Hiển thị các bài đăng có nhãn BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Đặc điểm tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII


Một là, phản ánh bước tiến xã hội giai đoạn chủ nghĩa tư bản đang hình thành, biến đổi và sự suy đồi của của chế độ phong kiến. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII nảy sinh trong quá trình châu Âu và Mỹ có sự chuyển biến từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa, sự xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi thế giới. Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này phản ánh sinh động diễn biến, tư tưởng trong cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ chống lại chế độ phong kiến, từng bước thiết lập hệ thống chính trị tư sản.

Hai là, có tính hệ thống và khá toàn diện trong đó thể hiện nổi bật tư tưởng công hữu về ruộng đất và bình đẳng xã hội mặc dù còn sơ khai và còn nhiều hạn chế. Với các cấp độ khác nhau, tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII dần dần được đúc kết có tính hệ thống, hình thức thể hiện tư tưởng có sự phân tích, lập luận logic.

Ba là, con đường và phương pháp mang tính bạo lực là chủ yếu. Nếu như tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ cổ đại, trung đại mới dừng lại ở khát vọng, mơ ước về một xã hội tương lai tốt đẹp bằng con đường, phương pháp để hiện thực hóa những mong ước đó là lý tưởng hóa trạng thái xã hội tốt đẹp của con người trong các áng văn, thơ, tiểu thuyết, giáo lý tôn giáo; đến thời kỳ này, tư tưởng về con đường và phương pháp xây dựng xã hội mới đa số mang tính bạo lực.

Bốn là, hình thức tư tưởng đa dạng, với nhiều dự án xã hội. Các đại biểu tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đã biểu đạt tư tưởng của mình dưới nhiều hình thức đa dạng như thông qua một câu chuyện hư cấu, hoặc dưới dạng một luận văn, cương lĩnh cách mạng để thể hiện hiện tính phong phú, muôn vẻ của xã hội trong tương lai.

Năm là, vẫn thiếu tính lý luận, còn mang nặng tính ảo tưởng, xa rời thực tế. Mặc dù tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu thời kỳ này được thể hiện đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung vẫn thiếu tính lý luận, còn mang nặng tính ảo tưởng, thiếu thực tế, nặng về duy tình.

 

 

 

 

 

 

 

  

Giá trị và hạn chế trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu theo tư tưởng không tưởng


Về giá trị

Trước hết, tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu thế kỷ XVIII chứa đựng giá trị nhân đạo nhân văn sâu sắc. Các tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVIII đều phản ánh lý tưởng giải phóng con người, những người lao động bị áp bức bóc lột, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc rộng lớn nó bênh vực, thông cảm và thương xót đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ, bị áp bức bóc lột thậm tệ với các tai họa và tệ nạn xã hội trong các chế độ tư hữu và giải phóng họ khỏi các chế độ đó.

Hai là, tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu thế kỷ XVIII đã lên án, phê phán chế độ tư hữu sâu sắc. Nhìn chung các tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVIII đều phê phán lên án chế độ tư hữu, sự áp bức bóc lột bất công. Đặc biệt là phê phán sự phân chia giai cấp, đẳng cấp xã hội. Qua đó, vạch trần bản chất bóc lột và tội ác xấu xa của giai cấp thống trị cũng như chế độ xã hội đương thời.

Ba là, tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu thế kỷ XVIII có giá trị thức tỉnh đa số nhân dân lao động. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các đại biểu thời kỳ này đã góp phần cổ vũ, thúc đẩy tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng lao khổ, kêu gọi nhân dân lao động vùng dậy đấu tranh chống lại chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công…dù là đấu tranh tự phát, vô vọng, hay thất bại.

Bốn là, tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đã phác thảo “mô hình” chung về một xã hội mới mang tính xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ thế kỷ XVIII đã phác thảo mô hình xã hội mới tốt đẹp trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị văn hóa, xã hội. Nhìn chung các tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVIII đều thể hiện tinh thần bình đẳng yêu thương nhau, mọi người đều được học hành, vui chơi, hôn nhân và gia đình được tự do, hạnh phúc, văn hóa, xã hội công bằng văn minh.

Về hạn chế

Một là, chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mặc dù, các nhà tư tưởng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XVIII đã bênh vực những người nghèo khổ, song chưa ai trong số họ nhìn thấy nhân tố cách mạng trong những người nghèo khổ; chưa ai phát hiện ra lực lượng xã hội có tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ tư bản chủ nghĩa lên cộng sản chủ nghĩa.

Hai là, chưa thấy được con đường để đi tới xã hội tương lai tốt đẹp. Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này mong muốn một xã hội tốt đẹp nhưng họ chủ trương đi đến xã hội công bằng bằng con đường cải cách dần dần, thuyết phục giáo hóa bằng tư tưởng chứ không phải bằng con đường đấu tranh cách mạng, cải biến cách mạng. 

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng của Grắccơ Babớp (1760-1797)

 


Grắccơ Babớp tên thường gọi là Ph.răng xoa Nôen. G.Babớp sinh 1760, trong một gia đình công nhân nghèo. Năm 20 tuổi ông làm nhân viên lưu trữ hồ sơ. Công việc này đã giúp ông có điều kiện tiếp xúc nhiều nguồn tư liệu, qua đó nâng cao hiểu biết về nhiều lĩnh vực xã hội. G.Babớp hiểu rõ cơ chế thống trị của giới quý tộc. Từ đó, Ông có thái độ căm ghét chế độ phong kiến sâu sắc.

Khi cuộc cách mạng 1789 nổ ra, G.Babớp đang sống ở Pari và tích cực tham gia vào cuộc cách mạng như nhiều thanh niên lúc bấy giờ. Sau cuộc chính biến ngày 9 tháng Nóng năm 1794, ông bị bắt và bị cầm tù ở nhà tù Arát năm 1795. Thời gian này đánh dấu sự phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa của ông. Tháng 10.1795, ông được thả ra cùng với một số bạn chiến đấu của mình. Cuối năm đó, ông tổ chức một Hội mang tên “Câu lạc bộ Păngtêông”. Các thành viên chủ chốt của Hội có tư tưởng cách mạng, chống giai cấp tư sản. Họ đã tiến hành các hoạt động tuyên truyền cổ động, tập hợp lực lượng cách mạng.

Để tuyên truyền những tư tưởng cộng sản, phái Babớp đã xuất bản hai tạp chí “Diễn đàn nhân dân” và “Người khai sáng”. Tuy nhiên, kế hoạch khởi nghĩa của G.Babớp và các chiến hữu của ông bị bại lộ, nhiều người tham gia bị bắt và bị kết án. Babớp bị xử chém vào ngày 27/5/1797.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa của G.Babớp

Trong quan niệm của G.Babớp về chủ nghĩa xã hội, ông chịu ảnh hưởng tư tưởng của chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII, tư tưởng về một cuộc cách mạng của nhân dân lật đổ chế độ bóc lột của G.Mêliê, chủ nghĩa cộng sản không tưởng của Ph.Morenly với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của khuynh hướng cực tả của cách mạng Pháp.

G.Babớp là người đầu tiên trong lịch sử cận đại đã cố gắng biến chủ nghĩa xã hội từ quan niệm tư tưởng thành vấn đề thực tiễn cách mạng. Trong bản “Tuyên ngôn của những người bình đẳng” ông đã vạch ra một cương lĩnh hành động cách mạng, với kế hoạch và các biện pháp cụ thể để có thể thực hiện được các tư tưởng cộng sản, bảo đảm cải thiện tình cảnh của người nghèo và trấn áp các hành động chống đối của các lực lượng phản cách mạng. Trong đó, biện pháp đầu tiên là cách mạng sẽ nắm việc tổ chức sản xuất bánh mì cho nhân dân và trung ương (cưỡng bức) các lò bánh mì tư nhân vào sản xuất bánh mì, nếu chủ lò nào chống lại sẽ bị trừng trị nghiêm. Thứ hai là, chính phủ cách mạng sẽ nắm, quản lý tất cả các nhà cửa của bọn giàu có để chia cho dân nghèo. Thứ ba là, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, buộc các chủ hiệu cầm đồ trả lại các đồ vật của dân đã mang đi cầm cố. Thứ tư là, chính phủ sẽ chiếm giữ kho bạc, bưu điện, các kho tàng của lực lượng phản cách mạng. Thứ năm là, tịch thu các tài sản của bọn phản động chạy trốn để phân phối cho những người cách mạng, những người có công. Ngoài ra, còn các biện pháp có tính lâu dài để củng cố và giữ vững các thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới.

G.Babớp đã đề ra tư tưởng về sự cần thiết phải thực hiện nền chuyên chính cách mạng của những người lao động. Đó là tước đoạt tài sản của giai cấp bóc lột. Thực hiện các hành động trấn áp sự phản kháng của kẻ thù. Ông tuyên bố “cần phải dùng bàn tay sắt để trấn áp mọi kẻ thù”. Cuộc đấu tranh đó không phải chỉ được bắt đầu từ lúc nó được tuyên bố công khai mà nó diễn ra mãi mãi. Nó được bắt đầu cùng với sự xuất hiện những thể chế tìm cách tranh của cải vào tay một số người này và tước đoạt tất cả của những người khác. Sự nổi dậy của những người bị áp bức chống những kẻ áp bức sẽ bùng nổ khi nào đa số bị dồn đến tình trạng không thể chịu đựng được nữa. Theo G.Babớp, cuộc nổi dậy đó chỉ là bước đầu, nó phải đi đến cùng, đến cuộc cách mạng vĩ đại hơn. Ông tin rằng, cuộc cách mạng ấy nhất định sẽ phải nổ ra vì gốc rễ của chế độ cũ đã mục ruỗng, và các tệ nạn xã hội của chế độ đó đã phát triển đến mức tột cùng.

Phác họa mô hình xã hội tương lai

Về kinh tế, xã hội cộng sản là một công xã lớn gồm những người công dân muốn cùng làm việc theo nguyên tắc cộng sản và cùng nhau hưởng thụ thành quả chung. Quá trình hình thành công xã vừa là quá trình tước đoạt của kẻ giàu vừa là quá trình tự nguyện hiến của cải của mọi người công dân. Đồng thời nền kinh tế được tổ chức một cách tập trung, thống nhất, trên cơ sở bình đẳng cùng với việc nhà nước tính toán nhu cầu xã hội để xác định xem sản xuất và tiêu thụ như thế nào là hợp lý. Babớp cũng đề cập đến việc đưa máy móc và áp dụng các phương pháp giảm nhẹ những công việc nặng nhọc cho người lao động. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Công dân được nhận từ xã hội những thứ cần thiết để thoả mãn nhu cầu cơ bản của mình. Xã hội phân phối sản phẩm cho mọi người theo phương châm “phải chăng, chân thật”.

Về chính trị, chính phủ do cách mạng lập ra phải là hình thức “chuyên chính cách mạng của những người lao động” được coi là điều kiện chính trị cần thiết để tiến hành công cuộc cải tạo xã hội. Phái Babớp quy định “những người lao động không có ích cho xã hội thì không được hưởng bất kỳ quyền lợi chính trị nào. Lao động có ích là lao động trong các lĩnh vực: chăn nuôi, trồng trọt, hằng hải, cơ khí, giao thông vận tải, khoa học…Lao động chân tay là tiêu chuẩn số một để có quyền lợi chính trị. Lao động trí óc phải được chứng minh thất sự là có ích cho tổ quốc”

Chế độ xã hội mới là xã hội mọi người được lao động và hưởng thành quả lao động chung trong các công xã. Trong nước cộng hòa tổ chức một công xã lớn toàn quốc bao gồm tất cả tài sản quốc gia. Nhà nước kêu gọi công dân tự nguyện hiến tài sản của mình cho công xã; thủ tiêu quyền thừa kế tài sản; những người chết thì tài sản của họ phải chuyển vào công xã. Việc tước đoạt tài sản của những người chiếm hữu lớn tư liệu sản xuất sẽ tiến hành dần dần, từng bước, chứ không thể và không nên tước đoạt ngay.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng của Gabrien Bonnô Đờ Mably (1709-1785)

 

 


G.Mably sinh năm 1709 trong một gia đình quí tộc ở Gronôbo. Cha của ông là nghị sĩ. Hồi nhỏ ông được gia đình gửi đến học ở trường dòng thuộc chủng viện Xanh Xuynpitxơ, thủ đô Pari (Pháp). Học xong nhận được chức tu viện trưởng, không lâu sau đó, ông quyết định từ bỏ tôn giáo và đi vào nghiên cứu khoa học. Ông cũng có một thời gian làm việc ở Bộ ngoại giao (1742-1748).

G.Mably viết nhiều sách, nghiên cứu về chính trị, xã hội đương thời. Ông là tác giả của trên 30 đầu sách. Những tác phẩm nổi tiếng của ông bao quát nhiều vấn đề lịch sử, chính trị, pháp luật như: “Nhận xét về người La Mã” (1751); “Nhận xét về người lịch sử nước Pháp- quyền và nghĩa vụ công dân” (1758); “Về việc làm luật và các nguyên tắc của pháp luật” (1776); “Những nghi vấn đặt ra cho các nhà triết học - kinh tế trên vấn đề trật tự tự nhiên và cần thiết của các xã hội chính trị (1786); “Bút ký về sự quản lý và những luật lệ của Mỹ”. Những quan điểm triết học của Lốc cơ (1632-1704, Anh), của Côngđiắc (1715-1780, Pháp) là cơ sở lý luận của các tư tưởng xã hội - chính trị của Mably.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa của G.Mably

Tư tưởng phê phán chế độ xã hội đương thời

Trước hết đó là tư tưởng phê phán chế độ tư hữu. G.Mably phản đối luận điểm cho rằng chỉ có chế độ tư hữu mới là yếu tố kích thích con người làm việc. Theo ông, chế độ tư hữu đã làm nảy sinh những ham muốn xấu xa, bỉ ổi, từ đó làm cho những kẻ tư hữu có các hành động ti tiện, tàn bạo để thoả mãn những ham muốn đó. Khi chưa có chế độ tư hữu thì con người chỉ toàn có những đam mê lành mạnh, trong sáng, vì vậy, trong xã hội chỉ có các quan hệ gắn bó, hữu ái giữa người với người. Ông khẳng định rằng, chừng nào chế độ tư hữu còn tồn tại thì công bằng, bình đẳng xã hội không bao giờ có được và xã hội không thể có dân chủ thực sự. Bọn quí tộc, tư sản tài chính sẽ thâu tóm quyền lực và đẩy các dân tộc đi đến các cuộc chiến tranh đẫm máu. Trong cuốn sách “Nhận xét về Hoa kỳ”, ông đã kết luận: sự phát triển của một chế độ quí tộc tài chính, sự tăng trưởng của tình trạng bất bình đẳng về của cải, mà Hoa kỳ đang phát triển theo hướng ấy sẽ dẫn Hoa kỳ đến chỗ không tránh khỏi việc thiết lập một chế độ tàn bạo của bọn nhà giàu và đến các cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia khác. Lịch sử 200 năm sau này của Hoa kỳ đã chứng minh tính đúng đắn kết luận đó của G.Mably.

Ông vạch trần sự mục ruỗng và phản động của chế độ chuyên chế. Chế độ chuyên chế làm cho xã hội có nguy cơ bị tiêu vong vì bệnh hoại thư do sự thối nát của nó gây ra. Cho nên, cần phải lật đổ nền chuyên chế này. Ông cổ vũ cho cuộc nội chiến cách mạng để thủ tiêu chế độ chuyên chế. Theo ông, một dân tộc không muốn kháng cự kẻ thù bên trong của mình, thì nhất định phải bị áp bức. Ông khẳng định rằng chế độ chuyên chế và chế độ tư bản không thể tồn tại mãi. Ông dự đoán chẳng bao lâu nữa nền quân chủ ở Pháp sẽ sụp đổ và cả nước Anh rồi cũng sẽ mất hết thuộc địa.

Về xã hội tương lai, trên cơ sở lý thuyết về trạng thái tự nhiên, G.Mably đặt vấn đề: nếu trong lịch sử nhân loại đã từng có cả một thời đại lâu dài và hiện giờ ở một số nơi trên trái đất này vẫn tồn tại một xã hội dựa trên chế độ cộng đồng về ruộng đất, tài sản thì tại sao lại không thể xây dựng một chế độ sở hữu tập thể chí ít là đạt sự công bằng về tài sản trong hiện tại và tương lai. Tiếp đó ông kết luận cần phải xóa bỏ chế độ tư hữu hiện nay, để xác lập chế độ công hữu. Ông khẳng định trong chế độ công hữu có nhiều yếu tố kích thích sự hang say lao động một cách mạnh mẽ hơn. Chế độ đó sẽ thể hiện được đầy đủ tính ưu việt của nó và sẽ đem lại cho con người ấm no, tự do, hạnh phúc và thoả mãn các nhu cầu khác.

Về tổ chức, quản lý sản xuất, xã hội tổ chức lao động hợp lý, thực hiện chế độ lao động bắt buộc với mọi người, mọi người đều phải lao động. Xã hội không cho phép có kẻ ăn không ngồi rồi, ăn bám người khác. Theo G.Mably, trong xã hội mới thì lao động không chỉ là nghĩa vụ mà còn là vinh dự. Ai cũng hang say lao động cho chính mình và cho xã hội trong những tập đoàn sản xuất tùy theo sức khỏe. Luật lệ xã hội làm tăng sự kính trọng đối với lao động. Về phân phối, xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu.

Về chính trị, G.Mably không tán thành quan điểm phân chi quyền lực của Môngtexkiơ. Ông khẳng định người chủ của nhà nước là nhân dân. Ông chủ trương, trong chế độ xã hội mới, nhà nước được xây dựng trên cơ sở dân chủ, thông qua lựa chọn của các đại biểu nhân dân. Nhà nước có chức năng tổ chức lao động và phân phối sản phẩm cho toàn dân, duy trì trật tự xã hội và bảo vệ phong tục tập quán. Trong xã hội mới, mọi công dân sẽ có ý thức đoàn kết trên cơ sở thống nhất lợi ích chung, sẵn sàng đứng lên chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của mình. Khi đất nước có nạn ngoại xâm, tất cả mọi người, nam và nữ, sẽ đứng lên cầm vũ khí chiến đấu. Xã hội không có phân chia đẳng cấp, không có quân đội thường trực.

Về văn hóa- xã hội, G.Mably đề cao công tác giáo dục, mong muốn xã hội thực hiện chế độ giáo dục toàn dân không mất tiền. Đặc biệt, xã hội chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ về mọi mặt để họ kế tục xứng đáng thế hệ cha anh và đáp ứng được những yêu cầu và lợi ích chung của xã hội trong tương lai, trở thành những công dân toàn diện. Nền tảng của đạo đức xã hội đó là mọi người cần phải thực hiện nguyên tắc luân lý: “Hãy đừng làm cho người khác điều gì mà mình không muốn người khác làm cho mình”.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng của Phơrăngxoa Morenly

 


Tiểu sử của Ph.Morenly còn chưa rõ ràng, tác phẩm nổi tiếng của Ph.Morenly là “Bộ luật tự nhiên”, xuất bản năm 1755 ở Amxtecđam (Hà Lan) và đến 1841 được tái bản, ghi tên là Ph.Morenly. Có thể cái tên Ph.Morenly là một bút danh của một người nào đó.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Ph.Morenly

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng của Ph.Morenly dựa trên lý thuyết về quyền bình đẳng tự nhiên của con người. Theo Ph.Morenly, trong giai đoạn đầu xã hội loài người không có chế độ tư hữu. Trong “Bộ luật tự nhiên”, Ông chứng minh rằng con người vốn sinh ra đã là bình đẳng, đó là lẽ tự nhiên và phù hợp với tự nhiên. Chế độ xã hội của loài người đã từng tồn tại ở trạng thái bình đẳng, đó là chế độ cộng đồng công xã nguyên thuỷ, và hiện nay những dấu hiệu đó vẫn còn tồn tại ở một số nơi trên thế giới.

Một trong những nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng của Ph.Môrenly thể hiện rõ nét là quan điểm xóa bỏ chế độ tư hữu. Ông cũng nhận thức sâu sắc rằng chế độ tư hữu là nguồn gốc của mọi tệ nạn xã hội. Do đó, muốn xóa bỏ những điều tệ hại, xấu xa cần phải thủ tiêu chế độ tư hữu trong đời sống xã hội. Ông cho rằng, ở nơi nào không có quyền tư hữu thì ở đó không thể có một hậu quả nguy hại nào của nó... Trong bất cứ xã hội nào, mọi quyền tư hữu về những của cải được phân chia đều là nguồn gốc của những tai hại tày trời.

Mô hình xã hội tương lai. Ph.Morenly đã mơ ước về một xã hội tốt đẹp với đặc trưng: chế độ công hữu là nền tảng xã hội. Đây là nét nổi bật trong tác phẩm Bộ luật của tự nhiên. Theo ông, chế độ công hữu phù hợp với đức hạnh tự nhiên của con người; mỗi nơi đều làm việc tùy theo sức lực, khả năng và đều được xã hội chăm sóc; trong xã hội, lao động không chỉ là nghĩa vụ mà chủ yếu là do tự giác, bởi lẽ lao động là nhu cầu của con người.

Về kinh tế, mô hình xã hội tương lai của Ph.Môrenly về kinh tế được phác hoạ trên cơ sở quan niệm về “thời đại hoàng kim” đã từng tồn tại trong lịch sử nhân loại. Đó là chế độ công xã nguyên thuỷ. Do đó, ông chủ trương cần khôi phục lại chế độ công hữu về của cải. Trong xã hội, mỗi người đều phải lao động, được phân công công việc sát hợp với khả năng, sở trường và sức khoẻ của mình. Xã hội có trách nhiệm chăm lo toàn diện đến cuộc sống của mọi thành viên.

Về chính trị, Ph.Morenly chủ trương thành lập chế độ cộng hòa dân chủ. Trong đó, nhà nước phải quản lý, điều tiết mọi hoạt động sản xuất, phân phối của cải và duy trì được các lĩnh vực đời sống xã hội ổn định, hài hòa. Để quản lý tổ chức xã hội, ông đề ra sự cần thiết phải có luật pháp. Muốn vậy, cần thay thế các luật lệ cũ bằng những bộ luật mới, trên cơ sở kế thừa những tập quán cũ, “thời đại hoàng kim” và bổ sung những nội dung mới. Trong “Bộ luật tự nhiên”, ông nêu lên xã hội cần phải có những bộ luật như: luật phân phối, luật ruộng đất, luật qui hoạch đô thị, luật trật tự xã hội, luật cấm xa xỉ, luật cai trị, luật hôn nhân, luật giáo dục, luật hoạt động khoa học.

Con đường biện pháp để thực hiện các dự án xã hội mới của Ph.Morenly không phải là đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ xã hội đương thời bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân mà bằng các biện pháp có tính chất không tưởng. Đó là sự ảo tưởng có thể xóa bỏ chế độ tư hữu và chế độ xã hội đương thời bằng cách làm cho nhà cầm quyền, những kẻ giàu có biết điều, có đạo đức, lương tâm và mọi người trong xã hội phải có học thức, hoặc bằng cách thay đổi luật lệ. Như vậy, rõ ràng là trên phương diện xã hội, Ph.Môrenly mặc dù có những tư tưởng tiến bộ, có tính xã hội chủ nghĩa trong việc phê phán chế độ tư hữu, để xóa bỏ nó, thiết lập chế độ công hữu, thức tỉnh con người sống hưởng thiện và nhân ái, song về xã hội ông vẫn là một nhà duy tâm chủ quan và cũng hết sức mơ hồ.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng của các đại biểu tiêu biểu của Giăng Mêliê (1664-1729)

 


Giăng Mêliê sinh năm 1664 tại làng Madécvi miền SămPanhơ (Pháp) trong gia đình thợ dệt. Hồi nhỏ, ông học trong trường dòng. Tại đây ông được nghiên cứu các nhà triết học, thần học và chịu nhiều ảnh hưởng các quan điểm triết học duy vật, vô thần theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Năm 23 tuổi, ông được phong làm linh mục và đi hành đạo ở một làng quê có tên là Eitơrơpênhi và ở đó đến tận cuối đời.

Là môn đồ tôn giáo, lại trực tiếp cai quản tín đồ ở một làng quê, nên G.Mêliê rất gần gũi với nông dân. Ông hiểu biết sâu sắc tình hình nông thôn và cuộc sống của nông dân ở đây. Ông cảm thông sâu sắc với những suy tư thầm kín và những khát vọng của nhân dân. Ông thường đứng về phía nông dân chống lại bọn địa chủ bóc lột họ bằng sưu cao, thuế nặng và áp bức, đánh đập họ tàn nhẫn. Ông chống lại sự áp bức của tôn giáo. Trong những năm cuối đời, tại chính làng quê này, ông đã viết cuốn sách nổi tiếng “Di chúc của tôi”, trong đó chứa đựng nhiều tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng”.

Nội dung tư tưởng xã hội chủ nghĩa của G.Mêliê

Phê phán xã hội đương thời, Giăng Mêliê vạch rõ, xã hội đương thời có quá nhiều kẻ ăn bám, những kẻ sống phè phỡn trên lưng người lao động và bằng mồ hôi, nước mắt của họ. Ông lên án bọn vua quan từ nhà vua đến tên nhân viên thu thuế, từ bọn quý tộc đến tên địa chủ ở nông thôn. Ông cho rằng mọi tội ác trên đời, những bất công, những vụ cướp đoạt trên biển, trên đất liền, những cuộc tàn sát dã man đều là do bàn tay vấy máu của bọn vua quan gây ra, xuất phát từ lòng tham, thói ích kỷ và sự độc ác của chúng. Ông nguyền rủa tình trạng bất bình đẳng xã hội, sự phân chia đẳng cấp. Đó là tình trạng tất cả của cải và mọi sự thoả mãn đều là đặc quyền, đặc lợi của bọn vua quan, bọn giàu có, còn quần chúng lao động thì phải làm việc cực nhọc và không được hưởng thụ những thứ do mình làm ra, phải sống nghèo đói.

Giăng Mêliê vạch rõ, nguồn gốc của mọi bất công, tội ác của chiến tranh, bất hạnh... là do chế độ tư hữu gây ra. Vì vậy cần phải xóa bỏ tư hữu cùng với xóa bỏ bọn vua quan, kẻ ăn bám. Nét độc đáo ở Giăng Mêliê ở chỗ ông là một môn đồ của tôn giáo, song lại là người chống lại tôn giáo mạnh mẽ, trên quan điểm duy vật. Hơn thế, ông còn làm tất cả những gì để giáo dục phổ cập tư tưởng chống tôn giáo cho nhân dân.

Giăng Mêliê không dừng lại ở sự chỉ trích, tố cáo, mà ông tiến xa hơn khi ông là người kêu gọi, động viên, phát động nhân dân đứng lên đấu tranh xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, xã hội bất công đó. Ông có thái độ không thoả hiệp với các giai cấp thống trị. Ông đòi hỏi quần chúng phải lật đổ và thủ tiêu ách thống trị của vua quan và tất cả bọn bóc lột, áp bức. Điều này mấy chục năm sau đã được cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp 1789 thực hiện.

Dự kiến mô hình xã hội tương lai.

Về kinh tế, Giăng Mêliê từ chỗ phủ nhận chế độ tư hữu, coi chế độ tư hữu là nguồn gốc của mọi bất công, do đó ông chủ trương xã hội mới phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về ruộng đất và mọi của cải. Xã hội được tổ chức như một gia đình thống nhất. Mọi của cải được quản lý chung, mọi người được cấp lương, được mặc, được nhà ở và tư liệu sinh hoạt khác như nhau. Các thành viên xã hội được những người tài giỏi quản lý, điều hành công việc để phát triển sản xuất và giữ gìn của cải chung.

Về phân phối, Ông chủ trương xã hội thực hiện phân phối theo nhu cầu, bảo đảm cho cuộc sống của mỗi người một cách bình quân, nếu họ làm việc có ích và khéo san sẻ. Ông viết: Nói chung nếu mọi người đều có và đều được hưởng một cách bình đẳng những của cải và những phương tiện sống, nếu họ nhất trí lo toan đến những công việc lương thiện và có ích nào đó... và nếu họ san sẻ khéo cho nhau những của cải trên trái đất và thành quả lao động và kỹ thuật của họ, thì họ sẽ khá dồi dào để sống một cách hài lòng và sung sướng.

Về chính trị, Giăng Mêliê chủ trương xây dựng tình đoàn kết, sự liên minh của các cộng đồng xã hội và dân tộc vì lợi ích chung của các dân tộc. Ông cho rằng các thành thị và các cộng đồng khác nhau sống bên cạnh nhau đều phải chăm lo xây dựng mối liên minh với nhau, không làm gì tổn hại đến cuộc sống hòa bình, hữu nghị; phải biết giúp đỡ nhau khi cần thiết. Nếu không làm được như vậy thì sẽ không thể tồn tại và phát triển và cuối cùng nhân dân sẽ bị đau khổ.

Trong “Di chúc của tôi” cũng như cuộc đời của Giăng Mêliê còn nhiều mâu thuẫn. Do điều kiện lịch sử, những ước mong của G.Mêliê còn mang tính không tưởng vì nó chưa thể thực hiện được. Nhưng “Di chúc của tôi”- với sự lên án sâu sắc xã hội đương thời, với thái độ phủ định nó một cách triệt để, với những lời hiệu triệu quần chúng đứng lên đấu tranh và với tất cả những gì Ông mong ước về một xã hội không có áp bức, bóc lột, không có chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về của cải, thực hiện bình đẳng xã hội. G.Mêliê xứng đáng được coi là người dự báo cuộc cách mạng tư sản và là nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu tiên của Pháp thế kỷ XVIII.

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG TƯỞNG THẾ KỶ XVIII

 


Châu Âu nói chung và nước Pháp nói riêng trong thế kỷ XVIII đã khẳng định sự thắng lợi căn bản có tính quyết định của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa so với phương thức sản xuất phong kiến. Giai cấp tư sản cũng đã bắt đầu vươn dài cái vòi bạch tuộc ra thế giới.

Nước Pháp trước cách mạng tư sản là một nước quân chủ chuyên chế. Đến giữa thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến chuyên chế đã báo hiệu cho thấy giờ báo tử của nó sắp điểm. Nền chuyên chính của dòng họ Buốc bông - sản phẩm của sự cố kết giữa tầng lớp quí tộc phong kiến và giáo hội Cơ đốc giáo đã mục ruỗng và đang lung lay. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và phong kiến đã lên đến cực điểm. Giai cấp tư sản Pháp - đã trở thành lãnh tụ chính trị của đẳng cấp thứ ba bao gồm các giai tầng có nhiều uất hận với phong kiến như nông dân, thợ thủ công, tầng lớp lao động, tiểu tư sản, thị dân.

Thế kỷ XVIII là thế kỷ ghi nhận sự phát triển rực rỡ của văn hóa, nghệ thuật và tư tưởng ở châu Âu, đỉnh cao là Phong trào Khai sáng. Đây là trào lưu chính trị- xã hội- tư tưởng được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Họ đề cao, ca ngợi tư tưởng tự do, dân chủ, nhu cầu vật chất của con người; họ đã tuyên chiến với lễ giáo cổ hủ phong kiến, tiến công vào giáo hội, giáo lý tôn giáo cũng như những công cụ nô dịch tư tưởng con người. Hoàn cảnh lịch sử đó đã xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng, nhiều quan niệm mới về xã hội trong đó có những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XVIII, với các đại biểu tiêu biểu như Giăng Miliê, Phrăngxoa Morenly, B.ĐờMably, Grắccơ Babơp...

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

Quân đội thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta

 


Quân đội nhân dân Việt Nam là một thành tố của hệ thống chính trị, là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua Quân đội đã phát huy tốt vai trò chức năng đội quân công tác, trong đó có thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ toàn quân về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cấp được nâng cao. Các đơn vị trong toàn quân đã có nhiều hoạt động tích cực tham gia hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào các tôn giáo, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng, chống dịch bệnh, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, gia đình văn hóa, giúp đồng bào phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt.

Công tác dân vận ở vùng đồng bào tôn giáo được tiến hành với nhiều nội dung, hình thức phong phú, mang lại hiệu quả thiết thực như: “Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận”, “Gắn kết hộ người Kinh với hộ đồng bào dân tộc thiểu số”, giúp đồng bào phát triển kinh tế hộ gia đình; “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo”; phong trào “Họ đạo gương mẫu”..., góp phần động viên tư tưởng, phát huy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tạo sự đồng thuận, niềm tin của các chức sắc, tín đồ và nhân dân vùng tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; củng cố tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở. Đồng thời, làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ và nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh, ngăn ngừa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

Các vấn đề có liên quan đến quốc phòng - an ninh ở vùng đồng bào tôn giáo như vấn đề về đất đai, cơ sở vật chất của các tôn giáo được phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chức năng ở địa phương giải quyết đúng pháp luật.

Trong những năm tới, tình hình tôn giáo thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, các hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng được truyền bá nhanh chóng giữa các quốc gia tăng lên; chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá cách mạng nước ta. Do vậy, để thực hiện tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất; trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, Quân đội cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

Tiếp tục quán triệt, học tập nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Tập trung tổ chức quán triệt, phổ biến đến mọi quân nhân Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về quân đội thực hiện công tác tôn giáo trong tình hình mới, qua đó, làm cho mọi quân nhân thống nhất nhận thức, nâng cao trách nhiệm, gương mẫu thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

Thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung tuyên truyền vận động ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, phù hợp với trình độ dân trí, tập quán và lối sống của từng dân tộc, từng tôn giáo. Phát huy vai trò của những người có uy tín, nòng cốt trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo, nhất là các quân nhân người dân tộc thiểu số và quân nhân có tín ngưỡng tôn giáo để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động ở địa bàn nơi đóng quân.

Tích cực tham gia xây dựng cơ sở địa phương vùng các tôn giáo vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể địa phương tiến hành điều tra, khảo sát, nắm vững tình hình tín ngưỡng, tôn giáo, nắm diễn biến hoạt động và những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên từng địa bàn, từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả nhất, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra.

Tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác dân vận ở các địa phương vùng đồng bào tôn giáo. Chú trọng cơ sở địa bàn vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo phù hợp với nhiệm vụ của đơn vị và đặc điểm từng địa phương. Phối hợp với các lực lượng chức năng thực hiện có hiệu quả chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh gắn với phát huy vai trò các già làng, trưởng bản, chức sắc, chức việc, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, tôn giáo, tạo sự đồng thuận trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ của địa phương.

Chủ động tham mưu giúp các địa phương vùng đồng bào tôn giáo xây dựng cơ sở chính trị, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội. Tích cực giúp đỡ đồng bào các tôn giáo phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, nghề sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng chống thiên tai, dịch bệnh; xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ vững chắc ở vùng tôn giáo.

Tham mưu và phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương xây dựng phương án tác chiến trị an, giữ gìn an ninh, trật tự địa bàn; vận động thanh niên các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ quân sự; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trên địa bàn đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đồng bào nâng cao cảnh giác, tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định chính trị ở cơ sở.

Thực hiện tốt chính sách tôn giáo đối với quân nhân là con em đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo. Phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng về mọi mặt giữa quân nhân có đạo và không có đạo; tạo điều kiện cho mọi quân nhân là con em dân tộc thiểu số, có đạo tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

 

Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn giáo.


Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[1]. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn giáo tập trung ở các nội dung sau:

Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Khoản 1, Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.

Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, là đã thực sự tôn trọng sự tồn tại khách quan của tôn giáo hiện nay. Quan điểm trên của Đảng là cơ sở bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân; Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm và bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tinh thần của bộ phận quần chúng nhân dân có đạo; thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; các tôn giáo được quyền hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.

Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.

Quan điểm của Đảng thể hiện, các tôn giáo được bảo đảm hoạt động bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật cho phép; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống cách mạng của của đồng bào có đạo, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Nghiêm cấm việc đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”[2]

Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.

Đại đa số tín đồ, chức sắc là nhân dân lao động, công tác tôn giáo không phải là hạn chế hay xóa bỏ tôn giáo mà thực chất là tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng có đạo nhận rõ nghĩa vụ và quyền lợi của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[3]

Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Giải quyết vấn đề tôn giáo là vấn đề chiến lược liên quan đến mọi mặt đời sống chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Cho nên công tác tôn giáo đòi hỏi phải có sự tham gia và thực hiện của toàn xã hội, trọng tâm là hệ thống chính trị. Khi giải quyết các vấn đề về tôn giáo phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuân theo luật pháp Nhà nước, là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội; tổ chức và cán bộ trực tiếp làm công tác tôn giáo có vai trò quyết định sự thành công trong công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

Năm là, mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ, tín đồ các tôn giáo có quyền tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự nếu như các hoạt động đó không trái với chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm trái với quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không được hoạt động mê tín dị đoan.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 171.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 50 - 51.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 171.