Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2025

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Nội dung cơ bản của tư tưởng nhà nước pháp quyền là: nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả các cơ quan nhà nước) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật, một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những  giá trị cao cả nhất  của xã hội,  của con người. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, đã có từ lâu đời trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật đều là công cụ thống trị  của một giai cấp đối với toàn xã hội, do vậy tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các chế độ xã hội không thể giống nhau. Do vậy, tìm hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, giúp chúng ta quán triệt tư tưởng của Đảng, góp sức mình biến tư tưởng  của Đảng thành hiện thực. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà  tệ tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn, thì tư tưởng nhà nước pháp quyền  của Đảng là cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, xứng đáng là nhà nước  của dân, do dân, vì dân.

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam


Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả lịch sử và lôgíc từ sự kết hợp tự nhiên truyền thống yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ trung thành với những nguyên lý của học thuyết cách mạng, khoa học và hiện đại này; không giáo điều mà chính là nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học, cách mạng của nó để bổ sung, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới bằng thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Sự bổ sung và phát triển sáng tạo ấy thể hiện rõ trong quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chú trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh; về xây dựng, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi; về xây dựng nhà nước kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; về gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa; về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên… trong tiến trình cách mạng Việt Nam hơn 9 thập niên qua.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cội nguồn lý luận cơ bản hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh


Trong quá trình tìm đường cứu nước, bằng sự nhạy cảm chính trị và khảo sát kỹ lưỡng thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - chân lý lớn của thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp cho Người nhân sinh quan cách mạng, thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, Người tổng kết kiến thức, tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn để hình thành nên “một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất”.

Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

Ý nghĩa lịch sử ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4

 

Cách đây 45 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Description: http://ttytgocongdong.soytetiengiang.gov.vn/documents/1416947/20631870/30044.jpg/698dc68d-f8de-4090-8936-191ae88a386e?t=1588038455669

          Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

Vào cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh "cả năm 1975 là thời cơ" và chỉ rõ "nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975". Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: "thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam" và đã đưa ra quyết định: "phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa", đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên "chiến dịch Hồ Chí Minh". Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.

Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên CNXH. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra.

Xã hội chủ nghĩa là gì? Chủ nghĩa xã hội là gì? Cải cách tiền lương sẽ xây dựng chính sách tiền lương đáp ứng yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa đúng không?

 

Xã hội chủ nghĩa là gì? Chủ nghĩa xã hội là gì?

Chủ nghĩa xã hội và xã hội chủ nghĩa thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng chúng có những khác biệt nhất định:

- Chủ nghĩa xã hội là một hệ tư tưởng chính trị và kinh tế nhằm xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng. Chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh việc sở hữu chung các phương tiện sản xuất và phân phối tài nguyên một cách công bằng. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ sự phân chia giai cấp và bất công xã hội

- Xã hội chủ nghĩa là một giai đoạn phát triển của xã hội theo lý thuyết của chủ nghĩa xã hội. Xã hội chủ nghĩa được xem là một bước tiến từ chủ nghĩa xã hội, nơi mà các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội được thực hiện một cách toàn diện. Xã hội chủ nghĩa thường được mô tả là một xã hội dân chủ, nơi quyền lực thuộc về nhân dân và nhà nước hoạt động vì lợi ích của toàn dân.

Cải cách tiền lương sẽ xây dựng chính sách tiền lương đáp ứng yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa đúng không?

Theo khoản 2 Mục 2 Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 quy định:

QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH

Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát

Xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Theo đó khi cải cách tiền lương sẽ xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế.

05 bảng lương mới khi cải cách tiền lương là các bảng lương nào?

Theo điểm b khoản 3.1 Mục II Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 quy định:

Nội dung cải cách

Đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (khu vực công)

Xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng, gồm:

- Xây dựng 1 bảng lương chức vụ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm) trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã theo nguyên tắc: (1) Mức lương chức vụ phải thể hiện thứ bậc trong hệ thống chính trị; giữ chức vụ lãnh đạo nào thì hưởng lương theo chức vụ đó, nếu một người giữ nhiều chức vụ thì hưởng một mức lương chức vụ cao nhất; giữ chức vụ lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương chức vụ như nhau; mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp trên phải cao hơn mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp dưới; (2) Quy định một mức lương chức vụ cho mỗi loại chức vụ tương đương; không phân loại bộ, ngành, ban, uỷ ban và tương đương ở Trung ương khi xây dựng bảng lương chức vụ ở Trung ương; không phân biệt mức lương chức vụ khác nhau đối với cùng chức danh lãnh đạo theo phân loại đơn vị hành chính ở địa phương mà thực hiện bằng chế độ phụ cấp. Việc phân loại chức vụ lãnh đạo tương đương trong hệ thống chính trị để thiết kế bảng lương chức vụ do Bộ Chính trị quyết định sau khi đã báo cáo Ban Chấp hành Trung ương.

- Xây dựng 1 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; mỗi ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức có nhiều bậc lương theo nguyên tắc: Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức lương như nhau; điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi nghề thì thực hiện bằng chế độ phụ cấp theo nghề; sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức, khuyến khích công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Việc bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc chức danh nghề nghiệp viên chức phải gắn với vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức do cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức, viên chức thực hiện.

- Xây dựng 3 bảng lương đối với lực lượng vũ trang, gồm: 1 bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ công an (theo chức vụ, chức danh và cấp bậc quân hàm hoặc cấp hàm); 1 bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và 1 bảng lương công nhân quốc phòng, công nhân công an (trong đó giữ tương quan tiền lương của lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay).

 

Tư tưởng Các Mác - những giá trị vĩnh hằng

 

Các Mác là nhà tư tưởng vĩ đại của thế giới ở thế kỷ XIX. Sinh ngày 5/5/1818 bên bờ sông Trier ở một thành phố cổ của Đức trong một gia đình trung lưu, ông chịu ảnh hưởng nhiều bởi phong cách giáo dục của người cha. Thời thanh niên, ông học chuyên ngành luật và triết học, từng là chủ bút báo. Ông đã cùng với Ăng-ghen phát triển chủ nghĩa cộng sản.

Hệ tư tưởng của Các Mác về chính trị, KT-XH đã có những ảnh hưởng sâu sắc tới thời đại ông sống và mãi sau này. Hai tác phẩm nổi tiếng của ông là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và 3 tập “Tư bản” từng được Lê-nin và các nhà tư tưởng nghiên cứu kỹ. Các Mác cho rằng, lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, trong đó giai cấp thống trị được biết đến là giai cấp tư sản và giai cấp lao động (giai cấp vô sản).

Các Mác (1818 - 1883) - Ảnh tư liệu

Câu nói nổi tiếng của Các Mác mà đến nay loài người vẫn còn coi như châm ngôn sống và hành động: “Hạnh phúc là đấu tranh!”. Đấu tranh chống lại áp bức bất công, chống lại kẻ xâm lược để giành lấy độc lập, tự do. Đấu tranh với những kẻ hung bạo gieo rắc chiến tranh, thù hận để bảo vệ hòa bình và sự sống. Đấu tranh với những lối mòn cũ kỹ, lạc hậu trong tư duy để vươn tới văn minh và tiến bộ. Đấu tranh với những kẻ tham nhũng và xấu xa để bảo vệ công bằng và lẽ phải…

Các Mác cũng khẳng định: “Nền dân chủ là con đường dẫn tới chủ nghĩa xã hội”. Gần 200 năm đã trôi qua, những nhận định ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Chính vì vậy mà nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã xây dựng thể chế chính trị là dân chủ (người dân làm chủ thông qua đại diện). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời năm 1945 đã thay thế cho chế độ quân chủ (vua làm chủ) trước đó.

Năm 1848, tại London, C.Mác và Ph.Ăngghen đã hoàn thành tác phẩm quan trọng có nhan đề Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Ảnh tư liệu

Về mặt xã hội, Các Mác đề cao vai trò kiến tạo, xây đắp xã hội của con người với những danh ngôn nổi tiếng: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, “Lịch sử không làm gì cả, nó không tạo ra vô vàn của cải, nó không chiến đấu. Chính con người, con người thật sự đang sống, đã làm tất cả những điều đó”.

Lịch sử thế giới đã chứng minh, con người đã tạo ra những thành tựu KHKT, công nghệ, văn hóa, văn học nghệ thuật, kinh tế, đặc biệt, những cuộc đấu tranh để bảo vệ hòa bình, hạnh phúc khắp năm châu bốn biển. Nước Việt Nam - “Đất nước bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”(*) cũng được dựng xây nên bởi những người dân chất phác, cần cù lao động, kiên cường, thông minh và dũng cảm.

Nói về ý nghĩa của hành động, việc làm quan trọng gấp nhiều lần những lý luận dài dòng, Các Mác nhận định: “Mỗi một bước vận động thật sự quan trọng hơn một tá cương lĩnh”. Sau này, Bác Hồ cũng đề cao sự noi gương của cán bộ, đảng viên trong việc làm hằng ngày. Người nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người luôn dặn dò cán bộ, đảng viên: Lời nói phải đi đôi với việc làm.

Thời kỳ khoa học công nghệ phát triển mạnh như vũ bão, máy móc, tiện nghi thay thế con người rất nhiều. Bên cạnh mặt tích cực thì chúng ta cũng nhận thấy những hạn chế nhãn tiền, đó là không ít thanh niên lười lao động, nhất là con em những gia đình giàu có. Cách đây gần 200 năm, Các Mác đã nhận định: “Sản xuất quá nhiều thứ hữu dụng tạo ra quá nhiều người vô dụng”. Đây là một lời cảnh tỉnh, một bài học cho các gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội.

Nhiều và rất nhiều danh ngôn nằm trong hệ tư tưởng, triết học Các Mác mà chắc chắn không chỉ hôm nay, loài người mai sau cũng sẽ nhận ra trong đó những giá trị to lớn để tự mình thay đổi tư duy, nhận thức, tự mình đấu tranh mạnh mẽ để giành lấy cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tự mình hành động để góp phần cải tạo và thay đổi xã hội, thay đổi thế giới.

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.

Ngày 5-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927).

Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.

Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).

Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.

Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

 

Tác phẩm “đời sống mới” và những vấn đề đặt ra trong xây dựng đời sống văn hóa

 

Cách đây hơn 70 năm, tháng 3/1947, với bút danh Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Đời sống mới”. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới” không chỉ có giá trị to lớn trong việc xây dựng con người, xã hội Việt Nam mới, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay, đặc biệt trong xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Ý nghĩa lịch sử của tác phẩm "Đời sống mới”

Sau Ngày Quốc khánh (ngày 2/9/1945), đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn. Chính quyền cách mạng non trẻ một lúc phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài; một lúc phải chống “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”, nhiệm vụ mang tính chiến lược của Đảng, Chính quyền cách mạng và nhân dân Việt Nam lúc này là phải vừa kháng chiến vừa kiến quốc.

Ngày 15/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhấn mạnh: “Kháng chiến đi liền với kiến quốc, có kiến quốc tốt kháng chiến mới thắng lợi”. Về lĩnh vực văn hóa: “Về văn hóa, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc, kiến thiết nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại chúng hóa, dân tộc hóa”. Tiếp đó, Đảng xác định: Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng lúc này chính là cải thiện đời sống của nhân dân, cần phải thay đổi, xóa bỏ những lề lối, nếp sống cổ hủ, lạc hậu. Đảng phát động phong trào “Xây dựng đời sống mới”. Ngày 3/4/1946, Ủy ban vận động đời sống mới Trung ương được thành lập và đến tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và cho công bố cuốn sách “Đời sống mới”, Người giải thích rằng: mặc dù “Trong lúc này, người thì lo đánh giặc, người thì lo phá hoại, người thì lo tản cư, toàn dân ai cũng khó nhọc vất vả”, nhưng "Chính trong lúc này càng phải thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. “Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích: "Quân đội phải siêng tập, siêng đánh. Nhân dân tăng gia sản xuất, phải siêng làm, thì kháng chiến chắc chắn thắng lợi, thế cho nên phải Cần. Binh sĩ phải tiết kiệm đạn dược, mỗi viên đạn một tên thù. Cho nên phải Kiệm. Mọi người đều trong sạch, không tham lam, không đem của công dùng vào việc tư, thì mọi việc mới chạy. Cho nên ai cũng phải Liêm. Mỗi người quốc dân đều phải vì nước quên nhà, hăng hái ủng hộ kháng chiến, ra sức tăng gia sản xuất, trừ diệt bọn bán nước hại dân quyết làm cho Tổ quốc thống nhất độc lập. Thế là Chính".

Người cũng giải thích rằng, đạo đức mới không phải là gạt bỏ mọi cái cũ mà phải phát huy những tinh hoa về truyền thống yêu nước, cần cù lao động, đoàn kết chống giặc ngoại xâm, tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách,... Người viết: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm... Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đời sống mới bao gồm đời sống mới riêng cho từng người và đời sống mới chung cho cộng đồng, tập thể như các gia đình, làng xã, các bộ đội, các nhà máy, trường học, các công sở,... Về tinh thần, đời sống mới phải Cần, Kiệm, Liêm, Chính; nếu không làm được như vậy, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Phải yêu Tổ quốc, quan tâm đến lợi ích chung, không kiêu căng, không nịnh hót, không tham lam, không bủn xỉn. Phải ham học, một người không biết chữ, biết tính thì như nửa mù nửa sáng, biết rồi thì học thêm nữa. Về hành động để thực hành đời sống mới không ngoài năm việc là ăn, mặc, ở, đi lại, làm. Đời sống mới không tách rời tăng gia sản xuất.

Thực hành đời sống mới là công việc của mọi người dân, bắt đầu từ cội nguồn là mỗi người, gia đình, làng, xã: "Do nhiều người nhóm lại mà thành Làng, do nhiều Làng nhóm lại mà thành Nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành Làng xấu, Nước hèn; nếu mỗi người cá nhân tốt, thì Làng tốt, Nước mạnh. Người là gốc của Làng, Nước, nếu mỗi người cố gắng làm đúng đời sống mới thì Dân tộc nhất định phú cường". Đối với mỗi người, việc gì có lợi cho Nước phải ra sức làm, việc gì hại cho Nước phải hết sức tránh; bất cứ việc to, việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm. Đối với làng, xã, việc thực hiện đời sống mới, cần phải làm những việc sau: Về văn hóa phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa cờ bạc, hút sách, trộm cắp, đĩ điếm. Tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm cho làng mình trở thành một làng "thuần phong mỹ tục". Trong gia đình, thực hiện đời sống mới về quan hệ thì trên thuận, dưới hòa, bình đẳng, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau, không thiên tư, thiên ái; về vật chất từ ăn mặc, đến việc làm đều tiêu pha có kế hoạch, ngăn nắp; cưới hỏi giỗ tết nên đơn giản tiết kiệm; quan tâm tới con cái, đến việc tu dưỡng học hành, kỷ cương nề nếp; giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng.

Nhìn lại tác phẩm “Đời sống mới” chúng ta thấy rằng, thực chất tư tưởng xây dựng đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Xây dựng con người mới, xã hội mới của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và xây dựng đời sống mới tức là thực hiện đường lối “Kháng chiến - Kiến quốc”, đường lối “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” sáng tạo của Đảng.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới, trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị hướng dẫn xây dựng đời sống văn hóa. Nổi bật trong thời kỳ này là tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”,“Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam”, “Bàn về văn hóa Việt Nam” của Tổng Bí thư Trường Chinh,...

Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ, cùng với kháng chiến về quân sự, kinh tế, ngoại giao,... lĩnh vực văn hóa đã trở thành mặt trận quan trọng, góp phần xây dựng một xã hội mới, xã hội dân chủ nhân dân, hình thành con người Việt Nam mới, con người sẵn sàng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chính nhờ tiếp tục xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa mà miền Bắc đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chi viện tích cực cho chiến trường miền Nam đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.

Giá trị thực tiễn của tác phẩm “Đời sống mới”

Từ Đại hội Toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc Đổi mới, nhằm đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội kéo dài gần 10 năm sau chiến tranh. Cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc xóa bỏ chế độ bao cấp, công nhận và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,...

Cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ xã hội và con người Việt Nam, đưa đến sự cạnh tranh mọi mặt trong cuộc sống và tất yếu không tránh khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật về kinh doanh, thương mại, về an sinh xã hội, môi trường,... Cơ chế thị trường có thể làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên. Sẽ có cán bộ, đảng viên lạm dụng chức quyền, thực thi công vụ trái nguyên tắc và đạo lý, chỉ lo vun vén lợi ích cá nhân, thiếu trách nhiệm, vô cảm với đời sống người dân, gây những hậu quả nghiêm trọng.

          Vấn đề đô thị hóa và sự hình thành các khu công nghiệp đã đưa đến những sự biến động đất đai, cư dân và môi trường. Sự hình thành các khu công nghiệp đã gây xáo trộn dân cư ở nông thôn và thành thị. Số lượng lớn lao động từ các vùng nông thôn về đô thị, kéo theo vấn đề nhà ở cho công nhân, trường học cho con cái họ và các thiết chế văn hóa, sinh hoạt văn hóa cho người lao động; gia tăng các dịch vụ và cơ sở dịch vụ từ giao thông, ăn uống, sinh hoạt văn hóa, nhà cho thuê, du lịch,... tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Cùng với việc tạo môi trường phát triển, vấn đề đô thị hóa và sự phát triển các khu công nghiệp đã làm xáo trộn môi trường sống truyền thống của nhân dân, như: cạnh tranh việc làm, cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm, sự phức tạp về môi trường văn hóa và xã hội, về an ninh trật tự, về giao thông... Sự mở cửa và hội nhập mang lại nhiều yếu tố tích cực, đồng thời kéo theo những tiêu cực. Về văn hóa, việc mở cửa với sự liên thông trong lĩnh vực truyền thông đã đưa người dân Việt Nam tiếp cận trực tiếp, hàng ngày, hàng giờ với văn hóa thế giới bao gồm cả những yếu tố văn hóa tiên tiến, lành mạnh đến những văn hóa thực dụng, phản động, đồi trụy.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả Trí, Lực và Mỹ, xây dựng xã hội Việt Nam dân chủ, công bằng và văn minh.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và phát động Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, để đoàn kết tham gia phát triển kinh tế, tích cực giúp nhau giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống, khuyến khích làm giàu chính đáng. Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, chăm lo sự nghiệp giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng gia đình văn hóa; phát huy truyền thống đền ơn, đáp nghĩa, tương thân, tương ái. Đoàn kết tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng cảnh quan môi trường sáng, xanh, sạch, đẹp. Đoàn kết chấp hành pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đoàn kết phát huy dân chủ, tích cực tham gia giám sát và phản biện xã hội, góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch vững mạnh.

Thực tiễn của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” thời gian qua cho thấy, phát triển sản xuất hàng hóa luôn đi đôi, gắn liền với xây dựng đời sống văn hóa; phải lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Xây dựng đời sống văn hóa cần gắn với cội nguồn mà nhân tố trung tâm là con người và cộng đồng trong các gia đình, làng xã. Trong xây dựng nông thôn mới, mỗi cá nhân, gia đình, làng xã, nhất là người nông dân là chủ thể. Bên cạnh xây dựng đời sống mới ở khía cạch tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật và văn hóa tiên tiến, chúng ta cần phát huy đức tính tốt đẹp của người nông dân như lòng yêu nước, tính cần cù, trung thực, lối sống “tình làng, nghĩa xóm” và xóa bỏ tâm lý tiểu nông hạn hẹp. Đối với cư dân thành thị, đã bước đầu xây dựng và phát huy nếp sống đô thị, nếp sống văn minh và thượng tôn pháp luật trong sản xuất, kinh doanh và trong cách ứng xử.

Thực tiễn cho thấy, trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” thì vai trò của cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu trong hệ thống chính trị và từng người dân đồng sức đồng lòng, thấy rõ việc làm là thiết thực, hữu ích, bằng sự năng động, sáng tạo, quyết tâm cao mới thực hiện được chương trình, mục tiêu đặt ra. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã từng bước nâng cao trách nhiệm lãnh đạo và phối hợp chặt chẽ tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung cuộc vận động và trước hết nêu gương xây dựng đời sống mới trong mỗi gia đình, ngoài xã hội.

Học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đời sống mới, thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng về chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh sẽ góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Giá trị lịch sử và hiện thực của tác phẩm “Đường kách mệnh"

 

Tác phẩm “Đường kách mệnh” là một trong những di sản tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng, Nhà nước ta công nhận là bảo vật quốc gia1. Tác phẩm ra đời cách đây đã 90 năm (năm 1927), nhưng vượt qua thời gian, nó không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Cuốn sách “Đường Kách Mệnh” . (Ảnh tư liệu)

Đúng như tên gọi của nó, Tác phẩm đã vạch ra con đường cách mạng Việt Nam; trong đó, xác định đường lối, mục tiêu, lý tưởng, động lực cách mạng, vai trò của lý luận cách mạng và nhiều vấn đề quan trọng khác, tạo tiền đề về tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930). Dù đã trải qua 9 thập kỷ, nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn của Tác phẩm có vai trò to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay và mai sau.

1. Bối cảnh ra đời và giá trị lịch sử của Đường kách mệnh

Đường kách mệnh là tác phẩm tập hợp những bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho lớp huấn luyện cán bộ cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) từ năm 1925 - 1927, được xuất bản lần đầu tiên năm 1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông ấn hành.

Trong hoàn cảnh phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ, phong trào giải phóng dân tộc ở trong nước đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị khác nhau, đòi hỏi phải có một tổ chức mới, có đường lối đúng đắn và tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Bởi vậy, Tác phẩm ra đời có ý nghĩa và vai trò như kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Để đảng cách mạng chân chính - Đảng Cộng sản Việt Nam - ra đời, đảm đương sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, cần có sự chuẩn bị những tiền đề, điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lịch sử đã chọn lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người gánh vác trọng trách to lớn này trước dân tộc và trước cách mạng Việt Nam.

Trên cương vị là phái viên của Quốc tế Cộng sản, trong khoảng thời gian từ năm 1924 - 1927, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Quảng Châu (Trung Quốc), tiến hành truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng, theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước; trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 6-1925, để xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tập hợp những người yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc. Tại đây, Người đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện, bồi dưỡng cho các hội viên của Hội và trực tiếp giảng các bài về lý luận cách mạng. Với sự ra đời và hoạt động mạnh mẽ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, đã làm cho phong trào yêu nước ở nước ta có sự chuyển biến tích cực, tạo những điều kiện căn bản cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

Như vậy, Đường kách mệnh không chỉ là tài liệu huấn luyện cán bộ, mà còn là tác phẩm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thổi “luồng gió mới” vào phong trào cách mạng Việt Nam; đồng thời, là sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, nội dung của Tác phẩm có mối liên hệ trực tiếp với các văn kiện quan trọng của Hội nghị thành lập Đảng, do chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, như: Chánh cương vắn tắtSách lược vắn tắtĐiều lệ vắn tắt và Chương trình tóm tắt. Đồng thời, đánh dấu sự chín muồi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự thành thục trong phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, là bước ngoặt trong hành trình tìm đường cứu nước của Người. Đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào phong trào cách mạng Việt Nam đương thời. Tác phẩm chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, nhưng được diễn đạt bằng văn phong giản dị, trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, đã gây ấn tượng mạnh trong nhận thức, tư tưởng của quần chúng. Đây có thể xem là kiểu mẫu tuyên truyền, cổ động để giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ mục đích viết: “Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”.

Thời gian đã trôi qua, tình hình thực tiễn có nhiều thay đổi, song những tư tưởng bất hủ của Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong tác phẩm Đường kách mệnh vẫn sống mãi cho tới ngày nay trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2. Giá trị lý luận và thực tiễn của Đường kách mệnh

Đường kách mệnh là một hệ thống luận điểm sâu sắc về cách mạng, về đường lối cách mạng, về Đảng cách mạng, về đạo đức cách mạng, về quan hệ giữa Đảng với công hội, nông hội, đoàn thanh niên, về xây dựng và phát triển hợp tác xã, v.v. Mỗi luận điểm trong Đường kách mệnh chứa đựng chiều sâu về tư tưởng, tính tích cực trong hành động, tính nhân văn trong quan hệ con người và đều có ý nghĩa cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Tác phẩm đã làm rõ cách mạng là gì, có mấy thứ cách mạng, những điều kiện để làm cách mạng, cách thức tổ chức lực lượng cách mạng, tư cách người cách mạng, v.v. Mỗi tiêu đề được Người nêu lên dưới dạng câu hỏi để tác động mạnh vào nhận thức của quần chúng. Xin làm rõ một số luận điểm, tư tưởng chủ yếu sau:

Thế nào là cách mạng? Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một định nghĩa kinh điển về cách mạng: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”, và theo Người, sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm, xây dựng xã hội mới là một công việc rất khó khăn. Muốn làm cách mạng phải “làm cho dân giác ngộ”, phải “giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”. Ở đây, Người đã nêu rõ vai trò quan trọng của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tự giác đứng lên làm cách mạng. Tiếp tục tư tưởng trong Đường kách mệnh, sau này, trong tác phẩm “Đời sống mới” (năm 1947), Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm biện chứng về cái cũ và cái mới, cái xấu và cái tốt để tránh nhận thức máy móc, cứng nhắc. Người viết: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới… Cái gì  mà tốt thì phải phát triển thêm,... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”.

Bôn ba nhiều nước trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu, khảo sát cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mỹ,... Người nhận ra rằng, những cuộc cách mạng đó “không đến nơi”, tức không triệt để, vì nó thay thế thiểu số giai cấp bóc lột này bằng thiểu số giai cấp bóc lột khác, nên đa số nhân dân lao động vẫn cực khổ, vì bị áp bức, bóc lột. Vì vậy, Người cho rằng: “… đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”7.

So sánh Cách mạng Tháng Mười Nga với các cuộc cách mạng đó, Người chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa hai loại cách mạng. Đồng thời khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Phát triển tư tưởng này, trong nhiều tác phẩm kế tiếp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải làm cho mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng được hưởng độc lập, tự do, hạnh phúc; nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì nền độc lập đó có ý nghĩa gì; cách mạng là phải đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Muốn cách mạng thành công phải làm gì? Từ kinh nghiệm cách mạng Nga, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta, muốn cách mạng thành công trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Rõ ràng, nhiệm vụ cấp thiết trước hết lúc đó đối với cách mạng Việt Nam là phải thành lập đảng cách mạng để lãnh đạo cách mạng. Đồng thời, Người xác định động lực của cách mạng: “…muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc và cách mạng phải đoàn kết”; công nông là đội quân chủ lực của cách mạng.

Khi nói về Đảng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận cách mạng, đó là lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Ngay trên trang bìa của Tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã viết câu nói nổi tiếng của V.I. Lê-nin: “Không có lý luận kách mệnh thì không có kách mệnh vận động,...”. Trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Người mới tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân và coi đó là “Cái cẩm nang thần kỳ”, “mặt trời chói lọi” đối với cách mạng Việt Nam. Theo Người, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy; Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam; bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin (tức chủ nghĩa Mác – Lê-nin). Người kết luận “Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin”.

Thế nào là tư cách một người cách mạng? Tư cách của người cách mạng đã được Nguyễn Ái Quốc xem xét một cách toàn diện trên 23 tiêu chí, phản ánh tổng hợp những yêu cầu một người cách mạng phải có cả về đạo đức, năng lực, phương pháp và phong cách. Tư cách người cách mạng được Nguyễn Ái Quốc xem xét trên 03 mối quan hệ: đối với mình (14 tiêu chí), đối với người (05 tiêu chí) và đối với việc (04 tiêu chí). Những tiêu chí về đạo đức cách mạng đã được Người nhấn mạnh: “cần kiệm”, “nhẫn nại (chịu khó)”, “vị công vong tư”, “không hiếu danh, không kiêu ngạo”, “giữ chủ nghĩa cho vững”, “hy sinh”, “phục tùng đoàn thể” và đặc biệt là “ít lòng tham muốn về vật chất”. Theo Người, lòng tham muốn về vật chất dễ dẫn con người đến chỗ bất chấp tất cả, miễn đạt mục đích, dễ dẫn đến chủ nghĩa cá nhân mà chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của biết bao nhiêu căn bệnh như về sau này Người đã chỉ ra trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947). Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng về đạo đức trong Đường kách mệnh thành lý luận về đạo đức cách mạng và cho rằng: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”; đồng thời, nêu lên tiêu chí đạo đức cách mạng là: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Và bản thân Người là một tấm gương sáng về thực hành đạo đức cách mạng. Trong Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc còn nêu ra những tiêu chí về phương pháp và phong cách của người cách mạng, như: “hay nghiên cứu, xem xét”, “xem xét người”, “xem xét hoàn cảnh kỹ càng”, “cả quyết sửa đổi mình”, “cẩn thận mà không nhút nhát”, “trực mà không táo bạo”, “nói thì phải làm”, “quyết đoán”, “dũng cảm”, v.v. Có thể nói, những tiêu chí về tư cách của người cách mạng trong Đường kách mệnh là cơ sở tư tưởng, lý luận quan trọng để Đảng ta xây dựng những tiêu chí, chuẩn mực trong đánh giá cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tác phẩm Đường kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc chứa đựng những giá trị đặc sắc về tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người; là sự chuẩn bị trực tiếp về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù 90 năm đã qua đi kể từ thời điểm Tác phẩm được xuất bản, nhưng những giá trị cốt lõi của các luận điểm được kết tinh trong Đường kách mệnh đến nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị lý luận và thực tiễn, làm cơ sở để Đảng ta từ khi ra đời đến nay, vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đã rút ra bài học lớn: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho phù hợp với tình hình mới; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch nhằm xuyên tạc, bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đối lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời khẳng định: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng lãnh đạo”.

Ngày nay, trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, trước những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu, khai thác và tuyên truyền sâu rộng nội dung của Tác phẩm để Đảng ta xây dựng phương pháp cách mạng phù hợp với tình hình hiện nay là rất quan trọng; nhất là trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

 

Một số vấn đề về nhận diện bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại mới, góp phần củng cố vững chắc định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 

Nhận diện đúng bản chất của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh tác động toàn diện và sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có ý nghĩa quan trọng, góp phần bổ sung vào hệ thống nền tảng nhận thức, lý luận của Đảng, đồng thời củng cố sự kiên định về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay

Kể từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đến chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Khi phân tích về chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: Chủ nghĩa tư bản, với tư cách là phương thức sản xuất được hình thành và thay thế phương thức sản xuất phong kiến trong lịch sử, là chế độ kinh tế - xã hội tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó. Đặc biệt, nhờ vận dụng hiệu quả quy luật của kinh tế thị trường, giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.

Mặc dù chủ nghĩa tư bản có vai trò lớn trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, song vẫn là chế độ bất công bởi những tiến bộ về kinh tế chủ yếu được sử dụng nhằm phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản, do đó chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì các mâu thuẫn nội tại của nó càng sâu sắc; xu thế xã hội hóa sản xuất không còn khả năng chịu đựng trong vỏ bọc chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa... Vì thế, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải được thay thế bằng chế độ kinh tế - xã hội mới.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăng-ghen, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đến thời kỳ độc quyền (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), V.I. Lê-nin đã chỉ ra bản chất kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền tất yếu dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự thống nhất biện chứng giữa quyền lực kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền và quyền lực chính trị của nhà nước tư sản, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, là sự thay đổi về lượng quan trọng để quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phù hợp hơn với trình độ phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Do đó, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển, nhưng là sự phát triển trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản và tiềm năng đó không vô hạn.

V.I. Lê-nin khẳng định, sự phát triển của kỹ thuật và lực lượng sản xuất đã dẫn đến tích tụ sản xuất và độc quyền; ngược lại, sự hình thành của độc quyền thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thêm. Tiến bộ và những bước đột phá của khoa học - kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh. Chính vì sự phát triển của kỹ thuật và lực lượng sản xuất đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất và cải biến phát minh kỹ thuật, từ đó tạo ra khả năng giải quyết tạm thời các mâu thuẫn của lực lượng sản xuất đã xã hội hóa và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vốn đã sâu sắc ngay từ giai đoạn cạnh tranh tự do. Nhưng khi lực lượng sản xuất xã hội hóa thêm một bước, bởi sự thống trị của độc quyền khiến mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt, làm cho quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế - xã hội do nó sinh ra có những biến đổi sâu sắc về quan hệ sở hữu và tổ chức quản lý. Thay đổi quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chủ thể và đối tượng sở hữu.

Vai trò điều tiết của nhà nước tư sản cũng có sự điều chỉnh nhất định thông qua các chương trình, kế hoạch hoặc hỗ trợ trực tiếp để xây dựng định hướng phát triển nền kinh tế phù hợp hoặc điều chỉnh thị trường, sự mất cân đối của thị trường. Sự điều chỉnh của nhà nước đối với nền kinh tế khiến vai trò kinh tế của nhà nước chuyển từ yếu tố bên ngoài (yếu tố tạo môi trường, điều kiện cho các hoạt động kinh tế) thành yếu tố bên trong, nội tại mang tính quyết định quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư bản hiện đại không chỉ thúc đẩy và điều tiết sự vận động của nền kinh tế, mà còn là một chủ sở hữu lớn, chiếm khoảng 15 - 34% tổng số vốn đầu tư trong sản xuất, kinh doanh của nền sản xuất. Do đó, việc quản lý của nhà nước đối với khu vực này là một công cụ được nhà nước sử dụng để điều tiết nền kinh tế.

Ngoài những biến đổi về cơ chế kết hợp nhân sự, sở hữu hay tổ chức quản lý, ở các nước tư bản có sự điều chỉnh trong quan hệ phân phối, thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư sản... Ở các mức độ khác nhau, nhà nước ở các nước tư bản phát triển thể hiện sự quan tâm, coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của người lao động, quy định mức tiền lương tối thiểu, điều kiện làm việc, điều hòa quan hệ giữa người lao động và chủ doanh nghiệp,...; thông qua chính sách thuế để phân phối lại nguồn thu nhập, chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội để hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, giảm bớt sự phân hóa và xung đột xã hội; định hướng doanh nghiệp vào thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường.

Trước những thay đổi đó, có những quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản ngày nay đã khác về bản chất so với chủ nghĩa tư bản mà các nhà kinh điển C. Mác - Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã khái quát. Nhiều người nói đến một xã hội hậu tư bản, một chủ nghĩa tư bản nhân dân hay chủ nghĩa tư bản xã hội trong đó phúc lợi ngày càng được chia đồng đều cho mỗi người và thay cho sự phân cực giàu có và bần cùng. Vậy bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay có thực sự thay đổi? Dưới đây là một số nhận diện về bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay:

Một là, theo đuổi lợi nhuận đã, đang và sẽ là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các nhà tư bản. Sự giàu có của các nhà tư bản đều là từ nguồn lợi nhuận này, đúng như C. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Tư bản luận khi phân tích về chủ nghĩa tư bản, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”.

Như vậy, nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất và “bóc lột” vẫn là bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, được biểu hiện dưới nhiều hình thức “tinh vi” hơn so với chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh, thể hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư luôn tăng lên.

Hơn thế nữa, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa tư bản và người lao động làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà phải xem xét cả quan hệ thống trị, bóc lột của các nước phát triển với các nước kém phát triển và đang phát triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực giàu - nghèo của thế giới. Bởi vì, trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, sự bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã mang “tính quốc tế”, thay vì hình thức bóc lột như trước đây bằng những hình thức mới, những quan hệ ràng buộc về kinh tế vẫn bảo đảm lợi nhuận siêu ngạch. Vì thế, các hình thức phổ biến, như xuất khẩu tư bản, di chuyển lao động từ nước này sang nước khác, việc bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, bành trướng về công nghệ, biến nợ nước ngoài thành tư bản đầu tư, các công ty xuyên quốc gia đã kiếm được những khoản lợi nhuận kếch sù. Đây là một trong những hình thức bóc lột của các công ty xuyên quốc gia đối với các nước vay nợ và là hình thức mới trong giai đoạn hiện nay khiến việc sản xuất giá trị thặng dư mang tính quốc tế, được tư bản hóa và xuất khẩu để quốc tế hóa tư bản với sự đa dạng của các hình thức sản xuất ra nó. Như Couldry và Mejias đã khẳng định, “chủ nghĩa thực dân dữ liệu” mở đường cho một giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản, khiến  đời sống con người không chỉ bị chủ nghĩa tư bản chiếm dụng và trực tiếp khai thác lợi nhuận, mà còn bị chúng giám sát và quản trị liên tục. Dù không dự đoán chính xác rằng liệu giai đoạn mới này sẽ phát triển ra sao và có hình hài cuối cùng như thế nào, chúng ta vẫn có thể “chẩn bệnh” cho trật tự xã hội mới này dựa trên cách mà nó đang hoạt động: bằng sự khai thác lợi nhuận và bóc lột đời sống con người vô hạn. 

Hai là, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn là một chế độ bất bình đẳng.

Bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ sự bất bình đẳng trong chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Sự phân cực trong vấn đề tài sản tự nó là biểu hiện của tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Khoảng cách về thu nhập giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển năm 1960 là 30 lần thì hiện nay là 70 lần và giá trị tài sản của các tỷ phú trên thế giới đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Theo đó, tài sản của 1% người giàu nhất cao hơn 74 lần so với 50% người nghèo nhất.

Dù đã thực hiện những “điều chỉnh” để thích ứng, song chủ nghĩa tư bản ngày nay không thể xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất công trong xã hội, mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng, đưa lại hệ quả xấu là khoét sâu thêm khoảng cách giàu - nghèo, khiến các nước nghèo ngày càng nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu hơn. Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng.

Chẳng hạn, khi so sánh giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ sinh lời của đồng vốn, Piketty nhận thấy, từ năm 1914 đến năm 1973, tốc độ tăng trưởng cao hơn tỷ lệ sinh lời của đồng vốn, nhờ vậy, đời sống vật chất của người lao động tốt hơn.

Tuy nhiên, trong 40 năm tính từ năm 1973, tỷ lệ sinh lời của vốn đã tăng lên, vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế đang ngày càng chậm lại; mặt khác, tỷ lệ sinh lời của đồng vốn càng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì bất bình đẳng càng gia tăng. Đây chính là đặc điểm tự nhiên của chủ nghĩa tư bản, hậu quả là làm bất bình đẳng nghiêm trọng hơn.

Ngày nay, tại chính các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất, sự phân hóa giàu nghèo đã trở nên sâu sắc. Cụ thể, theo báo cáo của Oxfam, từ năm 2020, nhóm 1% những người giàu nhất đang nắm giữ gần 2/3 số tài sản mới của nhân loại, trị giá 42.000 tỷ USD, gần gấp đôi số tài sản của 99% nhóm dân số còn lại. Trong đó, số tỷ phú tại Mỹ ngày càng nhiều và giá trị tài sản của họ tăng khoảng 30% kể từ khi bắt đầu xảy ra đại dịch COVID-19 và tăng gần 90% trong thập niên qua. Trong khi đó, khoảng 30% lực lượng lao động Mỹ kiếm được chưa đến 15 USD/giờ.

Trong đại dịch COVID-19, từ tháng 3 đến tháng 9-2020, mức thuế tạm thời đối với 32 tập đoàn thu về số lợi nhuận cao nhất trong thời gian đại dịch có thể lên tới 104 tỷ USD trong năm 2020, con số đủ để chi trả cho trợ cấp thất nghiệp của tất cả người lao động và hỗ trợ tài chính cho tất cả người già và trẻ em ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Bên cạnh đó, trong 2 năm đầu của đại dịch COVID-19, tài sản của 10 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đôi từ 700 tỷ USD lên 1.500 tỷ USD; trong khi thu nhập của 99% nhân loại giảm xuống và thế giới có thêm hơn 160 triệu người rơi vào cảnh nghèo đói. Thực tế các con số này là minh chứng rõ nhất sự bất bình đẳng tại Mỹ cũng như giữa các quốc gia trong những thập niên gần đây.

Sự bất bình đẳng còn thể hiện ở sự phân biệt đối xử giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt là nạn phân biệt chủng tộc, mặc dù nạn phân biệt chủng tộc đã được ngăn chặn một phần, nhưng điều đó không có nghĩa là nạn phân biệt chủng tộc đã giảm.

Ở phạm vi toàn thế giới, sự bất bình đẳng còn được biểu hiện trong mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi, tức là mối quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển. Cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 làm bộc lộ rõ hơn sự phân hóa xã hội ở các nước tư bản phát triển, giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển. Trong khi các nước tư bản tích lũy sự giàu có thì các nước đang phát triển đang phải đương đầu với tình hình nghèo đói, bệnh tật, dốt nát.

Như vậy, dù có điều chỉnh như thế nào thì bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi, đúng như nhận định của Đảng ta về chủ nghĩa tư bản “về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Sự áp bức, bất công đó thông qua sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, không chỉ đóng khung trong từng quốc gia - dân tộc, mà được quốc tế hóa hơn bao giờ hết.

Ba là, chủ nghĩa tư bản ngày nay ngày càng bộc lộ bản chất cực đoan, hiếu chiến, tạo lập, củng cố độc quyền cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia.

Lịch sử cho thấy, chủ nghĩa tư bản vì mục tiêu lợi nhuận đã sử dụng mọi thủ đoạn để tranh giành thị trường, thuộc địa và phạm vi ảnh hưởng, kể cả chiến tranh xâm lược. Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm của hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng trăm cuộc xung đột, chạy đua vũ trang trên thế giới trong suốt hai thế kỷ qua.

Với toàn cầu hóa kinh tế, quá trình mở rộng thống trị của tư bản tài chính vượt khỏi biên giới quốc gia, thông qua hoạt động xuất khẩu tư bản, chiếm lĩnh thị trường. Để củng cố và mở rộng sự thống trị của tư bản tài chính, các nước tư bản đã không ngừng tăng chi phí cho việc tăng cường sức mạnh chính trị, quân sự. Sức mạnh kinh tế được hậu thuẫn bởi sức mạnh công nghệ, quân sự, các nước tư bản phát triển ngày nay, đứng đầu là Mỹ đã luôn thực hiện “quy tắc” của quốc gia này đối với phần còn lại của thế giới. Sử dụng vũ lực để buộc các quốc gia phải lệ thuộc, đe dọa quyền tự quyết của các dân tộc, áp đặt giá trị cường quốc kinh tế cho các nền kinh tế ngày càng trở nên phổ biến.

Việc quân sự hóa nền kinh tế, chạy đua vũ trang, hình thành và bành trướng của các tổ hợp công nghiệp quân sự trong phạm vi thế giới của quá trình toàn cầu hóa trong điều kiện thống trị của tư bản độc quyền là biểu hiện của tính phi nhân đạo của chủ nghĩa tư bản. Do chạy theo mục tiêu lợi nhuận độc quyền cao trong sản xuất quân sự đã đẩy các nước tăng cường sản xuất quân sự, chạy đua vũ trang, do đó chi phí tài chính cho sản xuất vũ khí quân sự ngày càng lớn. Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) công bố năm 2022, Mỹ dẫn đầu thị trường vũ khí thế giới với chi tiêu quốc phòng đạt 877 tỷ USD, chiếm 39% trong tổng số chi tiêu trên toàn cầu.