Thứ Ba, 31 tháng 5, 2022

“CÁI TÂM” VÀ “CÁI TẦM” CỦA NGƯỜI HỌA SĨ ĐÂU RỒI?

 Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Để sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật nói chung và tác phẩm hội hoạ nói riêng thì đòi hỏi người nghệ sĩ phải có “cái tài” và “cái tâm”. Khi nói về “cái tài”, đặc biệt là cái tài của người làm nghệ thuật hội hoạ thì cái tài ấy phải là yếu tố trước hết của nghệ thuật, là điều không thể thiếu trong những tác phẩm nghệ thuật.

Trong sáng tác nghệ thuật, quả thực chữ “tài” chiếm một vai trò rất to lớn, đó là điều không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, dù cái tài có cao đến đâu, nó cũng phải đi cùng với cái tâm của người nghệ sĩ. Nghệ thuật phải đặt song hành tài năng và tâm huyết, đạo đức của người sáng tạo. Cũng bàn về “cái tài” và “cái tâm” của người làm nghệ thuật, trong thời gian qua dư luận cả nước đang quan tâm và phản ánh tính nghệ thuật trong những bức tranh của họa sĩ Mai Duy Hưng. Đó là hai bức tranh sơn dầu khổ lớn có chủ đề về cuộc chiến đấu và chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và bức tranh sơn dầu vẽ Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Người tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước hết nói về họa sĩ Mai Duy Hưng, đây là một họa sĩ tài năng và tâm huyết khi cho ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật trong đó có hai bức tranh sơn dầu nêu trên. Được biết, bức tranh sơn dầu có tên “Điện Biên Phủ” này là kết quả của 10 năm làm việc không mệt mỏi và hoàn thành vào cuối năm 2021. Bức tranh sơn dầu vẽ Đại tướng Võ Nguyên Giáp được hoàn thành trong 4 năm từ năm 2017 đến năm 2021. Quả thực để hoàn thành hai tác phẩm với khoảng thời gian như trên thông qua những nét vẽ sơn dầu thì đúng là rất tài năng và tâm huyết.

Nhưng để hai tác phẩm trên đến với công chúng và được công chúng đón nhận nó dưới góc nhìn của nghệ thuật thì cái tài vẫn chưa đủ, ngoài cái tài thì đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái tâm, cái đạo đức. “Cái tâm”, “cái đức” của người họa sĩ khi cho ra đời một tác phẩm không phải nói đến thời gian làm một tác phẩm nghệ thuật là thời gian bao lâu, mà phài nói đến sự đón nhận của công chúng với góc nhìn nghệ thuật như thế nào. Là một người của công chúng, qua xem hai bức tranh của họa sĩ Mai Duy Hưng, đặc biệt là bức tranh có tên “Điện Biên Phủ”, thực sự tôi rất buồn và nghĩ anh Mai Duy Hưng này có thực sự là họa sĩ hay cũng chỉ là “quạ sĩ”? Tại sao với một chiến thắng chấn động cả năm châu, lừng lẫy cả địa cầu như thế, một anh vệ quốc quân Tạ Quốc Luật với khuôn mặt nhìn như muốn đốn tim, đang phất cao lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm tên bại tướng Đờ Cát – Xtơ – ri mà được Mai Duy Hưng khắc hoạ với hình tượng người chiến sĩ nhìn không giống ai cầm trên tay lá cờ đỏ sao vàng rách te tua thì liệu rằng bức tranh đó có xứng đáng là một tác phẩm hội hoạ để đưa ra triển lãm cho công chúng xem hay không? Là biểu tượng của chiến thắng, đây là chủ đề không phải là mới, với chủ đề chiến thắng này tại sao có rất nhiều giới họa sĩ cho ra đời những hình ảnh mang tính để đời như vậy? Tại vì hình ảnh đó là biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là những chiến công đã đi vào những trang sử vàng của dân tộc. Để cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là hội hoạ thì đòi hỏi người hoả sĩ phải có cái tâm, có đạo đức trong từng tác phẩm. Đáng nhẽ ra, với một chiến thắng “có một không hai” của một đội quân “vai trần chân đất” chiến thắng một đội quân viễn chinh nhà nghề Pháp thì hình ảnh đó phải được khắc hoạ làm sao để cho thế hệ hôm nay và mai sau khi nhìn vào thấy được cái “thần”, cái “hồn” của dân tộc, của ông cha ta ngày xưa đánh Pháp như thế nào, biết được để giành thắng lợi đó cha ông ta phải đánh đổi biết bao xương máu như thế nào mới thắng được.

Vậy hình ảnh đó, hình tượng đó được khắc hoạ thông qua bức tranh sơn dầu của Mai Duy Hưng liệu rằng có xứng đáng là một tác phẩm mang tầm thời đại và đưa ra triễn lãm hay không?

SEAGAMES 31 - HIỆN THỰC HÓA QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ “KHƠI DẬY KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC”

 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Nhà xuất bản CTQGST, Hà Nội - 2021 trang 110 khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Ngay sau khi Đại hội thành công, Đảng và Hệ thống chính trị đã quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết vào cuộc sống với rất nhiều thành quả nổi bật trên nhiều lĩnh vực của Đất nước.

Là những người dân đang lao động đã và đang hưởng thụ thành quả ấy trên quê hương, chúng tôi có cái nhìn về việc Đất nước ta tổ chức Đại hội thể dục thể thao Đông Nam Á - Seagame 31 trên những vấn đề sau:

1. Quyết tâm tổ chức thành công Seagame 31

Việt Nam đã nỗ lực vượt qua những khó khăn chưa từng có về nhiều mặt để tổ chức thành công sự kiện thể thao lớn nhất khu vực, Việt Nam đã không chỉ thắp lên ngọn lửa của tinh thần thể thao đoàn kết, hữu nghị, cao thượng mà còn cho thấy một Việt Nam thân thiện, một Việt Nam chủ động, tích cực, có trách nhiệm, sẵn sàng vì một “Đông Nam Á mạnh mẽ hơn - For a tronger South East Asia”. Ông Trần Đức Phấn Phụ trách Tổng cục thể dục thể thao, Trưởng đoàn thể thao Việt Nam tham dự Seagame 31 chia sẻ với báo chí hồi tháng 3/2022.“Chúng ta tổ chức SEA Games ở tình huống mà lịch sử đại hội chưa từng phải đối mặt. Dịch bệnh đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác chuẩn bị và đến lúc này, khi thời gian quá gấp, các ca F0 trong thành phần BTC lại quá nhiều nên có lúc, thiếu nhân lực chạy việc. Các đối tác của BTC cũng bị nhiều F0 nên công việc giữa các bên bị chậm tiến độ. Quả thực, chúng tôi đang ở trong giai đoạn khó khăn chưa từng có. Trang thiết bị tập luyện, thi đấu lại là loại hàng hóa đặc thù nên thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam cần quy trình nhất định. Trong trường hợp không thể mua được mới, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến công tác tổ chức các môn. Chúng tôi đang phải tính đến phương án dùng lại trang thiết bị cũ, lâu năm”. Những khó khăn như vậy nhưng với quyết tâm chính trị cao nhất chúng ta đã tổ chức thành công Seagame 31.

2. Sự quan tâm của người dân, tinh thần thể thao vô tư cao thượng

Nữ trưởng đoàn U23 Thái Lan, bà Nualphan Lamsam nói: "Tôi đã có 16 năm ở trong môi trường bóng đá và rất bất ngờ với sự nhiệt huyết, cũng như thân thiện của các cổ động viên bóng đá Việt Nam. Tôi thích bầu không khí của sân Thiên Trường. Điều sau cùng của các trận đấu là gắn kết mối quan hệ giữa các quốc gia. Tôi nghĩ bóng đá có thể mang đến tình bạn giữa các nước".

Chị Vongsavanh Hatsachanh - du học sinh Lào hiện đang theo học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền chia sẻ: “Tôi rất vui mừng, tự hào khi tôi bước chân đến Nam Định, các anh chị Lào ai cũng nói rằng tình cảm chân thành khiến cho anh chị đều cảm động. Cảm ơn rất nhiều người dân Việt Nam đã cổ vũ đội bóng đá của Lào. Anh chị cổ động viên Nam Định rất là nhiệt tình chào đón chúng tôi đến cổ vũ bóng đá, tôi cảm nhận được tình cảm mà các cổ động viên tại đây không chỉ dành cho đội bóng mà còn dành cho cả những người Lào đang học tập tại Việt Nam như chúng tôi. Vì Lào Việt Nam là anh em, dân Việt Nam cũng như dân Lào “Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào mãi mãi bền vững".

Đối với kết quả Seagame 31 của thể thao Việt Nam cho đến hôm nay có thể khẳng định chưa bao giờ khí phách, tinh thần, khả năng và nghị lực của con người Việt Nam được khẳng định rõ nét hơn thế. Điều này được phản ánh qua kết quả từng môn thi đấu, từng ngày, ở các môn Ôlympic trọng điểm và cả ở những môn đại chúng. Có thể điểm tên những vận động viên tiêu biểu như: vận động viên Nguyễn Thị Oanh cao 1,52m đoạt 3 HCV điền kinh cự ly 1,500m, 3000m, 5000m; vận động viên Nguyễn Huy Hoàng 3 HCV seagame 31 nhất là khi xem Hoàng về đích một mình ở cự ly 10.000m trong tiếng reo hò của khán giả; các cô gái kim cương và các chiến binh sao vàng của hai đội tuyển bóng đá nam, nữ với việc bảo vệ thành công ngôi vô địch Đông Nam Á đầy quả cảm;… Những hình ảnh và không khí trên khán đài các sân vận động, nhà thi đấu cổ vũ cho thể thao nhất là môn bóng đá, càng làm cho chúng ta thấm thía giá trị cốt lõi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần thể thao trung thực, cao thượng, nhanh hơn, cao hơn, xa hơn của con người Việt Nam.

Đó chính là sự hiện thực hóa, là kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII; khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Qua đó ta càng thấy niềm tự hào về Tổ quốc ta, càng tin vào tương lai tốt đẹp của Non sông đất nước ta.

TỆ NẠN “MÊ TÍN DỊ ĐOAN” – MỘT BIỂU HIỆN CỦA SỰ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI.

 Mê tín được hiểu là cuồng tin vào những điều phù phiếm, mơ hồ, không có căn cứ khoa học nào chứng minh nó là khách quan sự thật, không phù hợp với lẽ tự nhiên (tin vào bói toán, chữa bệnh bằng phù phép…) dẫn tới hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình, cộng đồng về sức khoẻ, thời gian, tài sản, tính mạng.

Mê tín dị đoan thì bao gồm một số hành vi như là: ông đồng, bà cốt, có niềm tin thái quá vào bói quẻ, coi tay xem tướng, tin vào ngày lành tháng dữ và kiêng kỵ đủ thứ vào những ngày này, tin vào số mạng sang hèn, tin vào cúng sao giải hạn, cúng kem, tin rằng việc cầu cúng sẽ tai qua nạn khỏi, chữa được bệnh tật, tin vào thầy bùa thầy chú, v.v …

Những người mắc chứng mê tín dị đoan thông thường sẽ không thể tự nhận thức được về bản thân mình hiện đang có niềm tin vào những thứ hoang đường, nhảm nhí, dị thường mà mình đang trải qua. Cho dù đã được người gia đình, bạn bè… khuyên bảo, ngăn cấm nhưng bản thân họ vẫn khó có thể từ bỏ những niềm tin đó. Cũng bởi vậy mà đã gây ra nhiều hệ lụy không mong muốn cho bản thân, gia đình và toàn xã hội. Nguy hiểm hơn, khi các thế lực thù địch, phản động, lợi dụng mâu thuẫn tôn giáo, tín ngưỡng để thực hiện hành vi truyền bá tư tưởng, truyền đạo trái phép… ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn, văn minh của xã hội...

Sự phát triển của các loại hình mê tín dị đoan sẽ xâm hại và từng bước phủ nhận thế giới quan duy vật biện chứng trong nhân dân, làm cho hệ tư tưởng Mác – Lênin và các phát kiến khoa học tiến bộ có nguy cơ bị đẩy lùi. Niềm tin mù quáng vào một thế giới siêu nhiên, vào sự quyết định và chi phối của thần tiên, ma quỷ sẽ thay chỗ cho mọi niềm tin khác, trong đó có cả niềm tin vào sức mạnh bản thân con người. Những niềm tin mù quáng sẽ làm cho con người mất đi sức mạnh cải tạo thế giới tự nhiên; làm cho xã hội mất đi động lực phát triển – đó là ý chí không ngừng phấn đấu vươn lên của con người.

Thêm nữa, mê tín dị đoan gây nên những lãng phí, bất ổn, đau thương, mất mát của nhân dân. Đó là sự cúng tế, cầu xin linh đình, đốt thải tiền bạc, vàng mã… vừa tốn kém vừa gây ô nhiễm môi trường; sự tổn hại về thể xác và tinh thần khi tin và chữa bệnh ở các thày mo, ở mức độ nguy hiểm hơn nó gây sự nghi kỵ, hiềm khích thù hằn dẫn đến chém giết lẫn nhau vì những quan niệm mê tín… những điều đó làm cho tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa bị loại bỏ, thay vào đó là những sự độc ác, ích kỷ, hẹp hòi diễn ra giữa những cá nhân trong cộng đồng.

Mê tín dị đoan – và thường kết hợp với nó là những hủ tục gây nên những tác hại rất lớn trên mọi lĩnh vực của xã hội, từ tư tưởng, chính trị, đạo đức đến kinh tế, đời sống. Những ảnh hưởng tiêu cực đó không thể nào phù hợp cho một xã hội vì con người – một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy nó cần phải bị đấu tranh xóa bỏ mà vấn đề trước hết cần thực hiện là đấu tranh thông qua công tác tuyên truyền. Chính vì lẽ đó, tuyên truyền bài trừ tệ nạn mê tín không phải là chuyện của riêng ai mà mà của cả cộng đồng. Đó là cách chúng ta gìn giữ những nét đẹp truyền thống và môi trường lành mạnh cho thế hệ mai sau. Nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí, đời sống tinh thần cũng là cách triệt mọi đường sống của những tệ nạn mê tín dị đoan.

Mê tín, dị đoan có liên quan đến nhận thức của con người. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về nhiều mặt trong nhân dân là một trong những biện pháp quan trọng, góp phần bài trừ, loại bỏ tệ nạn xã hội này. Hiện nay Nhà nước cũng đã có các chế tài xử lý hành vi mê tín dị đoan quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

TRÁCH NHIỆM CỦA THẾ HỆ TRẺ TRONG GÌN GIỮ VĂN HÓA BỘ ĐỘI CỤ HỒ

 Giữ gìn văn hóa Bộ đội Cụ Hồ vừa là yêu cầu khách quan, vừa là mong mỏi, tình cảm, trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay.

Văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là sự kết tinh những giá trị văn hóa-chính trị-đạo đức của thời đại, trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, do lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ bồi đắp, phát triển trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, phản ánh trung thực bản chất và truyền thống: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Giữ gìn văn hóa Bộ đội Cụ Hồ vừa là yêu cầu khách quan, vừa là mong mỏi, tình cảm, trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay.

Lịch sử gần 80 năm truyền thống vẻ vang của quân đội, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ không ngừng được gìn giữ và phát huy. Văn hóa Bộ đội Cụ Hồ không phải là điều gì quá xa vời, trừu tượng mà luôn gắn liền và được biểu hiện thông qua hoạt động cụ thể của mỗi quân nhân.

Nếu trong thời chiến, văn hóa Bộ đội Cụ Hồ thể hiện rõ nhất là tinh thần và hành động sẵn sàng hy sinh xương máu, quên mình cho mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân thì trong thời bình, được biểu hiện ở sức mạnh, niềm tin và là chỗ dựa vững vàng nhất cho nhân dân, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn.

Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, cũng tiềm ẩn không ít khó khăn, thách thức, nhất là tác động mạnh mẽ từ mặt trái nền kinh tế thị trường và sự chống phá của các thế lực thù địch, làm xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực, như: Giảm sút niềm tin, xa rời mục tiêu, lý tưởng; dao động, hoài nghi, thờ ơ chính trị; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác, thiếu gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, vi phạm pháp luật Nhà nước...

Xuất phát từ thực trạng trên, gìn giữ văn hóa Bộ đội Cụ Hồ vừa là yêu cầu khách quan, vừa là mong mỏi, tình cảm, trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Để phát huy trách nhiệm tuổi trẻ quân đội, tập trung thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho tuổi trẻ quân đội về văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Nhằm phát huy trách nhiệm của tuổi trẻ quân đội trong gìn giữ văn hóa Bộ đội Cụ Hồ đòi hỏi phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng, giá trị và những đặc trưng cơ bản của văn hóa Bộ đội Cụ Hồ. Muốn vậy, cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền làm cho thanh niên thấm nhuần sâu sắc giá trị phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới.

Tăng cường quán triệt, thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 855-CT/QUTW ngày 12-8-2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng theo hướng cơ bản, hệ thống, thống nhất, thiết thực, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm tuổi trẻ quân đội luôn thấm nhuần sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cách mạng, quân đội và đơn vị; nhất là 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được nêu rõ trong Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương về "Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới".

Hai là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự tích cực để tuổi trẻ quân đội có điều kiện gìn giữ văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Văn hóa Bộ đội Cụ Hồ sẽ được gìn giữ nếu tuổi trẻ quân đội được sống, học tập, công tác, cống hiến và rèn luyện trong môi trường thuận lợi, có bầu không khí dân chủ, cởi mở, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ và trưởng thành.

Muốn vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần làm tốt công tác giáo dục, xây dựng động cơ, ý thức, thái độ, trách nhiệm cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) trong thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị ở đơn vị.

Duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, bảo đảm đơn vị luôn ổn định và chấp hành nghiêm kỷ luật. Trong huấn luyện và công tác cần đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cao, đưa cán bộ, chiến sĩ vào những trạng thái, điều kiện, hoàn cảnh ngày càng khó khăn, phức tạp để bồi dưỡng, rèn luyện.

Trong cuộc sống sinh hoạt, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì, người đứng đầu phải tiên phong, gương mẫu về cả lời nói và hành động để ĐVTN học tập, noi theo. Trong quan hệ nội bộ, cán bộ, chiến sĩ luôn đoàn kết, thống nhất, trên dưới một lòng, tôn trọng, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Trong quan hệ với nhân dân, luôn giữ gìn phẩm chất, chuẩn mực, thực hiện đúng 10 lời thề danh dự của quân nhân, 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân.

Đồng thời, các cơ quan, đơn vị tích cực tham gia đấu tranh hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, nhất là âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội; chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kịp thời phát hiện, ngăn chặn những nhận thức, hành vi lệch lạc, tiêu cực, vi phạm kỷ luật, pháp luật trong đơn vị, góp phần xây dựng quân đội luôn xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Ba là, tuổi trẻ quân đội tích cực đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay được xác định là một trong những giải pháp quan trọng, thiết thực để gìn giữ văn hóa Bộ đội Cụ Hồ của tuổi trẻ quân đội.

Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, cụ thể hóa các hoạt động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị và phù hợp với từng đối tượng.

Việc học tập và làm theo phải tiếp tục được quán triệt trong các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của đơn vị; đưa việc học tập và làm theo thực sự trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên ở mỗi đơn vị. Mỗi cán bộ đoàn cần phát huy vai trò nêu gương trong học tập và làm theo; luôn nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; phấn đấu mỗi hành động và việc làm của người cán bộ đoàn phải thực sự là những điển hình, mẫu mực cho ĐVTN học tập, noi theo.

Mỗi cán bộ, ĐVTN cần ghi nhớ, thấm nhuần và luôn tích cực, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bốn là, nêu cao tinh thần tích cực, tự giác của tuổi trẻ quân đội trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

Những tác động của hoạt động giáo dục, huấn luyện, công tác, môi trường văn hóa chỉ thật sự phát huy tác dụng và mang lại chất lượng, hiệu quả khi mỗi ĐVTN tích cực, chủ động trong tự giáo dục, học tập, tu dưỡng và rèn luyện xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

Trước hết, mỗi người cần nhận thức sâu sắc về vị trí, ý nghĩa của việc tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn luyện trong quá trình hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người quân nhân cách mạng; biết tự đánh giá về những điểm mạnh, yếu so với yêu cầu đặt ra và xác định phương hướng, biện pháp tự giáo dục, tu dưỡng để hoàn thiện theo 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.

Mỗi nhân cách phải tiêu biểu về ý chí phấn đấu, luôn đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cao; khép mình vào kỷ luật quân đội, trọng danh dự cá nhân, rèn luyện ý chí bền bỉ; hình thành động cơ, thái độ rèn luyện đúng đắn, từ đó tạo ra khả năng “tự miễn dịch” với những tác động tiêu cực trong đời sống xã hội. Mỗi cá nhân thường xuyên lấy biểu tượng Bộ đội Cụ Hồ làm động lực tinh thần cổ vũ, thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhất là khi đứng trước khó khăn, thử thách.

Đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, những biểu hiện cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống làm phai nhạt hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.

Gìn giữ văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là trách nhiệm của mọi quân nhân, trong đó tuổi trẻ quân đội giữ vị trí, vai trò là lực lượng xung kích, đi đầu. Đây là một trong những nội dung hết sức quan trọng trực tiếp góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tạo cơ sở xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Gìn giữ văn hóa Bộ đội Cụ Hồ còn góp phần tăng cường sức đề kháng cho quân đội trước những đòn tiến công chính trị của các thế lực thù địch, bảo đảm cho quân đội có đủ sức mạnh vượt qua mọi khó khăn thử thách và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

QUAN ĐIỂM ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHỮNG VẤN ĐỀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn chống phá nguy hiểm đối với cách mạng Việt Nam, đã và đang được các thế lực thù địch ra sức tiến hành. Ngay từ những năm cuối thập kỷ 80 đầu 90, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tiến công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản và xóa bỏ nền độc lập dân tộc của các nước tiến bộ, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trước sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt là những thành tựu thu được trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta, các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng cổ vũ cho “chủ nghĩa tự do”, thị trường tuyệt đối, làm giàu bằng bất cứ giá nào, phủ nhận những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng đưa ra cách “lập luận” kiểu lô-gíc hình thức, rằng chủ nghĩa Mác ra đời cách đây đã lâu rồi, cách đây hơn thế kỷ rồi, bối cảnh lịch sử hiện đã thay đổi cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ khư khư giữ lấy “cái học thuyết đã lỗi thời đó” làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ đấy, chúng xuyên tạc rằng, một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Chúng trắng trợn phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng Hồ Chí Minh “không phải là nhà tư tưởng” mà chỉ là “nhà hoạt động thực tiễn” nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Bằng âm mưu, thủ đoạn lấy tư duy hình thức thay cho phương pháp tư duy biện chứng, chúng chống phá, bác bỏ hệ thống tư tưởng, lý luận của Đảng ta; chống phá, phủ nhận nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để tăng cường hiệu quả chống phá, chúng trắng trợn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua hơn 35 năm đổi mới. Những thành tựu đó đã làm thay đổi lớn đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, tạo niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, khẳng định giá trị khoa học, hiện thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đưa vị thế của Việt Nam lên một tầm cao mới, được các tổ chức và cộng đồng quốc tế công nhận. Thế nhưng, chúng vẫn bằng cách này, cách khác đưa ra các thông tin, số liệu giả để kích động, lôi kéo không ít người do thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin ngộ nhận, tin theo chúng. Chúng ra sức phủ nhận giá trị khoa học, hiện thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thủ đoạn phủ nhận giá trị đó của các thế lực thù địch, phản động được tiến hành dưới nhiều hình thức, một cách kiên trì; từ việc gây chia rẽ, kích động, lôi kéo từng cá nhân bất mãn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh vững vàng tin theo chúng.

Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đòn tiến công của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Mục đích của đòn tiến công này là làm thay đổi nhận thức, niềm tin của con người với tính chất rất thâm độc và tinh vi, xảo quyệt. Âm mưu, thủ đoạn này đã từng được các thế lực thù địch thực hiện có hiệu quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây và một số nước tiến bộ trong thời gian gần đây. Đặc biệt, hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng sự xung đột giữa một số quốc gia, nhất là vấn đề Ukraine để xuyên tạc chế độ chính trị của một số nước. Việt Nam không nằm ngoài thủ đoạn chống phá ấy. Vấn đề đó được chúng triệt để lợi dụng hòng xuyên tạc quan điểm, đường lối đối ngoại và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam về vấn đề Ukraine được khẳng định rõ rảng. Đó là không ủng hộ xung đột quân sự xảy ra tại Ukraine, đồng thời tích cực kêu gọi các bên liên quan hết sức kiềm chế, tránh những động thái gây bất ổn cho tình hình chính trị thế giới, ảnh hưởng xấu đến hòa bình, ổn định toàn cầu. Quan điểm ấy xuất phát từ xu thế của thời đại, từ yêu cầu do thực tiễn cách mạng đặt ra; phản ánh sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc tế. Đây cũng chính là quan điểm được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Trong mọi điều kiện hoàn cảnh, tư tưởng ấy của Người luôn tỏa sáng tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc. Người luôn tìm mọi cách để ngăn ngừa xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.

Giá trị khoa học, hiện thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; sự phù hợp, đúng đắn trong quan điểm đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến tình hình Ukraine là những vấn đề không thể phủ nhận.

Vì vậy, là công dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo trước những thông tin bịa đặt, không chính thống, thông tin chưa được kiểm chứng hoặc những thông tin chỉ đưa ra các quan điểm cá nhân, chứ không đúng với bản chất và thực tế của vấn đề.

XÂY DỰNG TIỀM LỰC CHÍNH TRỊ TINH THẦN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


            Mục tiêu, yêu cầu công tác tư tưởng hiện nay là phải quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về tình cảm, trách nhiệm đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tạo nên một phong trào cách mạng của toàn dân thực hiện mục tiêu: dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh trên nền tảng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trong xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần bảo vệ Tổ quốc, công tác tư tưởng phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng đến mọi người dân, chuyển hóa quan điểm, đường lối đó thành niềm tin, bản lĩnh chính trị và năng lực sáng tạo của nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Công tác tư tưởng phải được tiến hành thường xuyên, kịp thời, sáng tạo phù hợp với từng đối tượng, nhiệm vụ, tiến hành đồng bộ trên cả ba lĩnh vực: công tác tư tưởng-lý luận, công tác chính trị-tư tưởng, công tác tư tưởng-văn hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, xây dựng, nuôi dưỡng, tôn vinh cái mới, cái đẹp, những người tốt, việc tốt, phê phán những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, những nhận thức, quan điểm lệch lạc, sai lầm; kết hợp chặt chẽ đấu tranh tư tưởng, lý luận chống các luận điệu phản động, thù địch kích động, biểu tình, bạo loạn lật đổvới kịp thời đánh bại những hoạt động chính trị phản cách mạng, phản dân tộc.

Để thực hiện có hiệu quả những nội dung trên, công tác nắm tình hình tư tưởng phải kịp thời, chính xác, phân tích rõ đúng sai, đưa ra được nhận định và dự báo đúng về xu thế diễn biến tư tưởng. Đồng thời, huy diễn biến hòa bình động toàn dân, toàn quân trực tiếp tham gia vào công tác tư tưởng, tự giải quyết những vấn đề tư tưởng cho chính mình và cho những người xung quanh.

vukhuc5

 

TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG XÂY DỰNG TIỀM LỰC CHÍNH TRỊ TINH THẦN

 


Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh là giải pháp quan trọng, có vai trò quyết định hiệu quả xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới.

 Hiện nay là nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, để hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, nhất thiết phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Để giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau: Mỗi chủ trương, giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội vừa phải quan tâm đến khả năng tự bảo vệ, vừa phải tính toán đến nhu cầu quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc trước mắt và lâu dài.

Chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh vừa phải tận dụng kịp thời những thành tựu về phát triển triển kinh tế - xã hội để tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, vừa thiết thực phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng, phát triển triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân. Trong lĩnh vực đối ngoại phải chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ về vốn, khoa học-công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phát triển triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhưng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

vukhuc4

 

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

 


Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng văn hoá, nhất là công tác giáo dục chính trị, công tác tư tưởng lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng và tuyên truyền đường lối, chính sách, giải thích có lý, có tình những  hiện tượng của đời sống xã hội; đẩy mạnh đấu tranh tư tưởng lý luận; xây dựng, củng cố niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, xây dựng động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ.

Đổi mới công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng, công tác chính sách … kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách để thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động của quân đội. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị của hệ thống cấp uỷ đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp.

Phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. Nâng cao nhận thức thống nhất về vị trí, vai trò bản chất, nội dung của công tác đảng, công tác chính trị với tính cách là hoạt động lãnh đạo, có ảnh hưởng trực tiếp đến bản chất, sức mạnh, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của quân đội.

Mọi cán bộ, đảng viên đều phải có trách nhiệm, tích cực tham gia hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; khắc phục tình trạng giao phó công tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị và cán bộ chính trị. Phát huy vai trò, hiệu lực chủ trì về công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên.

vukhuc3

 

 

Đập tan âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch

 

Liên tục trong những năm qua, nhiều cá nhân, tổ chức, đối tượng thù địch đã thường xuyên đưa ra những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013; đòi tam quyền phân lập,… Trong đó, luận điệu “phi chính trị hóa quân đội” được những đối tượng này xác định là một nội dung trọng tâm. Chúng cố tình rêu rao quan điểm cho rằng, “quân đội phải đứng ngoài chính trị”; quân đội cần phải “trung lập”, “đứng giữa”, không lệ thuộc hoặc đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào… Chúng cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc thành công là Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử; Đảng chỉ nên lãnh đạo quân đội trong chiến tranh, khi hòa bình Đảng cần giao quyền lãnh đạo quân đội cho Nhà nước...

          Rõ ràng, đây là những luận điệu sai trái,

          Để chống lại âm mưu của địchvấn đề quan trọng đầu tiên hiện nay là chúng ta cần luôn luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, Quân đội nói riêng; thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức. Tiếp tục xây dựng tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

          Đồng thời, coi trọng phát huy vai trò, tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch./.

LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ HOẠT ĐỘNG TÀ ĐẠO

 


Để truyền tải các nội dung tuyên truyền đến đối tượng, chúng đã sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh và in ấn các văn hóa phẩm bằng ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc; dùng lời tuyên truyền "rỉ tai" từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong thông qua các hoạt động thăm thân, "nghiên cứu khoa học", "hoạt động từ thiện"... của những người từ nước ngoài về hoặc những người có uy tín trong dòng họ, các chức sắc tôn giáo.

“Đạo hóa" dân tộc là một trong những thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng ở nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Với một số dân tộc thiểu số Việt Nam chưa theo tôn giáo nào thì việc "đạo hóa" càng có ý nghĩa quyết định đến khả năng lôi kéo, tập hợp nhân dân và hình thành các "khung chính quyền" ngầm núp dưới vỏ bọc tôn giáo, như "khung chính quyền" ngầm của cái gọi là "Tin lành Đề-ga" để đòi ly khai, tự trị ở Tây Nguyên. “Chúng triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở.

Cùng với việc truyền đạo trái pháp luật đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, chúng còn khuyến khích đồng bào các dân tộc duy trì tập tục lạc hậu, phản khoa học, tin, nghe theo các tà đạo; cổ vũ cho lối sống tư sản trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc.

Kích động mâu thuẫn giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh, kích động chống đối chính quyền nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết của Đảng, Nhà nước ta. Cùng với hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, các thế lực thù địch  còn “iợi dụng những tồn tại của lịch sử ra sức kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tư tưởng "ly khai", "tự trị" của các dân tộc trên các địa bàn chiến lược để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự đoàn kết thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

vukhuc2

 

 

 

Chặn tham nhũng, tiêu cực - vững lòng dân, thế nước

 

Những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đặc biệt là hoạt động của ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

 Tăng cường kiểm tra, giám sát để Đảng thêm vững mạnh

Qua đó, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, trong sạch và giữ vững nguyên tắc, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước, củng cố “thế trận lòng dân”...

Những kỳ họp thực chất

Điều rất dễ nhận thấy trong những năm gần đây là các kỳ họp của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và UBKT Trung ương được cán bộ, đảng viên và nhân dân đặc biệt quan tâm, bởi thông tin từ các kỳ họp luôn “nóng bỏng”, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng ta trong việc quyết liệt, kiên trì đấu tranh với những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, nhằm giữ vững sự thanh sạch của Đảng.

Nếu như các kỳ họp của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thường xác định quyết tâm và đưa ra những định hướng lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực, thì các kỳ họp của UBKT Trung ương kết luận rõ tính chất, mức độ, hình thức xử lý kỷ luật hoặc đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan chức năng xử lý cụ thể đối với từng tổ chức đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên có vi phạm. Kết quả kiểm tra, giám sát, xử lý các vụ việc được công bố rõ ràng, bảo đảm đúng phương châm của công tác kiểm tra là "công minh, chính xác, kịp thời".

Với quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; tiến hành một cách bài bản, từ trên xuống dưới, có trọng tâm, trọng điểm; kiên quyết xử lý kỷ luật theo đúng quan điểm “không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, không có hạ cánh an toàn”, mọi đảng viên đều bình đẳng khi xử lý kỷ luật và làm nghiêm từ trên xuống..., từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến hết năm 2021, cấp ủy và UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 87 nghìn cán bộ, đảng viên (trong đó, có hơn 3.200 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý...).

Đặc biệt, quán triệt quan điểm “Kỷ luật đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho thanh tra, điều tra, xử lý hình sự theo pháp luật”, UBKT Trung ương đã tập trung kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ án, vụ việc nổi cộm, gây bức xúc dư luận. Riêng năm 2021, UBKT Trung ương đã xử lý và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xử lý nghiêm 12 tổ chức đảng và 20 đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Theo thông tin tại cuộc họp của Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, được tổ chức ngày 27-4: Từ đầu năm 2022 đến nay, UBKT Trung ương đã khẩn trương kiểm tra, phát hiện, xử lý, kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý.

Vừa qua, việc kiểm tra, làm rõ các sai phạm, xử lý và yêu cầu xử lý trách nhiệm đối với nhiều tập thể, cá nhân sai phạm liên quan đến những vụ việc nổi cộm (như: Vi phạm trong việc quyết định giảm chấp hành hình phạt tù trước thời hạn cho Phan Sào Nam; những sai phạm trong mua sắm vật tư phục vụ phòng, chống dịch Covid-19, điển hình là vụ việc liên quan đến Công ty Việt Á; vi phạm trong việc tham mưu xây dựng thể chế, chính sách và thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước...) được dư luận rất hoan nghênh, bởi thấy rằng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ngày càng hiệu quả. Nhất là, UBKT Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý và kiến nghị xử lý được những vi phạm trong các lĩnh vực mới, khó và nhạy cảm, thể hiện rõ bản lĩnh, quyết tâm chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong những lực lượng, cơ quan có chức năng phòng, chống vi phạm, tội phạm. Vì thế, nhiều cán bộ, đảng viên và người dân đã chú tâm theo dõi, đặt niềm tin vào những kỳ họp của UBKT Trung ương.

Trên cơ sở rút kinh nghiệm những hạn chế, thiếu sót trước đây và quán triệt phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định, hơn một năm qua, nhất là sau khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021 về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã có sự chuyển biến rõ nét; các quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được quan tâm xây dựng, bổ sung, hoàn thiện...

Chuyển biến rõ nhất là toàn Đảng đã từng bước khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”; tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tiêu cực, nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; chủ động dự báo những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong tình hình mới để kiểm tra trước và đề ra các chủ trương, biện pháp phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm từ xa, từ sớm, từ lúc còn manh nha... Thực tế thời gian qua, việc xử lý kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, bảo đảm thực sự không có “vùng cấm” đã góp phần giải tỏa được những bức xúc, bất bình của nhân dân và dư luận xã hội, đồng thời có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe mạnh mẽ, giúp phòng ngừa vi phạm.

Lan tỏa tinh thần chủ động kiểm tra, tăng cường giám sát (không chỉ trong Đảng mà toàn hệ thống chính trị và trong nhân dân) để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý vi phạm là điều mà cán bộ, đảng viên cùng người dân cảm nhận rất rõ. Nhiều người đã dùng câu ví “lò luôn nóng” để nói về điều này.

Tại Hội nghị toàn quốc giao ban công tác kiểm tra, giám sát quý I, triển khai nhiệm vụ quý II năm 2022 được tổ chức ngày 25-4 vừa qua, đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm UBKT Trung ương, cho biết: Trong 3 tháng đầu năm 2022, UBKT thuộc cấp ủy các địa phương, đơn vị đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 297 tổ chức đảng và 921 đảng viên. Hiện UBKT Trung ương đang có 20 đoàn kiểm tra dấu hiệu vi phạm (tăng gần 3 lần so với cùng kỳ năm 2021), đồng thời chỉ đạo cấp ủy và UBKT 63 tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với một số tổ chức đảng, đảng viên. Qua kiểm tra, đã xử lý và đề nghị xử lý kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Trong đó: Cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 32 tổ chức đảng và 1.953 đảng viên; Ban Bí thư thi hành kỷ luật 3 tổ chức đảng và 9 đảng viên; UBKT các cấp thi hành kỷ luật 26 tổ chức đảng, 1.017 đảng viên; UBKT Trung ương thi hành kỷ luật 5 tổ chức đảng và 21 đảng viên.

Thực tế đã cho thấy, hầu hết các tổ chức đảng và đảng viên sau khi được kiểm tra, giám sát đã nghiêm túc khắc phục, sửa chữa vi phạm, khuyết điểm và hậu quả gây ra; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng đã góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa...

Trước việc Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 34-KL/TW ngày 18-4-2022 về Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030, chúng tôi đã trao đổi với một số đồng chí lão thành cách mạng, cựu chiến binh, nhà khoa học... Các ý kiến đều cho rằng: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng và việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Người luôn nêu cao quyết tâm làm thanh sạch Đảng, kiên quyết loại bỏ những “con sâu mọt” làm hại Đảng, hại nhân dân, đất nước. Vì thế, việc Bộ Chính trị ban hành Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, tích cực góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là rất cần thiết; tiếp tục thực hiện quyết tâm “tuyên chiến” với những “con sâu làm rầu nồi canh” theo tinh thần “không có vùng cấm, không ai ngoại lệ” mà Trung ương, nhất là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định.

Việc thời gian qua Đảng, Nhà nước ta xử lý nghiêm tất cả những cán bộ, đảng viên có vi phạm, kể cả cán bộ cấp cao, dù đang đương chức hay nghỉ hưu, càng củng cố niềm tin của nhân dân-giữ vững “thế trận lòng dân”. Đây là cái được lớn nhất mà công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã góp phần quan trọng. Mong rằng thời gian tới, với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, Đảng tiếp tục “diệt sâu” kiên quyết và hiệu quả hơn nữa để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 xác định mục tiêu:

1. Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết, thống nhất và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, kiên quyết xử lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị.

2. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; bổ sung, hoàn thiện phương pháp, nội dung công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới.

3. Đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, nhân rộng, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm khi có vi phạm.

Nguồn: Báo QĐND

DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH HIỆN NAY CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 


Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt trong việc xác định nguyên tắc cũng như chính sách của Đảng ta về vấn đề dân tộc.

 Đảng ta xác định vấn đề dân tộc tôn giáo vừa là vấn đề giai cấp, vừa là vấn đề miền núi, vừa là vấn đề biên giới, vấn đề an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ; đồng thời đây cũng là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nếu coi nhẹ vấn đề dân tộc và không xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia thì tất yếu sẽ đến xung đột dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời nó còn liên quan đến sự tồn vong của quốc gia.

Nhà nước Cộng hòa chủ nghĩa xã hội Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Điều này được khẳng định trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách của Nhà nước trong những năm đổi mới, đặt nền tảng quan trọng để Đảng và Nhà nước ta xây dựng đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn và là cơ sở vững chắc để giải quyết thành công vấn đề dân tộc.

Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: Đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn lực và động lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

vukhuc1

 

Đa cấp tâm linh, tà đạo trá hình

 

Thời gian qua, hoạt động của các tà đạo đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa và tình hình an ninh, trật tự ở một số địa phương. Một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân; thuyết giảng “kinh sách” có nội dung phê phán, đi ngược lại với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Tính đến tháng 11/2021, Việt Nam có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số cả nước; có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân là quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Nhà nước ta còn quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo;... thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc...”. Hiến pháp 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24). Đồng thời, “nghiêm cấm xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Tuy nhiên, thời gian qua, lợi dụng chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam, một số người đã đứng ra thành lập và tuyên truyền một số hình thức của tà đạo như “Long Hoa Di Lặc”, “Chân không”, “Thanh Hải Vô thượng sư”, “Hà Mòn”, “Dương Văn Mình”, “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ”…

Thời gian qua, hoạt động của các tà đạo đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, đáng chú ý hoạt động của tà đạo “Thanh Hải Vô thượng sư”, “Pháp môn diệu âm”, “Dương Văn Mình”, “tà đạo Hà Mòn”, tà đạo “Hoàng Thiên Long”… trái với phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc; tuyên truyền mê tín dị đoan; xâm hại đến tính mạng, sức khỏe; khống chế, lừa gạt người dân để trục lợi; gây mất đoàn kết trong cộng đồng dân tộc, giữa các tôn giáo, gia đình ly tán (khi bị gia đình, người thân can ngăn, đối tượng đã bỏ người thân theo tà đạo).

Các tà đạo này ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội (kích động trốn vào rừng, trốn đi nước ngoài); một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân (“tà đạo Hà Mòn”)…

Phần lớn các tà đạo ở nước ta có những cách hành đạo trái với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, nhằm mục đích gây thanh thế cá nhân, thu lợi bất chính về kinh tế. Mặt khác, gây bất ổn về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số của đất nước.

Chẳng hạn, để lôi kéo người dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, nhằm trục lợi và thanh thế cá nhân, Dương Văn Mình, quê quán huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (đã mất 12/2021), tự xưng là “chúa giáng thế”, tuyên bố rằng: “theo y cầu nguyện, không làm cũng có ăn, không học cũng biết chữ, người già sẽ lột xác, ốm đau sẽ tự khỏi”, nơi hành lễ là “nhà đòn”, dựng ở đâu tùy thích, thờ phụng con ve sầu, chim én, cóc gỗ thay vì thờ cúng tổ tiên như trước đây”.

Còn Y Gyin (sinh năm 1942, ở Sa Thầy - tỉnh Kon Tum), hành nghề cúng bái thì dựng chuyện “Đức mẹ hiển linh” trao cho sứ mệnh truyền giáo, lập ra cái gọi là “đạo Hà Mòn” lôi kéo, lừa bịp nhiều người dân thiếu hiểu biết:“Ai theo Đức mẹ thì mọi nợ nần về vật chất và tinh thần đều được xóa, kể cả nợ ngân hàng; ốm đau không cần chữa cũng khỏi bệnh; người đã theo thì không được bỏ, nếu bỏ đạo gia đình sẽ ly tán”, “Hà Mòn” mới là “tôn giáo riêng” của người DTTS ở Tây Nguyên”.

Hay như các đối tượng cầm đầu tà đạo “Giê Sùa” (Hờ Chá Sùng), tà đạo “Bà Cô Dợ” (Vừ Thị Dợ) đã tuyên truyền cho một bộ phận đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc rằng: “theo đạo “Giê sùa”, đạo “Bà Cô Dợ” khi có chiến tranh, thiên tai thì sẽ được đưa đến đất nước của Chúa sinh sống; kêu gọi người Mông phải đoàn kết để chung tay xây dựng đất nước riêng của người Mông...”. Thực chất, “Hà Mòn”, “Dương Văn Mình”, “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đều mang màu sắc của tà đạo, trái hoàn toàn với đạo lý truyền thống văn hóa dân tộc, đã bị các thế lực thù địch lợi dụng gây xáo trộn cuộc sống của người dân, gây mất an ninh, trật tự ở một số địa phương.

Từ thực tiễn hoạt động của các tà đạo trong thời gian vừa qua, có thể nhận diện các tà đạo dựa vào một số đặc điểm chủ yếu sau:

- Về người đứng đầu: Luôn tự đề cao, đánh bóng bản thân mình cho rằng bản thân họ là “phật”, “thánh”, “thần”…, nhiều người trước khi tạo dựng tà đạo hay “đạo lạ” còn mắc bệnh tâm thần hoặc từ nước ngoài tuyên truyền phát triển vào trong nước trước để tạo thanh thế. Các tà đạo thường sùng bái và thần thánh hóa người cầm đầu, khác với tôn giáo truyền thống: đối tượng sùng bái là những bậc thánh hiền, thần thánh hóa lãnh tụ, siêu trần, thoát thế…, tôn giáo truyền thống phát huy được tác dụng hướng thiện, nâng đỡ cuộc sống con người; “tà đạo” thường có tư tưởng cực đoan, chống lại hiện thực xã hội, thực hành lối sống phi pháp, quyên góp, bóp nặn tiền của người dân.

- Về lý thuyết, “giáo lý”, “giáo luật”: Chủ yếu được chắp vá, pha tạp, cải biên, xuyên tạc từ một số điều trong lý thuyết, giáo lý, giáo luật của các tôn giáo truyền thống, đã hình thành từ lâu, nên có những lời khuyên, điều răn dạy hướng thiện, giúp xoa dịu, an ủi con người về mặt tinh thần trước những bất hạnh, khó khăn gặp phải trong cuộc sống (đây là yếu tố làm cho tà đạo có thể tồn tại). Tuy nhiên, có một số tà đạo có nội dung giáo lý trái thuần phong, mỹ tục của dân tộc, phản văn hóa, phản khoa học như khuyên người ốm không dùng thuốc, chỉ cần cúng, dâng hoa, cầu nguyện, dùng “nước thánh”, “thuốc phật”…, trái với quy luật tự nhiên; lợi dụng các tà thuyết về “ngày tận thế” hoặc gắn với các nhu cầu về sức khỏe để lôi kéo, mê hoặc, khống chế quần chúng.

Điển hình như đối với tà đạo “Giê Sùa” đã và đang tác động vào vùng dân tộc Mông nước ta từ năm 2015 và tuyên truyền, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông tham gia với những nội dung khác với giáo lý, giáo luật của đạo Tin Lành. Tà đạo “Giê Sùa” gọi tên Chúa là “Giê Sùa” chứ không phải là Giêsu; coi “đạo Giê Sùa” là tôn giáo chính thống, không thừa nhận các tôn giáo khác; thay nhân vật Adam và Eva trong Kinh thánh bằng “chàng Ong” và “cô Ía”; không tổ chức lễ Giáng sinh, Phục sinh; kiêng ăn thịt lợn và loài cá không vảy. Trong các tài liệu tuyên truyền về tà đạo “Giê Sùa” ngoài nội dung bóp méo Kinh Thánh của đạo Tin Lành, những đối tượng cầm đầu, cốt cán còn tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”.

- Về mục đích hoạt động: Hầu hết các tà đạo đều có chung mục đích là phục vụ lợi ích của người cầm đầu “giáo chủ” (người sáng lập) và một số đối tượng cốt cán, tay chân của họ nhằm thu về kinh tế thông qua thu lệ phí “quy y”, bán “sắc phong”, “bùa”, bán sách, bài giảng, “thuốc chữa bệnh”... Đáng chú ý, các thế lực thù địch, phản động tạo dựng hoặc lợi dụng “tà đạo” như là công cụ để tuyên truyền, tập hợp, thu hút người vào các hoạt động chống chính quyền.

- Về nghi lễ hành đạo: Mang nặng yếu tố mê muội, mê tín dị đoan, lừa bịp, phản khoa học trái với những nghi lễ truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc hay thần thánh hóa lãnh tụ, các bậc thánh hiền, danh nhân, anh hùng dân tộc như: ép quan hệ tình dục tập thể hoặc với giáo chủ để “đắc đạo” (“tà đạo Chân không” của Lưu Văn Ty ở Hà Tĩnh khuyên tín đồ quan hệ tình dục với “người trời” là Lưu Văn Ty); hủy hoại tài sản, của cải, hủy hoại một phần cơ thể hoặc cả thân xác con người để sớm “siêu thoát” (“tà đạo Chân không” khuyên đốt bỏ một phần tài sản, đầy đọa thân xác mới “đắc đạo”; tà đạo “chặt ngón tay” do Phạm Thị Hải ở TP Hồ Chí Minh khởi xướng năm 1993 quy định người tu theo muốn thành “chính quả” phải chặt một ngón tay để bỏ đi một phần thể xác giúp siêu thoát phần hồn...); kích động tự sát để sớm về “nước trời” (như vụ hơn 50 người ở bản Pahé, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La theo tà đạo “Phạ tốc” đã tuân lệnh “giáo chủ” Cà Văn Liêng tiến hành tự sát tập thể).

- Về cách hoạt động: Thường thiên về hoạt động thực tiễn, nhưng lén lút, thường xuyên thay đổi địa điểm nhằm tránh sự phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng; lợi dụng sơ hở của pháp luật, trong công tác quản lý của chính quyền cơ sở để tuyên truyền phát triển “đạo”; tán phát tài liệu tuyên truyền ở trên mạng Internet hay ở những nơi công cộng, nơi tập trung đông dân cư; tập luyện “dưỡng sinh” ở công viên, quảng trường, vườn hoa; lợi dụng những vùng đồng bào trình độ nhận thức còn thấp, điều kiện sống, chăm sóc sức khỏe còn khó khăn để dụ dỗ, lừa bịp, khống chế, lôi kéo theo “đạo”. Điển hình như đối với tà đạo “Bà Cô Dợ” thường sử dụng các đoạn video clip quay các buổi sinh hoạt của điểm nhóm ở Mỹ và phát trực tiếp trên mạng xã hội Facebook, kênh Youtube để giới thiệu, hướng dẫn mọi người sử dụng điện thoại, máy tính bảng... kết nối Internet vào xem trực tuyến và làm theo hướng dẫn.

- Về đối tượng tin theo: Phần lớn người tin theo các tà đạo là những người gặp rủi ro, bế tắc trong cuộc sống, do ốm đau, bệnh tật, nghèo khó; những người có trình độ văn hóa thấp, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cũng có những tà đạo do biết khai thác, lợi dụng, tạo vỏ bọc xuyên tạc các sự kiện thực tế (dịch bệnh, thiên tai, hiểm họa môi trường...) để “khoác áo” cho các “tín điều” nên đã thu hút được những người trẻ tuổi ưa cái mới, kể cả những người có trình độ nhận thức và chuyên môn kỹ thuật cao, hoặc cán bộ các cơ quan chính quyền và nhất là số cán bộ nguyên là lãnh đạo các ngành, giáo sư, tiến sỹ nghỉ hưu tiếp tay cho tà đạo hoạt động.

Cũng như hoạt động bình thường khác của xã hội, mọi sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều phải trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam; nghiêm cấm bất kỳ ai lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật. Dù ở quốc gia nào, hoạt động tôn giáo đều cần phải có sự quản lý để bảo đảm hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và tuân thủ luật pháp. Không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc.

Nhận thức rõ về đường lối, chính sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam

 

Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành chủ quyền quốc gia, cửa ngõ giao lưu quốc tế, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ biển, đảo chính là bảo vệ một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc, giữ vững chủ quyền biển, đảo sẽ góp phần giữ vững chủ quyền của đất nước. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là điều kiện, nội dung giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.

Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, do đó cần kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.

Thực tế cho thấy, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình, đó là thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao...

Điều này đã được nêu rõ trong các nghị quyết của Đảng và được chứng minh qua việc giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam, với tinh thần thượng tôn pháp luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hoà bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã ký nhiều văn bản với các nước liên quan đến biển, đảo.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, phục vụ nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.

Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn. Chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.

Do đó, cần nhận diện, đấu tranh với những chiêu trò suy diễn, phê phán đường lối đối ngoại, đường lối bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, đòi hỏi phải “chọn phe” để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Chúng ta quán triệt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết vấn đề biển, đảo, trong đó chủ quyền biển, đảo là bất biến, sách lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động phức tạp của tình hình…

Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng ta cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Mục đích của việc đấu tranh này là làm cho nhân dân Việt Nam hiểu rõ về lập trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề chủ quyền biển, đảo; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay; góp phần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.