Thứ Ba, 31 tháng 5, 2022

KHÔNG ĐÁNH ĐỒNG GIỮA DÂN CHỦ VỚI ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG

 

Trên nhiều trang mạng của các đối tượng phản động, cơ hội chính trị đăng tải nhiều bài viết chống đối, cho rằng Việt Nam không có dân chủ vì không thực hiện đa nguyên, đa đảng; đồng thời, chúng tìm cách cổ súy tiêu chuẩn nhân quyền kiểu phương Tây, chúng cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân, Việt Nam vi phạm quyền con người; thậm chí chúng còn xuyên tạc: một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền sẽ dẫn đến ở Việt Nam không có dân chủ hoặc dân chủ hình thức.

Những luận điệu phản khoa học trên hết sức nguy hiểm bởi chúng cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ. Thực chất của luận điệu trên là muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội, tiến tới thực hiện đa nguyên, đa đảng để xóa bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, cản trở sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển là luận điệu sai trái. Bởi đất nước có dân chủ hay phát triển không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có mang bản chất cách mạng hay không, có bảo vệ quyền và lợi ích của đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội đó.

Thực tiễn cho thấy, dân chủ và sự phát triển của một đất nước không tỷ lệ thuận với số lượng các đảng mà quốc gia đó có. Vì nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay tuy đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển. Trên thế giới hiện nay vẫn có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ chế độ chính trị chỉ có một đảng cầm quyền, điều này cho thấy rằng, chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là đặc điểm chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Trải qua 92 năm ra đời và lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định vai trò không thể thay thế đối với cách mạng Việt Nam. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và Nhân dân Việt Nam đã khẳng định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là minh chứng rõ ràng rằng bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng và đối với Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền dân chủ không những không bị mất đi, không bị hạn chế mà còn được bảo đảm, được phát huy sâu rộng trong thực tế./.

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ là chủ trương nhất quán của Việt Nam

 

Thời gian gần đây, lợi dụng việc Nga tiến hành chiến dịch “Quân sự đặc biệt” vào Ukraine, nhiều người đã bày tỏ thái độ phê phán, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách nhìn nhận, ứng xử của Việt Nam trước các vấn đề liên quan đến xung đột giữa Nga và Ukraine. Đây là những ý kiến thiếu thiện chí, không thấy được tính đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của nước ta trong bối cảnh thế giới đương đại.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Có ý kiến cho rằng, trong xung đột giữa Nga và Ukraine, đường lối đối ngoại của Việt Nam là “phương cách đu dây giữa các cường quốc”. Tuy nhiên, nếu am tường về lịch sử ngoại giao nước nhà hẳn mọi người đều rõ trên con đường hội nhập và phát triển, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại trên tinh thần: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; trong đó, 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như: Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Trong thực hiện đường lối đối ngoại, Việt Nam luôn tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Đối với những vấn đề phức tạp của các quốc gia, chúng ta luôn dương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Liên quan đến tình hình xung đột giữa Nga và Ukraine hiện nay, cần thống nhất nhận thức rằng: Trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì, nhất quán thực hiện chính sách “bốn không” trong quan hệ quốc tế đó là: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Thấu hiểu những mất mát của chiến tranh, Việt Nam không muốn đất nước phải chịu cảnh chiến tranh và cũng không muốn chiến tranh xảy ra với các nước khác. Quan điểm của Việt Nam về vấn đề xung đột giữa Nga và Ukraine cũng rất rõ ràng. Phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng và Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc trong phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 1/3 vừa qua đã khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam là: Các bên cần giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp quốc; đồng thời bày tỏ sự quan ngại sâu sắc và kêu gọi kiềm chế, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài. Cùng với đó, Việt Nam cũng đã tích cực kêu gọi và đề nghị cộng đồng quốc tế thúc đẩy viện trợ nhân đạo cho dân thường, đảm bảo an ninh an toàn của người dân cũng như các cơ sở hạ tầng thiết yếu theo luật nhân đạo quốc tế. Và thực tế, bên cạnh những phát ngôn chính thức, Đảng và Chính phủ đã có những hành động nhanh chóng, thiết thực nhằm bảo hộ và đưa công dân Việt Nam về nước, góp phần giảm thiểu mất mát, bảo vệ an toàn cho các công dân Việt Nam trong cuộc xung đột giữa hai quốc gia.

Trong suốt chiều dài xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc ta luôn kiên trì đường lối đối ngoại giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa, vì hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Trong đường lối đối ngoại, chúng ta luôn học tập và làm theo tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh, đó là luôn luôn “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ” để biết mình, biết người và luôn làm chủ tình thế; đồng thời, hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn; khéo léo xử lý những quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và những nước lớn; luôn phải “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc. Đó cũng chính là cách ứng xử, hành xử khôn khéo, có lý có tình trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời khẳng định quan điểm, lập trường nhất quán của Việt Nam về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới./.

Xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh - âm mưu ngoan cố, thâm độc của các thế lực thù địch, phản động

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp chính trị cao cả, một di sản tư tưởng lý luận đồ sộ, vô giá và trở thành một biểu tượng văn hóa của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và đã kiên trì vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Với dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động không từ thủ đoạn thâm độc nào, điên cuồng xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Dã tâm đó bắt đầu từ sớm, được thực hiện bởi chủ nghĩa thực dân câu kết với chủ nghĩa chống cộng, âm mưu thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hòng dập tắt phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động chống Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được gia tăng, gắn liền với những hoạt động nhằm lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ và xóa bỏ nền độc lập mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng mới giành được. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, các thế lực thù địch, phản động tập trung xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giải phóng dân tộc, sau đó từ năm 1954 thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất nước nhà.

Khi cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng văn hóa, tinh thần của dân tộc, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, nhất là khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, thì các thế lực thù địch, phản động càng điên cuồng tìm mọi cách chống phá với nhiều thủ đoạn thâm độc, phương thức tinh vi, xảo quyệt hơn. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào, từ bóp méo sự thật lịch sử, bôi nhọ nhân cách và phẩm giá, đến đánh giá phiến diện, sai trái; thậm chí, nguy hiểm hơn, chúng còn ca tụng một cách cực đoan, hòng tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và với Đảng Cộng sản Việt Nam…

Tất cả những âm mưu và thủ đoạn thâm độc đó của các thế lực thù địch, phản động đều nhằm phủ nhận giá trị và cống hiến to lớn từ cuộc đời và sự nghiệp của Người đối với dân tộc, từ đó phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Bác Hồ; mưu đồ gây ra những bất ổn chính trị, tạo cớ cho sự can thiệp từ bên ngoài để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong chiến lược chống cộng, chiến lược “diễn biến hòa bình”, các nước đế quốc và các thế lực phản động rắp tâm tìm mọi cách “hạ bệ thần tượng” Hồ Chí Minh, bài bác, phủ nhận tư tưởng của Người, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta, âm mưu “lật đổ” trên lĩnh vực tư tưởng, mở đường cho cuộc lật đổ về chính trị.

Phương thức hoạt động chủ yếu hiện nay của các thế lực phản động quốc tế là tiến hành chiêu dụ, cấp tiền, o bế các tổ chức phản động lưu vong, lập nhiều quỹ với danh nghĩa “phi chính phủ”, “từ thiện” để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”. Chúng sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, hình thức tuyên truyền từ bên ngoài tác động vào bên trong, nhất là qua các trang thông tin quốc tế có xu hướng cực hữu chính trị, chống cộng, các phương tiện truyền thông xã hội, các đài phát thanh, kênh truyền hình… của một số đối tượng phản động, lưu vong, tổ chức phi chính phủ ở một số nước phương Tây.

Bên cạnh đó, ở trong nước, một số đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị được hậu thuẫn của tổ chức phản động nước ngoài, cũng ráo riết thực hiện hành vi tuyên truyền xuyên tạc thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng nhiều chiêu trò, nhất là sử dụng kỹ thuật, công nghệ chỉnh sửa, cắt ghép tư liệu lịch sử, tranh ảnh, phim tư liệu… để xuyên tạc, ngụy tạo những câu chuyện hoang đường, không có thật về Người. Thâm độc hơn, chúng cố tình “lập lờ đánh lận con đen”, đan cài thật - giả lẫn lộn, hòng làm vấy bẩn, bóp méo, xuyên tạc bản chất mác-xít, tính cách mạng, khoa học, nhân văn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận, đồng thời để khắc phục những hạn chế, nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, bảo đảm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng, nâng cao nhận thức của người đứng đầu cấp ủy ở các cấp, các ngành về tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã đề ra.

Thứ hai, nâng cao trách nhiệm, ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân, hình thành ý thức tự giác, thúc đẩy hành động tích cực trong việc bảo vệ, đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc hình ảnh và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ ba, nhận diện và phân loại từng đối tượng, trên cơ sở xem xét ở nhiều mặt như động cơ, vai trò, nội dung các luận điệu, mức độ tác động… để đưa ra biện pháp đấu tranh thích hợp và có hiệu quả; tránh tình trạng hoặc xử lý thiếu kiên quyết, không triệt để hoặc cực đoan, tạo cớ cho các thế lực thù địch chống phá.

Thứ tư, tăng cường các giải pháp về kỹ thuật, nghiệp vụ để ngăn chặn, sàng lọc, làm loãng, quản lý thông tin nhằm chủ động ngăn chặn sự lan truyền những luận điệu sai trái, thù địch và các trang mạng xấu, độc; xây dựng hệ bài viết có nội dung đấu tranh sắc bén và giàu tính chiến đấu, từng bước giành thế chủ động trên không gian mạng. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, sắp xếp, kiện toàn bộ máy chỉ đạo, nhóm chuyên gia, lực lượng nòng cốt (từ Trung ương đến địa phương), đổi mới mô hình và phương thức hoạt động; đặc biệt, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các lực lượng, các cấp, các ban, ngành và phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ năm, đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, phản động phải đi liền với việc khẳng định và phát triển các giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; với việc rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, chú trọng nghiên cứu, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên những vấn đề lớn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta qua hơn 35 năm đổi mới dưới sự soi sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh là minh chứng đanh thép, sống động và thuyết phục nhất để phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, đồng thời khẳng định giá trị, tính đúng đắn, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Không thể phủ nhận thành quả cách mạng

 

Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có được những thành tựu đó là do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự cố gắng to lớn, đáng tự hào của toàn dân và toàn quân ta.

Tuy nhiên các thế lực thù địch, phản động luôn cố tình đổi trắng, thay đen, xuyên tạc bản chất, tính chất và những thành tựu to lớn của dân tộc ta trong sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược, đặc biệt là những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Chúng cho rằng đất nước đang rơi vào tụt hậu, nghèo nàn, thiếu đường hướng xây dựng, phát triển.

Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn xứng đáng với sự lựa chọn, giao phó của lịch sử, niềm tin của nhân dân. Sau khi lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ thắng lợi, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển. Bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Vì vậy, dẫu có cố tình xuyên tạc, phủ nhận thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta đến đâu thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cũng không thể bẻ cong được sự thật. Thực tiễn đã khẳng định, những thành tựu to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là do sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Do đó, mỗi người dân Việt Nam yêu nước phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động phản bác và đập tan các chiêu trò xuyên tạc và phủ nhận thành quả cách mạng của các thế lực thù địch./.

Trò lố của những con rối lưu vong

Lên internet cóp nhặt thông tin, với mớ kiến thức lỗ mỗ, một số đối tượng cố làm ra vẻ hiểu biết, thực hiện những hình thức gọi là “bình luận”, “phân tích”, “hội luận”, “đánh giá”... tình hình chính trị của đất nước nhằm lòe bịp công chúng. Hành vi sai trái của họ đã bị công chúng yêu nước lật tẩy, lên án...

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 01/6 :


“ Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Là chân lý thiêng liêng, cao cả của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, đăng trên Báo Cứu quốc, số 255 ngày 01 tháng 6 năm 1946.
Đầu năm 1946, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, nhất là nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu tâm trạng lo lắng và nguyện vọng thiết tha được độc lập, thống nhất Nam - Bắc một nhà của đồng bào miền Nam. Trước khi lên đường sang Paris để mở cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp, Người đã gửi thư bày tỏ sự đồng cảm và khơi dậy niềm tin của đồng bào Nam bộ vào thắng lợi tất yếu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thực tiễn sau 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chân lý trên đã trở thành hiện thực: Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen giữa thời cơ và thách thức; song Đảng ta luôn nhất quán với tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc.
Thấm nhuần lời Bác dạy, Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, trung thành tuyệt đối và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới; vào sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội trong tình hình mới. Quan tâm lãnh đạo tốt việc xây dựng mối đoàn kết, gắn bó cán bộ, chiến sĩ giữa các vùng miền, giữa người kinh với người dân tộc thiểu số; chăm lo bồi dưỡng nâng cao chất lượng huấn luyện đối với bộ đội là con em dân tộc ít người, vùng sâu, vùng sa; thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, làm tốt công tác dân vận góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch gây chia rẽ giữa các dân tộc anh em, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao…

THỦ TƯỚNG: “LẮNG NGHE TRẺ EM BẰNG TRÁI TIM, BẢO VỆ TRẺ EM BẰNG HÀNH ĐỘNG”

 

Thủ tướng yêu cầu, mỗi bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm bảo đảm trẻ em được sống trong môi trường an toàn, phát triển thể chất và tinh thần.
Hành động bằng tấm lòng, trách nhiệm và trái tim yêu thương với trẻ em
Tối 31/5, tại Cung Thiếu nhi Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã dự và phát biểu tại lễ phát động Tháng hành động vì trẻ em và khai mạc hè năm 2022.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, sự kiện phát động "Tháng Hành động vì trẻ em" và khai mạc hè năm 2022 đặc biệt hơn mọi năm khi các cháu vừa phải trải qua giai đoạn rất khó khăn của đại dịch COVID-19. Nhưng chúng ta không chỉ có tháng hành động vì trẻ em mà phải luôn luôn hành động vì trẻ em.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu luôn dành sự quan tâm đặc biệt, tình thương yêu sâu sắc đối với các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng vì các cháu là hạnh phúc của gia đình và tương lai của đất nước.
Thấm nhuần tư tưởng của Bác, những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ em được phát triển toàn diện, có môi trường sống an toàn, lành mạnh. Nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là bản Hiến pháp Việt Nam ngay từ năm 1959 cho đến nay đều có nội dung về trẻ em. Việt Nam cũng là nước đầu tiên ở châu Á, nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Giáo dục, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trẻ em đã được các cấp, các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội, đoàn thể và nhân dân đặc biệt quan tâm. Nhiều chương trình mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng như chăm sóc thường xuyên đối với trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn...
Đến nay, 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT miễn phí. Gần 100% các cháu đến độ tuổi được đến trường, 95% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vaccine và hiện đang tích cực triển khai tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 cho các cháu từ 5 đến 12 tuổi.
Đời sống tinh thần, vui chơi giải trí, môi trường giao tiếp xã hội của trẻ em ngày càng phong phú, đa dạng, được các cấp, các ngành và cả xã hội rất quan tâm, chăm lo. Chương trình hỗ trợ trẻ em mồ côi do đại dịch COVID-19 được đông đảo các cơ quan, đơn vị, cá nhân và tổ chức quốc tế hưởng ứng tích cực.
Tháng 5 vừa qua, Giám đốc Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc đánh giá cao những chủ trương, chính sách của Việt Nam về chăm lo, bảo vệ quyền trẻ em trong các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia.
Thủ tướng nêu rõ, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận nhưng công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em vẫn còn những khó khăn, thách thức.
"Đảng, Nhà nước và tất cả chúng ta đã cố gắng nhưng không hết trăn trở, day dứt khi vẫn còn một số cháu phải đối mặt với nghịch cảnh của cuộc sống. Tình trạng trẻ bị bạo lực, xâm hại, tai nạn, nhất là đuối nước, tự tử vì trầm cảm do tác động của di chứng hậu COVID-19 vẫn còn xảy ra trong xã hội", Thủ tướng nói.
Theo Thủ tướng, chỉ giải quyết được vấn đề khi chúng ta tìm được nguyên nhân, giải pháp và hành động bằng tấm lòng, trách nhiệm và trái tim yêu thương với trẻ em.
3 trụ cột chính ảnh hưởng đến đời sống của trẻ em
Thủ tướng nhấn mạnh 3 trụ cột chính ảnh hưởng đến đời sống của trẻ em, đó là gia đình - nhà trường - xã hội.
Đối với gia đình, Thủ tướng mong muốn mỗi gia đình hãy là "ngôi nhà xanh" hạnh phúc cho các cháu với trách nhiệm của cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ.
Đối với nhà trường, hãy là nơi để "mỗi ngày đến trường là một niềm vui". Ở đó các cháu coi thầy cô là cha mẹ thứ 2 của mình, chia sẻ và thực hiện khát vọng cuộc sống. Ở đó các cháu không bị áp lực học hành, thi cử, có môi trường lành mạnh, không bị thầy cô và bạn bè làm tổn thương, được an ủi khi có những chuyện buồn.
"Thậm chí đã có lần tôi nói cần cải thiện lại hệ thống nhà vệ sinh của trường học để các cháu được hưởng môi trường vệ sinh sạch sẽ. Hay nhà trường cần chú ý đến tâm lý, vấn đề an toàn và quan tâm đặc biệt đến tâm lý của trẻ sau dịch COVID-19 vì các cháu đã học trực tuyến một thời gian dài, tiếp xúc bạn bè bị hạn chế do chưa được đến trường", Thủ tướng phát biểu.
Đối với xã hội, Thủ tướng nhấn mạnh "trách nhiệm và yêu thương" đối với trẻ em. Đối với quốc gia, cần có Chiến lược phát triển trẻ em Việt Nam, trong đó có giải pháp nâng cao thể trạng của trẻ em; giáo dục những hệ giá trị của con người Việt Nam như lòng yêu nước, ham học hỏi, trách nhiệm, kỷ cương, chân thành, nhân ái… Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của Luật Trẻ em và Nghị quyết 121/2020/QH14 của Quốc hội và các nội dung, nhiệm vụ về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
"Hãy lắng nghe trẻ em bằng trái tim, hãy bảo vệ trẻ em bằng hành động. Mỗi bộ, ngành, địa phương liên quan có trách nhiệm để bảo đảm trẻ em được sống trong môi trường an toàn, phát triển thể chất và tinh thần", Thủ tướng phát biểu và nêu rõ nhiệm vụ với các cơ quan.
Theo Thủ tướng, rất nhiều trẻ em trên toàn quốc đã vượt qua khó khăn, nghịch cảnh của dịch COVID-19, nỗ lực vượt lên chính mình đạt các danh hiệu "con ngoan, trò giỏi", "cháu ngoan Bác Hồ".
Thủ tướng tin tưởng, hơn 25 triệu trẻ em cả nước sẽ hiểu được tấm lòng của gia đình, thầy cô, và sự quan tâm của xã hội để luôn cố gắng thực hiện khát vọng, giấc mơ của riêng mình…. để không phụ tình yêu thương và trách nhiệm đó, để trở thành những người con, học trò, công dân có trách nhiệm với gia đình, nhà trường và xã hội.
Thủ tướng nhấn mạnh, nhân Tháng hành động vì trẻ em năm 2022 với chủ đề "Chung tay chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em", chúng ta phải cùng nhau hành động để trẻ em là những người đầu tiên được hưởng thành quả phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Chúng ta quyết tâm thực hiện bằng được mục tiêu phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần của trẻ em.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Vì lợi ích mười năm trồng cây - Vì lợi ích trăm năm trồng người". Gia đình, nhà trường, xã hội luôn thực hiện trách nhiệm với các cháu. Mỗi cháu sẽ là mầm non lan tỏa tình yêu thương, nhân ái, bản lĩnh, trí tuệ, lòng yêu nước, để đất nước Việt Nam ngày càng phát triển hùng cường và thịnh vượng.

MẠNG XÃ HỘI KHÔNG PHẢI LÀ CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT

 

Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, Internet và mạng xã hội đang tác động, ảnh hưởng ngày càng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Chúng ta không phủ nhận những tiện ích to lớn mà mạng xã hội đem lại cho cộng đồng. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng những ưu thế mà mạng xã hội đem lại để tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Hàng nghìn trang mạng xã hội được các thế lực thù địch, phản động lập ra để sử dụng như một công cụ chủ yếu tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt nhằm kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và thế giới.
Từ những trang mạng xã hội có địa chỉ ở nước ngoài, rất nhiều thông tin, tài liệu bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt, xấu độc được lan truyền gây ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng cư dân mạng. Những sự kiện “nóng”, những vấn đề nhạy cảm, phức tạp các thế lực thù địch, phản động tập trung thời gian gần đây là: mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn, đặc biệt phản ứng của Việt Nam trước các sự kiện quốc tế, trong đó có cuộc xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine; tình hình ở Biển Đông; những vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nội dung các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, Chính phủ, Quốc hội …
Chẳng hạn như xung quanh cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, trên mạng xã hội họ bịa chuyện cho rằng nước này, nước kia “rất thất vọng” khi Việt Nam bỏ phiếu trắng. Họ trích dẫn ý kiến cá nhân của người này, người kia trên mạng xã hội từ đó suy diễn cho rằng Việt Nam bị “gây sức ép” khi bỏ phiếu tại Liên hợp quốc. Rồi họ quy kết: Vấn đề chính là ở Việt Nam tồn tại “một lobby tự nguyện ủng hộ ông Putin”, thể hiện rõ trên mạng xã hội. Cũng chính từ đây họ hoài nghi đặt câu hỏi: Có hay không việc Việt Nam ủng hộ dùng vũ lực để giải quyết những bất đồng giữa Nga và Ukraine? Các hoạt động đối ngoại bình thường giữa Việt Nam và Liên bang Nga gần đây cũng bị một trang mạng xã hội có địa chỉ ở nước ngoài bóp méo, xuyên tạc, làm sai lệch bản chất vấn đề… nhằm lợi dụng sự kiện ở Ukraine để chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới.
Còn nhiều nữa những dẫn chứng có thể chỉ ra cho thấy mạng xã hội đang bị các đối tượng có tư tưởng thù địch, phản động triệt để khai thác biến thành công cụ tuyên truyền kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế.
Cần khẳng định rằng, những hành động đó không chỉ trái pháp luật Việt Nam mà còn vi phạm công ước quốc tế. “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 quy định rất rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Khoản 2, Điều 19 của Công ước quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng, những quyền ấy không phải là quyền tuyệt đối. Khoản 3, Điều 19 “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966 ghi rõ: “Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc hưởng thụ quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định (những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật) để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Năm 1982, Việt Nam tham gia “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”. Từ đó đến nay, Việt Nam luôn tôn trọng và quan tâm nội luật hóa các quy định của Công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia. Ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí của người dân được quy định rất rõ. Tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013 nêu: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều 9, Luật Báo chí Việt Nam 2016 nghiêm cấm: “1. Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung: a) Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; b) Bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Gây chiến tranh tâm lý. 2. Đăng, phát thông tin có nội dung: a) Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; b) Gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; c) Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; d) Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế”. Những quy định ấy đều tương thích với “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”.
Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, không một quốc gia nào dung túng, bao che cho những hành động sử dụng Internet, mạng xã hội làm công cụ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet trên cơ sở tuân thủ Công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn chủ động phối hợp, tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, phát triển Internet và các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhưng Việt Nam cũng làm hết sức mình để ngăn chặn thông tin xấu, độc, thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế. Việt Nam luôn mong muốn chung tay với các nước, các tổ chức quốc tế xây dựng môi trường Internet lành mạnh, an toàn, hữu ích ở Việt Nam và toàn cầu. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam lên án mạnh mẽ, đấu tranh kiên quyết, không cho phép bất kỳ ai được lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet để tán phát những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, những luận điệu thù hận, phỉ báng, kích động có thể gây căng thẳng, gây chia rẽ đoàn kết và đưa đến xung đột. Mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Internet, mạng xã hội và phương tiện truyền thông đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật./.

Kích động kỳ thị dân tộc - âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc

 Kỳ thị thường gắn liền với phân biệt đối xử. Kỳ thị, phân biệt đối xử là một khái niệm giao thoa giữa chính trị - văn hóa và xã hội. Kỳ thị dân tộc, chủng tộc là sự nhìn nhận, đánh giá làm giảm giá trị đối với một một dân tộc, một chủng tộc từ một quan niệm chính trị, văn hóa hoặc xã hội nào đó.

Bôi đen hiện thực, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Ở Việt Nam, kể từ khi bắt đầu xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chia để trị và chia cắt nước ta thành ba miền (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với những chính sách khác nhau trên các lĩnh vực chính trị, xã hội và kinh tế nhằm tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa ba miền với âm mưu chia cắt vĩnh viễn. Thay chân thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai cũng từng thực hiện chiến lược chia cắt lâu dài hai miền Nam, Bắc hòng tiến đến xóa bỏ chế độ xã hội XHCN và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Khi chủ nghĩa thực dân cũ và mới bị đánh đổ tại Việt Nam, tàn dư của tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối xử dân tộc, chủng tộc đã không còn hiện hữu nữa. Nhưng nhen nhóm sự kỳ thị dân tộc vẫn được các thế lực thù địch tuyên truyền, kích động hướng đến tư tưởng dân tộc cực đoan trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hòng làm rạn nứt, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và bạo loạn, lật đổ, đưa dân tộc ta sang con đường lệ thuộc nước ngoài.

Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cho thấy, các thế lực thù địch triệt để sử dụng con bài kỳ thị chủng tộc đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan để đòi quyền dân tộc tự quyết. Các thế lực thù địch không chỉ áp dụng thủ đoạn này đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới như Trung Quốc trong vấn đề Tây Tạng, Nam Tư trong vấn đề Kosovo...

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với những đặc điểm riêng mà nhiều quốc gia khác không có. Với 54 dân tộc anh em, dân số giữa các dân tộc rất khác nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như Pu Péo, Rơ-măm, Brâu... Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư. Các dân tộc Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau. Địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số thường ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Khác với nhiều quốc gia đa dân tộc, các dân tộc thiểu số Việt Nam không có khu vực lãnh thổ riêng mà sống xen kẽ với nhau.

Trọng tâm hoạt động kích động kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc của các thế lực thù địch hướng đến các địa bàn Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, vùng có đông đồng bào theo đạo. Để kích động, chia rẽ người Kinh với đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã sử dụng tổ chức FULRO tuyên truyền, xuyên tạc rằng “Tây Nguyên là của người Thượng”, “đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi”...

Ở Tây Bắc, chúng dựng lên cái gọi là “Vương quốc Mông” để làm cái cớ chia rẽ đồng bào các dân tộc anh em. Chúng vận động đồng bào người Mông về “một miền đất hứa” mọi người sẽ được “ban sức khỏe, hạnh phúc, không làm cũng có ăn, sự giàu sang và phú quý”; “những người Mông đến đây sẽ được chúa trời giáng trần cứu thế”… Từ đó, chúng lôi kéo người dân tụ tập, kích động phá rối gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Ở Tây Nam Bộ, chúng tập trung tuyên truyền tư tưởng “ly khai tự trị”, đòi thành lập “Nhà nước Khơme Campuchia Krôm độc lập”. Lợi dụng tranh chấp, khiếu kiện, những vấn đề do lịch sử để lại, vấn đề dân sinh, dân chủ để kích động, tập hợp lực lượng, móc nối lôi kéo, tạo dựng ngọn cờ, thực hiện ý đồ biểu tình, bạo loạn lật đổ; lừa bịp, xúi giục người vượt biên, gây sức ép xin tổ chức UNHCR lập trại tỵ nạn; vu cáo, xuyên tạc Việt Nam có kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Âm mưu trước mắt và lâu dài của chúng nhằm gây mất ổn định chính trị để “quốc tế hóa” vấn đề “Khơme Krôm”, thành lập “Nhà nước Khơme Campuchia Krôm tự trị”...

Ngày nay, việc cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, sắc tộc đã được quy định trong nhiều điều ước quốc tế và tạo thành yếu tố quan trọng trong pháp luật của nhiều quốc gia. Trong đó, quan trọng nhất là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, có hiệu lực từ năm 1969 và đến nay đã được 170 nước trên thế giới phê chuẩn. Tại Việt Nam, với chính sách và pháp luật thể hiện tinh thần tiến bộ, bình đẳng, công bằng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở cả trên bình diện quốc tế và quốc gia.

Ngày 9/6/1981, Việt Nam chính thức gia nhập Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD), với bốn lần đệ trình báo cáo quốc gia về thực hiện Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012. Đặc biệt, Ủy ban Dân tộc đảm nhận là cơ quan đầu mối phụ trách Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc và chuẩn bị Báo cáo quốc gia về thực hiện Công ước CERD. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện Công ước CERD, đặc biệt là việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số như: Xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội… Trong đó, nhấn mạnh đến những thành tựu trong việc đảm bảo quyền cho người dân tộc thiểu số như: Hệ thống pháp luật, các quy định đảm bảo quyền con người, các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội...

Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam đã luôn chứng tỏ với cộng đồng quốc tế là một dân tộc có truyền thống lịch sử lâu đời về tinh thần đoàn kết, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau. Ngày nay, các nguyên tắc và quy định về bình đẳng và không phân biệt chủng tộc liên quan đến thành phần dân tộc không những được ghi trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong các luật, văn bản dưới luật khác có liên quan và được triển khai thực hiện trong thực tiễn, thông qua nhiều chính sách, chương trình quốc gia, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm DTTS có điều kiện phát triển bình đẳng trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Cụ thể như, công dân thuộc các nhóm dân tộc thiểu số sẽ được hưởng các các chính sách ưu đãi về giáo dục, y tế, đào tạo nghề, việc làm, đất đai, nhà ở, tín dụng, hỗ trợ sản xuất... Ngoài ra, còn được hưởng các dự án đầu tư trực tiếp như xây dựng điểm tái định cư tập trung do nhà nước đầu tư toàn bộ hạ tầng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã thể hiện mạnh mẽ quyết tâm cùng với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bài ngoại và các hình thức phân biệt chủng tộc khác.

Âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch với chiêu bài kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc là rất tinh vi, thâm độc, hành động quyết liệt, trắng trợn; đối tượng đa dạng, phức tạp, mục đích không thay đổi, hậu quả khó lường. Dù những âm mưu và hành động trên đã bị phát hiện và đấu tranh ngăn chặn kịp thời nhưng các thế lực thù địch không từ bỏ, vẫn luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, các tổ chức và công dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, phát huy trách nhiệm của bản thântrong phòng tránh, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của chúng.

Các cấp ủy đảng, chính quyền thực hiện các giải pháp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, góp phần xóa bỏ đi tư tưởng kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc. Đây sẽ là “bức tường” vững chắc để ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

CẢNH GIÁC, CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH VỚI CÁC THÔNG TIN XẤU ĐỘC TRÊN MẠNG INTERNET

 Hiện nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, mạng Internet có sự phát triển mạnh mẽ và dần trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của rất nhiều người. Thực tế cho thấy, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, việc chia sẽ thông tin của người dân trên Internet thông qua các mạng xã hội như: Facebook, Twitter, YouTube,… phát triển rất nhanh và sâu rộng. Điều này đặt ra không ít thách thức đối với nước ta trong việc ngăn ngừa và đấu tranh chống lại các thông tin xấu độc hiện đang được chia sẽ với tốc độ chóng mặt trên các trang mạng.

Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển, ứng dụng Internet hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á, với hơn 50% dân số sử dụng và hơn 100 triệu thuê bao điện thoại di động. Internet đã tạo cơ hội thuận lợi để thúc đẩy quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, thúc đẩy sự hợp tác, hiểu biết, giúp nhau cùng phát triển. Đồng thời, qua đó cũng là công cụ phản biện xã hội của nhân dân. Tuy nhiên, Internet cũng là công cụ đắc lực để các thế lực thù địch tuyên truyền chống phá nước ta, nói xấu Đảng, chế độ, chia rẽ, gây mất ổn định xã hội. Hiện nay có hàng trăm tổ chức phản động lưu vong; hàng nghìn trang web thường đăng tải những tin, bài viết có nội dung chống Nhà nước Việt Nam. Ở trong nước, cũng có hàng trăm trang web, blog, Facebook,… do một số kẻ cơ hội, bất mãn lập nên để tung tin thất thiệt, chống phá Đảng, Nhà nước. Mục đích của chúng là đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, gây mất ổn định về chính trị, trật tự, an toàn xã hội, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.

Nội dung của những thông tin này chủ yếu là: xuyên tạc lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; nói xấu chế độ, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... tập trung vào các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trọng đại. Chúng thường sử dụng các thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc như: lợi dụng những sơ hở, để tung tin thất thiệt, xuyên tạc, kích động, thổi phồng hòng làm cho thật, giả lẫn lộn, gây rối loạn trong xã hội và nội bộ. Đối tượng chúng hướng tới là mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là bộ phận thanh thiếu niên. Đây là bộ phận trẻ, năng động nhưng lại chưa có bản lĩnh chính trị vững vàng, dễ bị kẻ xấu dụ dỗ, kích động.

Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay, chỉ cần một cái click chuột, thông tin sẽ được chia sẽ với tốc độ chóng mặt trên các trang mạng, do đó để đấu tranh có hiệu quả với các thông tinh xấu độc, thất thiệt trên Internet cần cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin chính thống sẽ góp phần nâng cao nhận thức, khả năng “miễn dịch”, “tự đề kháng” cho nhân dân trước những thông tin thất thiệt, xấu độc. Vì thế, cơ quan chức năng cần phối hợp với báo chí, truyền thông để chuyển tải thông tin nhanh, chính xác, phản bác lại mọi thông tin bịa đặt, thất thiệt. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc định hướng tư tưởng cho nhân dân trước những sự kiện nóng, nhạy cảm trong nước và quốc tế, làm rõ những vấn đề phức tạp mà xã hội đang quan tâm giúp cho nhân dân thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên Internet, tạo sự đồng thuận trong nhân dân đấu tranh phản bác các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa nói chung, trên Internet nói riêng là việc làm thường xuyên nhưng không hề đơn giản. Do đó đối với mỗi cá nhân, cần có trách nhiệm của mình trong việc chọn lọc tiếp thu thông tin trên mạng Internet; nêu cao cảnh giác với các tin thất thiệt, giật gân được đăng tải hàng ngày trên các trang mạng xã hội.

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU ĐỐI LẬP GIỮA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

 Một trong những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam là xuyên tạc, đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Mục đích của chúng nhằm phá hoại, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh từ gốc rễ, qua đó tiến công trực diện vào một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và được bổ sung tại Đại hội XII của Đảng: “Tư tưởng của Người, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”. Việc khẳng định này cho thấy tầm quan trọng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó chúng tìm mọi cách để đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuân thủ đúng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không theo Chủ nghĩa Mác-Lênin”; “Con đường Bác Hồ đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội” (!). Chúng còn cố ý minh họa bằng những những sự kiện lịch sử, như: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc trước vấn đề giai cấp... nhằm củng cố những luận điệu xuyên tạc này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp

Luận điệu xuyên tạc trên là vô căn cứ. Bởi lẽ, lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”, vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Cho nên, mấu chốt của cách mạng vô sản vẫn là giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, dù cho quốc gia đó đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay chưa trải qua giai đoạn này. Ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bậc nhất là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc giành lấy độc lập, quyền tự quyết dân tộc để làm cơ sở hiện thực làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng vô sản suy cho cùng cũng là vì quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; việc giải quyết vấn đề giai cấp không đứng trên lập trường lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra của cuộc cách mạng, đôi khi còn dẫn đến thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức, tiếp thu sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Người đã tích cực chuẩn bị tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành lấy độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới. Thắng lợi đó là do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó giải quyết vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp vô sản, điều này đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng thực tiễn khách quan và bảo đảm tính lịch sử cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc lựa chọn này không phải là sự ngẫu nhiên, “ăn may” mà là sự tìm tòi, phân tích thực tiễn cách mạng thấu đáo. Điều đó xuất phát từ tài năng, trí tuệ, sự nhạy bén chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi phân tích thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ, Việt Nam xuất phát từ một nước phương Đông truyền thống, nền nông nghiệp lạc hậu, hơn 90% là nông dân, sự phân hóa giai cấp chưa sâu sắc, khi thực dân Pháp xâm lược thì nhiệm vụ nổi lên hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập dân tộc, tự do cho người dân, nên Người đã phê phán thẳng thắn quan điểm phiến diện, giáo điều, rập khuôn máy móc của một số người về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” .

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cách mạng vô sản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra quy luật vận động và phát triển cách mạng Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, qua đó khắc phục được khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân tộc.

Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam đạt được đã cho thấy những điều Người khẳng định là hoàn toàn đúng đắn, “Đảng ta nhờ kết hợp được Chủ nghĩa Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”, và sự thật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nước ta bước vào giai đoạn độc lập, tư do và phát triển.

Thực tế đó cho thấy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đường, dẫn lối là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là: Người đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước giải phóng giai cấp nhưng không đối lập giữa nhiệm vụ giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc mà kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp để tiến tới giải phóng con người; Người chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vì nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước Đông Dương khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, con người mỗi nước có sự khác nhau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú kho tàng lý luận Mác-Lê nin

Một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc khác mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn lèo lái dư luận rằng “Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với phương Tây còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam”; “bây giờ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin”(!).

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” .

Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin là hoàn toàn sai trái, vô căn cứ, xuyên tạc lịch sử và logic vận động cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản thống nhất với nhau về mục tiêu, lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bản thân các nhà kinh điển mác-xít không đưa ra một khuôn mẫu cứng nhắc cho việc tiến hành cuộc cách mạng vô sản mà chỉ nêu ra những nguyên lý cơ bản, nên việc vận dụng những nguyên lý đó như thế nào, thành công đến đâu phụ thuộc vào tài năng của lãnh tụ phong trào cách mạng.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công những nguyên lý đó để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới, qua đó khẳng định và củng cố tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

NOI GƯƠNG BÁC, TỰ SOI, TỰ SỬA

 Vì sao cán bộ, đảng viên phải tự soi, tự sửa, tự rèn, tự tu dưỡng, tự điều chỉnh, tu thân, tự vượt lên chính mình? Vì đảng viên, cán bộ trong sạch, vững mạnh thì Đảng trong sạch, vững mạnh.

Ý NGHĨA “TỰ MÌNH”

Năm 1927, trong sách Đường cách mệnh, khi bàn về tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí Minh đề cập 3 mối quan hệ: Tự mình phải, đối người phải, làm việc phải.

Tháng 2/1947, trong Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, Người đề cập cán bộ phải có 5 mối quan hệ: Mình đối với mình, mình đối với đồng chí mình, mình đối với công việc, đối với nhân dân, đối với đoàn thể.

Năm 1948, khi viết về Tư cách người Công an cách mệnh, Người đề cập 6 mối quan hệ: Đối với tự mình, đối với đồng sự, đối với Chính phủ, đối với nhân dân, đối với công việc, đối với địch.

Đúc kết lại, mỗi người phải xử sự, xử thế các mối quan hệ: tự mình, đối với người, đối với việc. Đáng lưu ý là trong tất cả các mối quan hệ trên dù bất cứ ở thời kỳ nào, Hồ Chí Minh đều đặt “đối với tự mình” lên trên hết. Vì sao như vậy?

Có nhiều cách cắt nghĩa, lý giải khác nhau, nhưng chắc chắn có mấy lý do cơ bản: một là, tự mình là rất khó. Tự “mổ xẻ” mình đâu có dễ. Kẻ thù ở trong mình không thể dùng lựu đạn, gươm giáo để tiêu diệt. Hai là, con người - nhất là cán bộ, đảng viên - thường mắc các chứng bệnh như tự cao tự đại, ưa người ta nịnh mình, do lòng yêu ghét của mình mà đối với người, đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Ba là, “đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta thì trước phải biết đúng sự phải trái ở mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”.

Khi bàn về các đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Hồ Chí Minh chỉ bảo rằng mình không Cần mà bảo người khác Cần là vô lý. Mình không Kiệm mà bảo người khác Kiệm là vô lý. Mình không Liêm mà bảo người khác Liêm là vô lý. Mình không Chính mà bảo người khác Chính là vô lý.

Về lý luận và thực tiễn, “đối với tự mình” là nói đến yếu tố chủ quan, yếu tố bên trong, còn “đối với người” là nói đến yếu tố khách quan, yếu tố bên ngoài. Triết học mácxít chỉ rõ rằng yếu tố chủ quan, yếu tố bên trong bao giờ cũng là yếu tố đóng vai trò quyết định.

Tục ngữ có câu: “Việc đời không gì khó, chỉ sợ chí không bền”. Vì vậy, đối với mọi việc, nói dễ thì dễ, nói khó thì khó. Hồ Chí Minh đúc kết: Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên.

Từ khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo cách ngày nay 174 năm, các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá. Ngày nay, chúng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Tuyệt đối không được đánh giá thấp âm mưu và thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, nhưng chúng ta phải nhận thức có hàm lương khoa học và cách mạng rằng “diễn biến hòa bình” không đáng sợ bằng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Chúng ta đều biết rằng không có kẻ thù nào bảo chúng ta tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Những bệnh tật đó là do chính chúng ta tạo ra. Vì vậy, có thể nói rằng không kẻ thù nào bôi nhọ được chúng ta, ngoại trừ tự mình bôi nhọ mình; không kẻ thù nào tiêu diệt được chúng ta, ngoại trừ chúng ta tự tiêu diệt mình bằng chính sự tha hóa, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. V.I. Lênin viết: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta… Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ, thì tất cả sẽ sụp đổ”.

Hồ Chí Minh dạy chúng ta: “Tự mình không đánh thắng được khuyết điểm của mình, mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình, mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý”. Người nói rõ hơn: “Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù trên thế giới, muốn đánh thắng thực dân phong kiến là kẻ thù trong nước thì trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình. Phải “chính tâm tu thân” mới có thể trị quốc bình thiên hạ”.

Như vậy vấn đề đã rõ ràng: “Vận mệnh nước ta ở trong tay ta. Chúng ta đồng tâm nhất trí, trên dưới một lòng, thì chúng ta nhất định thắng lợi”.

ĐẢNG CHÂN CHÍNH CÁCH MẠNG PHẢI TỰ SOI, TỰ SỬA

“Tự mình” như đã phân tích có thể cá nhân, có thể tổ chức để phân biệt “đối với người”, “đối với việc”. Trong di sản của mình, Hồ Chí Minh quan tâm cả cá nhân và tổ chức trong việc tự rèn, tự soi, tự sửa, tự điều chỉnh, tự vượt lên chính mình. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, viết về tư cách của Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh nêu lên 12 điều và khẳng định Đảng muốn được vững bền thì không được quên điều nào. Điều 12 bàn tới bản thân Đảng “phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”.

Mặt khác, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(7). Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là Đảng dám tự phê bình, không dám tự phê bình như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. “Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình!” 8). Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi”.

Trong đổi mới, nhận thức rõ ý nghĩa to lớn, sâu xa của tự soi, tự sửa, Đảng ta khẳng định: “Sức mạnh của Đảng, của mỗi đảng bộ và đảng viên không chỉ ở ưu điểm mà còn ở chỗ nhận rõ và sửa chữa bằng được những vấn đề tồn tại, những sai lầm, khuyết điểm và tự vượt lên chính bản thân mình”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên”.

Trong đổi mới, nhận thức rõ ý nghĩa to lớn, sâu xa của tự soi, tự sửa, Đảng ta khẳng định: “Sức mạnh của Đảng, của mỗi đảng bộ và đảng viên không chỉ ở ưu điểm mà còn ở chỗ nhận rõ và sửa chữa bằng được những vấn đề tồn tại, những sai lầm, khuyết điểm và tự vượt lên chính bản thân mình”.

CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TỰ SOI, TỰ SỬA

Vì sao cán bộ, đảng viên phải tự soi, tự sửa, tự rèn, tự tu dưỡng, tự điều chỉnh, tu thân, tự vượt lên chính mình? Vì đảng viên, cán bộ trong sạch, vững mạnh thì Đảng trong sạch, vững mạnh. Mặt khác, cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền thường có nhiều hoặc ít quyền hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm, không giữ được đạo đức cách mạng thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân, ăn của đút, “dĩ công vi tư”. Nguy hiểm nhất là tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, đến nhân dân. Đảng viên hư hỏng sẽ đưa quần chúng đến hư hỏng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải tự soi, tự sửa, tự thực hành cần kiệm liêm chính để làm kiểu mẫu cho dân.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức được rằng người đời không phải thánh thần, ai cũng có phần thiện, ác ở trong lòng. Vấn đề là ở chỗ phải tự soi, tự sửa, kiên quyết chống lại cái ác, những gì cũ kỹ, hư hỏng. Bác Hồ dạy: “Muốn thành cán bộ tốt phải có tinh thần tự chỉ trích… Muốn được thích hợp với tình thế, muốn cùng tiến hay vượt các bạn khác, ta cần phải nhận thức và tự giáo dục không ngừng, cần phải có sự thành thực tự vạch ra những khuyết điểm sai lầm để bồi bổ và sửa đổi đi. Sau khi làm xong một công việc gì, hay sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm xem có chỗ nào nhầm lẫn, chỗ nào chưa đầy đủ, có được ưu điểm gì nên nhớ, có được kinh nghiệm gì quý đáng ghi. Phải bỏ hẳn thái độ “xong việc thì thôi”. Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”.

Vừa qua, Đảng ta ra nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định phục vụ cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng. Ví như Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021, Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm. Đảng có những kết luận, nghị quyết, quy định như thế là rất cần thiết để giúp đảng viên trong tu dưỡng rèn luyện.

Đảng viên, cán bộ phải tự giác, thường xuyên, hằng ngày, suốt đời tự soi, tự sửa như chuyện rửa mặt hằng ngày. Là đảng viên, cán bộ có “hai con người” trong một con người. Làm đảng viên cộng sản tức làm người có trình độ cao, nhưng vẫn trên cái nền “làm người”. Trước khi trở thành đảng viên, họ là con người bình thường. Khi là đảng viên, họ vừa phải có chất đảng viên vừa có “chất người”, “trình độ người”. Đảng viên phải có cái chất của người đảng viên trên cái nền “làm người”. Khi chưa phải là đảng viên mà đổ vỡ tư cách làm người, thiếu nhân tính là đổ vỡ tất cả. Thiếu một đức thì không thành người như Bác Hồ đã dạy. Nhưng khi là đảng viên, cán bộ và lãnh tụ thì phải thấy “khác với những người thường. Họ là những người chiến sĩ tiên phong của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy, họ hoàn toàn không được đại biểu cho lợi ích cá nhân, mà phải đại biểu cho lợi ích của dân tộc, của giai cấp”.

Đảng viên, cán bộ phải thấy rõ, đầy đủ, sâu sắc mối quan hệ “hai trong một”. Là đảng viên, phải tự soi, tự sửa để giữ vững đạo đức cách mạng, cao nhất là chí công vô tư. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ việc gì, đều phải tự soi, tự rèn, tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của nhân để lại sau. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Đó là nguyên tắc tối cao của Đảng, là Đảng tính.

Đảng viên tự soi, tự sửa, tự rèn, tự điều chỉnh, tự giáo dục, tự vạch ra khuyết điểm, tự vượt lên chính mình, tu thân chính tâm một cách tự giác, thành thực không nên chỉ vì “tấm chắn” của những điều đảng viên không được làm, mà còn phải vì đạo lý, lương tâm. Có những điều rất quan trọng, đó là nhân văn, nhân tính. “Pháp trị” nhưng phải có “đức trị”. Văn hóa phương Đông đề cao đạo đức. Tấm gương của Bác và nhiều cán bộ, đảng viên thời Bác qua phong cách, tác phong, việc làm, hành động, cử chỉ có sức mạnh lan tỏa, truyền cảm hứng tới cả dân tộc. Vô cùng thiêng liêng, sâu xa và cao quý!

Tự soi, tự sửa là để mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân, cho Đảng. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước, cho dân, cho Đảng không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước, cho dân thì quyết không làm.

Tự soi tự sửa là để tránh tự kiêu, tự đại, vì tự kiêu, tự mãn như cái chén, cái đĩa cạn, một chút nước cũng tràn đầy vì độ lượng nó hẹp. Đảng viên phải như sông to, biển rộng, bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu.

Tự soi, tự sửa là để luôn luôn chân thành, khiêm tốn, thật thà đoàn kết, phải học và giúp người tiến bộ. Không nịnh hót người trên. Không xem thường người dưới.

Đảng viên phải ghi tạc rằng, cùng với những điều đảng viên không được làm theo Quy định, Điều lệ Đảng, còn có nhiều điều đảng viên không được làm do lương tâm, đạo đức cắn rứt không cho phép làm; đạo lý dân tộc không cho phép làm. Đó mới là thiêng liêng, sâu xa, bền vững, tạo niềm tin vững chắc. Đảng viên trung thành với Đảng còn phải trung thành với đất nước, dân tộc, có trách nhiệm với chính bản thân mình.

Tự soi, tự sửa là để mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân, cho Đảng. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

Tự soi, tự sửa là để tránh tự kiêu, tự đại, vì tự kiêu, tự mãn như cái chén, cái đĩa cạn, một chút nước cũng tràn đầy vì độ lượng nó hẹp. Đảng viên phải như sông to, biển rộng, bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu.

Tự soi, tự sửa là để luôn luôn chân thành, khiêm tốn, thật thà đoàn kết, phải học và giúp người tiến bộ. Không nịnh hót người trên. Không xem thường người dưới.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vừa qua suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vì không chịu tự soi, tự sửa, tự rèn, tự phê bình, tự giáo dục, tự vạch ra khuyết điểm, tự điều chỉnh, tự chỉ trích, tự vượt lên chính mình, tu thân chính tâm hằng ngày, suốt đời, việc lớn việc nhỏ một cách tự giác, thật sự. Họ rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân, vừa không có cái chất của người đảng viên cộng sản vừa không có nhân tính, đổ vỡ tư cách làm người, đổ vỡ tư cách đảng viên./.

“CHÍNH QUY”- không chỉ nét đẹp về điều lệnh mà còn là nét đẹp về văn hóa, tâm lý”

 Trong giai đoạn mới, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đây là đòi hỏi cao và mới đối với sự phát triển của quân đội trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Yêu cầu này gắn chặt với bản chất và truyền thống của quân đội trong suốt gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Có rất nhiều tài liệu được các nhà khoa học phân tích tương đối sâu sắc về những yêu cầu này trên bình diện cả lý luận và thực tiễn. Song, để có cái nhìn đầy đủ hơn, cụ thể hơn cần phải chỉ ra đồng thời cả chất lượng, định lượng, cả những đòi hỏi với những yêu cầu mới, cả những cách tiếp cận đa chiều để giúp chúng ta không suy luận hoặc lý giải một cách đơn thuần, từ đó có thể dẫn đến phiến diện trong quan niệm, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Ở đây, chúng ta xem xét việc xây dựng quân đội “chính quy” với cách tiếp cận về văn hóa, tâm lý từ đó để chúng ta có cách nhìn nhận, đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn. Khi nói đến chính quy, đa phần chúng ta thường hiểu đó là cách rèn luyện, quản lý bộ đội theo điều lệnh, điều lệ. Đó cũng chính là giờ giấc, ăn mặc, là lễ tiết, tác phong quân nhân…Tuy nhiên, với cách tiếp cận tâm lý và và văn hóa thì chính quy còn là một giá trị, tạo nên nhân cách quân nhân - Một giá trị văn hóa đặc thù của một tổ chức quân sự, đồng thời cũng là một giá trị phù hợp với giai đoạn mới khi nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, “chính quy” trong giai đoạn hiện nay nó còn thể hiện cho một tổ chức quân sự được chọn lọc kỹ lưỡng, được tôi luyện một cách bài bản, khoa học… Đó cũng là đội quân mà thành phần là những con người ưu tú. Hoạt động “chính quy” không đơn thuần chỉ là thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ nữa mà còn là sự tự giác cao độ, là sự xã hội hóa hệ thống chuẩn mực của xã hội thành hệ giá trị của quân nhân một cách tự nguyện, tự giác.

Thực hiện “chính quy” đã trở thành nhu cầu, là thói quen, là nếp sống đẹp của mỗi người quân nhân, qua đó họ mong muốn được thực hiện, được chấp hành, được công hiến chứ không phải là ép buộc, giá trị đó trở thành nét bền vững, rất khó thay đổi. Làm rõ khía cạnh này cho thấy sự khác biệt giữa quân đội tư sản, quân đội hiếu chiến xâm lược với quân đội xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể nói yêu cầu này không đơn thuần chỉ đánh giá về số lượng, định lượng, có thể đo đếm quan sát mà còn có thể thấm sâu vào phẩm giá, vào nhân cách, tâm hồn người lính. Mở rộng nhận thức như vậy, phần nào chúng ta có thể đánh giá toàn diện hơn sâu sắc hơn trong nhận thức, chỉ đạo và tổ chức thực hiện một cách hiệu quả./.