tán rộng rãi trên nhiều diễn đàn phản động. Bài viết có nội dung xuyên tạc, phủ nhận đường lối đúng đắn và kết quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được trên lĩnh vực văn hóa. Bởi vậy, cần đấu tranh và khẳng định một số vấn đề như sau:

PROJECT88 XUYÊN TẠC, BỊA ĐẶT TÌNH HÌNH DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

 


            Một trong những chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch, phản động, và những đối tượng cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Bằng chứng là, gần đây trên trang mạng xã hội của Đài VOA đã phát tán bài viết có tựa đề: “Project88 tố cáo Chỉ thị 24 của Bộ Chính trị Việt Nam vi phạm nhân quyền”. Bài viết cho rằng: Chỉ thị 24-CT/TW ngày 13/7/2023 của Bộ Chính trị về “đảm bảo vững chắc an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thương mại” là: mối đe dọa đối với an ninh quốc gia và đưa ra kế hoạch đối phó với những mối đe dọa ấy bằng cách vi phạm một cách hệ thống các quyền của 100 triệu người dân trong nước;… và “các lãnh đạo Việt Nam tuyên chiến với nhân quyền”… Đây là những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt một cách trắng trợn về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

MỌI QUYỀN LỰC ĐỀU THUỘC VỀ NHÂN DÂN

 


            Như thường lệ, mỗi khi lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam bắt giữ những kẻ có hành động “tuyên truyền chống nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để điều tra làm rõ hành vi phạm tội, thì các thế lực thù địch, điển hình là Bùi Thanh Hiếu gắn cho cái mác “nhà phản biện chính sách” để tiếp tục các chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân ta.