Thứ Năm, 29 tháng 2, 2024

 

TÁC ĐỘNG HỢP TÁC QUÂN SỰ  NGA  VỚI  CÁC NƯỚC ASEAN
TỪ  XUNG ĐỘT QUÂN SỰ NGA-UKRAINE 

Xung đột quân sự Nga - Ukraine đã và đang tác động nhiều mặt đối với Đông Nam Á với tư cách là một khu vực địa lý và ASEAN với tư cách là một tổ chức. Đặc biệt, xung đột quân sự Nga - Ukraine đang tác động đến hợp tác quân sự ASEAN – Nga, thể hiện:

Hiện nay, Nga là một đối tác hợp tác quân sự quan trọng của ASEAN, nhất là trong lĩnh vực mua sắm vũ khí, trang bị. Khi làn sóng dịch Covid-19 thứ hai bùng phát ở Đông Nam Á, Nga là một trong những nước đầu tiên cung cấp vaccine phòng dịch cho các nước ASEAN như Việt Nam và Philippin. Tháng 12/2021, Hải quân Nga và hải quân các nước ASEAN đã phối hợp tổ chức cuộc tập trận chung trên biển đầu tiên ngoài khơi tỉnh Bắc Sumatra của Inđônêxia nhằm tăng cường khả năng phối hợp hành động giữa Hải quân Nga và hải quân các nước ASEAN.

Theo Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI – Stockholm international  Peace Research Institute), từ năm 1999-2019, Nga liên tục chiếm vị trí hàng đầu về nhập khẩu vũ khí của Đông Nam Á, chiếm 26% tổng kim ngạch nhập khẩu của khu vực. Mặc dù Nga là nước cung cấp vũ khí hàng đầu cho Đông Nam Á, nhưng các nước trong khu vực đang phải đối mặt với tình thế “tiến thoái lưỡng nan" trong bối cảnh cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine. Đồng thời, các hoạt động mua sắm vũ khí và các cuộc tập trận song phương với Nga sẽ vẫn rất “nhạy cảm", ngay cả sau khi chiến tranh Nga - Ukraine kết thúc. Cho nên, hầu hết các nước trong khu vực và ASEAN cũng sẽ phải tiếp tục theo dõi tình hình một cách thận trọng không làm gia tăng căng thẳng hoặc gánh chịu các biện pháp trừng phạt với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Chẳng hạn, EU có thể áp đặt lệnh trừng phạt đối với các nhà cung cấp vũ khí Nga cho Myanmar hoặc Mỹ có thể áp dụng Đạo luật chống lại các đối thủ của Mỹ thông qua các biện pháp trừng phạt (CAATSA) đối với các nước mua vũ khí của Nga./.

 

XUNG ĐỘT QUÂN SỰ NGA-UKRAINE 
SẼ TÁC ĐỘNG ĐẾN VAI TRÒ CỦA ASEAN VÀ HỢP TÁC NỘI KHỐI

Xung đột quân sự Nga - Ukraine đã và đang tác động nhiều mặt đối với Đông Nam Á với tư cách là một khu vực địa lý và ASEAN với tư cách là một tổ chức. Đặc biệt, xung đột quân sự Nga - Ukraine đang tác động đến vai trò của ASEAN và hợp tác nội khối.

Xung đột Nga - Ukraine và căng thẳng giữa Nga và phương Tây đã đặt các nước nhỏ và vừa vào thế khó khăn. Đông Nam Á chủ yếu là các nước nhỏ và vừa luôn lấy việc đoàn kết bao bọc lẫn nhau để duy trì sự ổn định, điều này thể hiện qua ASEAN, nhưng các này chỉ dừng lại ở mức độ “liên kết mà không liên minh”, giữ một vai trò tương đối hạn chế trong cục diện quốc tế hiện nay thậm chí, đang phải mặt với nguy cơ chia rẽ nếu xảy ra xung đột thì có thể dẫn đến tình trạng " đèn nhà ai, nhà nấy rạng". Đây là là khó khăn trong nội khối của ASEAN, nhưng được coi là thuận là các nước ngoài khối,  nhất là các nước lớn trong việc lôi kéo tập hợp lực lượng dẫn đến áp lực phải chọn bên đối với các nước.

Bên cạnh đó, xung đột Nga - Ukraine còn tác động đến cấu trúc quốc tế và khu vực, do quan hệ giữa Nga và các nước phương Tây có nhiều thay đổi, các nước Đông Nam Á cần điều chỉnh quan hệ và chính sách đối ngoại để ứng phó với sự thay đổi này. Mặc dù ASEAN luôn tuân thủ nguyên tắc giữ vai trò trung tâm và cố gắng tránh xa sự cạnh tranh của các cường quốc, nhưng điều này không thể ngăn cản Nga giảm bớt sự tiếp xúc với các nước trong khu vực. Quan hệ kinh tế và chính trị với Nga ở các mức độ khác nhau có thể tạo ra sự chia rẽ trong ASEAN về cách đối phó với một cuộc khủng hoảng leo thang ở Ukraine, như đã từng xảy ra với Hiệp hội trong cuộc đảo chính ở Myanmar./.

 

HỆ QUẢ XUNG ĐỘT QUÂN SỰ NGA-UKRAINE
TÁC ĐỘNG ĐẾN LÒNG TIN CHÍNH TRỊ CỦA CỦA ASEAN 

Xung đột quân sự Nga - Ukraine đã và đang tác động nhiều mặt đối với Đông Nam Á với tư cách là một khu vực địa lý và ASEAN với tư cách là một tổ chức. Đặc biệt, xung đột quân sự Nga - Ukraine đang làm gia tăng ảnh hưởng sâu rộng trên mọi mặt đối với các nước thành viên, làm cho ASEAN đang đứng trước những lựa chọn ngày càng khó khăn hơn trong quan hệ với các nước lớn. Đồng thời, nó cũng làm xói mòn đoàn kết nội khối và vai trò trung tâm của Hiệp hội trong các cơ chế hợp tác khu vực.

Mặc dù các quốc gia thành viên ASEAN có những phản ứng khác nhau đối với cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine, nhưng đều có điểm chung là không có khả năng cũng như nhu cầu thể hiện lập trường của mình và lo lắng rằng, việc lựa chọn phe giữa các cường quốc sẽ làm phức tạp thêm các vấn đề an ninh của các nước này. Mặt khác, các nước Đông Nam Á cũng có truyền thống và nhu cầu về duy trì nền ngoại giao độc lập. Sau khi xung đột quân sự Nga - - Ukraine xảy ra, tại một số nước Đông Nam Á bắt đầu xuất hiện sự bất an “không ai có thể tin cậy được”, nhất là đối với Mỹ; tỏ ra hoài nghi về “chiếc ô an ninh" của Mỹ đối với khu vực./.

Tàu hải cảnh Trung Quốc hoạt động trong bãi Tư Chính: Việt Nam đang và sẽ kiên trì bảo vệ quyền, lợi ích của mình

 

Trước việc Trung Quốc điều tàu hải cảnh hoạt động trong khu vực bãi Tư Chính, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nêu rõ: Việt Nam đang và sẽ kiên trì bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng trên biển của mình bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Chiều 29/2, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc Trung Quốc điều tàu hải cảnh hoạt động trong khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam gần đây, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết:

Theo đó, bãi ngầm Tư Chính là một phần của thềm lục địa Việt Nam và được xác lập chủ quyền hoàn toàn phù hợp với Công ước luật biển Liên hợp quốc năm 1982.

Việt Nam kiên quyết phản đối mọi hành động vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển Liên Hợp Quốc năm 1982.


Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc

 

Từ chủ trương, đường lối đến hiện thực cuộc sống đều là những luận cứ đanh thép, thuyết phục, có ý nghĩa then chốt trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc; bác bỏ những luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng phủ nhận thành tựu bảo đảm quyền cho người dân tộc thiểu số và lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động, chia rẽ, tạo sự bất ổn về chính trị ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta.

Sinh thời, trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ miền núi, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ ta đối với miền núi là rất đúng đắn. Trong chính sách đó có hai điều quan trọng nhất là: Đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào”.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 53 dân tộc thiểu số. Kể từ ngày thành lập, 94 năm qua (1930 - 2024), Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo, hiệu quả chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng sự phát triển, không ngừng tự hoàn thiện nhận thức, lý luận về vấn đề dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho từng thời kỳ.

Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ I (tháng 3/1935), Đảng đã đề ra Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số. Nghị quyết có đoạn nêu rõ: “Đảng Đại hội xét rằng lực lượng tranh đấu của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn”… và “sự miệt thị công tác trong các dân tộc thiểu số là một lầm lỗi chính trị rất to lớn” …

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951), Đảng chỉ rõ: “Các dân tộc trên đất nước Việt Nam được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc. Kiên quyết chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đánh đổ âm mưu gây chia rẽ dân tộc của đế quốc và bè lũ tay sai. Cải thiện đời sống đồng bào, giúp họ tiến bộ về mọi mặt, đảm bảo họ tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong giáo dục địa phương thiểu số”.

Tháng 8/1952, Bộ Chính trị có nghị quyết về “Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay”.

Ngày 22/6/1953, Chính phủ ban hành chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam, trong đó khẳng định đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến, kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt.

Đại hội IV (1976), Đảng chủ trương: “Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam… Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người với dân tộc đông người; đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp; làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc, đoàn kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội VI (1986) là Đại hội của đường lối Đổi mới đất nước, song với vấn đề dân tộc, Đảng ta kiên trì chủ trương: “Phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể, kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã hội”.

Qua các kỳ Đại hội VII đến XII, Đảng ta đều tiếp tục khẳng định lại và bổ sung, đổi mới trong việc đề ra chủ trương, đường lối để lãnh đạo về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc.

Như vậy, có thể thấy rất rõ, qua các thời kỳ khác nhau, với những nhiệm vụ cách mạng khác nhau nhưng quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, chính sách dân tộc luôn nhất quán quan điểm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển”, Việt Nam không ủng hộ phân biệt đối xử giữa các dân tộc.

Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trên cơ sở nhận định sâu sắc tình hình trong nước, thế giới cũng như tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 12/3/2003, tại Hội nghị lần thứ 7 khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong tình hình mới. Trong Nghị quyết này, Ban Chấp hành Trung ương đề ra 5 quan điểm, đó là:

Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

Thứ ba, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội; thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Thứ tư, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số và miền núi; trước hết, tập trung phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

Thứ năm, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.

Riêng đối với Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong tình hình mới, Đảng ta đã 2 lần tiến hành tổng kết. Lần đầu vào năm 2009, sau đó, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 57-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW. Lần tổng kết thứ hai vào năm 2019, sau đó, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, trong đó Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối cho công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030 với rất nhiều điểm mới, mang tính đột phá.

Đến Đại hội XIII (2021), Đảng đã khẳng định chủ trương về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc cho giai đoạn 2021 - 2025, đó là: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi.

Không lâu sau Đại hội XIII, nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 (ngày 23/5/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích và nêu rõ: một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”…; “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo”.

Cùng với đó, trong bài viết “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới”

Như vậy, về mặt đối nội, hệ thống các quan điểm, đường lối vấn đề dân tộc của Đảng là mục tiêu, căn cứ, cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế thành Hiến pháp, pháp luật và các chính sách dân tộc, huy động các tổ chức chính trị - xã hội cùng phối hợp thực hiện, tạo ra sức mạnh tổng thể của cả hệ thống chính trị cùng nhau xây dựng các mối quan hệ dân tộc tốt đẹp; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng của Việt Nam.

                                                            Phương Liên - Lý Thu

Việt Nam tích cực thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

 

Thừa nhận và đảm bảo quyền con người là một chỉ báo đánh giá sự phát triển văn minh, tiến bộ của mỗi xã hội, là cơ sở để Nhà nước ghi nhận và đảm bảo quyền cho người dân. Trên quan điểm đó, Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) và là thành viên tích cực thực hiện theo đúng các nội dung của Công ước này.

Ngày 19/12/2023, ngành Ngoại giao tổ chức Hội nghị lần thứ 32. Tới dự và phát biểu tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Có thể nói, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thuỷ chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay”.

Nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là sự ghi nhận kết quả đạt được sau một quá trình bước ra hội nhập với sân chơi thế giới của Việt Nam. Về mặt đối ngoại, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã cố gắng hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của nước thành viên. Hiện nay, Liên hợp quốc có 24 công ước quốc tế liên quan đến quyền con người, trong đó có 9 công ước được coi là quan trọng và cơ bản nhất.

Việt Nam đã tham gia phê chuẩn và cam kết thực hiện 7/9 công ước có liên quan đến quyền con người, gồm: Công ước về quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Công ước về quyền của người khuyết tật, Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.

Trong Chương trình bình luận “Việt Nam bảo vệ quyền con người” (Thứ bảy ngày 10/12/2022, trên kênh VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam), PGS,TS Nguyễn Thị Thanh Hải - Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận xét, nếu so sánh cuối những năm 1980, thời kỳ bắt đầu công cuộc Đổi mới với hiện nay thì có thể thấy rất rõ sự phát triển trong cách tiếp cận, quan điểm của Việt Nam về quyền con người.

Nếu những năm đầu Đổi mới, quyền con người là vấn đề “nhạy cảm”, thậm chí là cấm kỵ thì hiện nay đã được thừa nhận rộng rãi trong quan điểm, trong hệ thống văn bản của Đảng, Nhà nước ta, là nội dung giảng dạy trong trường học. Từ chỗ quyền con người được tiếp cận thụ động, thậm chí mang tính chất đối phó với những phê phán, chỉ trích từ bên ngoài thì nay đã được coi là mục tiêu cốt lõi của quá trình phát triển của Việt Nam.

PGS,TS Nguyễn Thị Thanh Hải còn cho rằng, sự thừa nhận và đảm bảo quyền con người là một chỉ báo đánh giá sự phát triển văn minh, tiến bộ của mỗi xã hội, là cơ sở để Nhà nước ghi nhận và đảm bảo quyền cho người dân.

Trên quan điểm như vậy, trong các công ước quốc tế Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia có một công ước quan trọng, trực tiếp liên quan đến quan hệ giữa các dân tộc, đó là Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc.

Ra đời từ năm 1965, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) lên án nạn phân biệt chủng tộc và xác lập nghĩa vụ cho các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn các chính sách nhằm loại trừ các hình thức phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, dòng dõi, dân tộc hoặc gốc người thiểu số.

Việt Nam tham gia Công ước CERD từ năm 1982 và từ đó đến nay, luôn là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã và đang thực hiện nghiêm túc các nội dung của Công ước CERD; đồng thời thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy quyền của đồng bào dân tộc thiểu số.

Ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc khẳng định, tham gia Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Việt Nam có cơ hội giúp bạn bè quốc tế có cái nhìn đúng đắn, những đánh giá, nhận định khách quan về chủ trương, đường lối công tác dân tộc và những thành tựu đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc, đồng thời đón nhận những tri thức quốc tế để xem xét vận dụng vào quá trình hoạch định chính sách dân tộc phù hợp với thực tiễn của đất nước.

Song, tham gia Công ước cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ phù hợp với cơ chế Công ước như: Nội luật hoá các quy định, nguyên tắc về quyền của người dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, truyền thống lịch sử, văn hoá; đảm bảo tiến bộ thực sự về nhân quyền cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, chính kiến, nguồn gốc xuất thân…; định kỳ thực hiện Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện Công ước; thực hiện các khuyến nghị, trả lời kháng thư về quyền con người; triển khai các hoạt động giáo dục, thông tin về quyền con người và một số thủ tục khác theo yêu cầu của Uỷ ban Công ước CERD.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, vấn đề đảm bảo quyền con người của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam luôn không tách rời các hoạt động giám sát của các cơ quan của Liên hợp quốc, của các cơ quan điều ước quốc tế về quyền con người.

Tham gia Công ước CERD, Việt Nam chấp nhận sự giám sát quốc tế về quyền của người dân tộc thiểu số thông qua các hình thức: Xem xét báo cáo quốc gia theo cơ chế đánh giá định kỳ; Thực hiện các thủ tục đặc biệt nhằm điều tra, đánh giá các vấn đề, tình huống về quyền con người cụ thể; Đưa ra các bình luận, khuyến nghị đối với Việt Nam liên quan trực tiếp đến các quyền của người dân tộc thiểu số…

Ngoài cơ chế giám sát của các cơ quan của Liên hợp quốc, của các cơ quan điều ước quốc tế về quyền con người, ở cấp độ song phương, Việt Nam hiện có cơ chế Đối thoại nhân quyền chính thức với 5 đối tác là: Mỹ, EU, Thuỵ Sĩ, Na Uy và Australia. Việt Nam cũng có nhiều kênh trao đổi không chính thức về các vấn đề quyền con người, tham gia nhiều diễn đàn liên quan đến các khía cạnh khác nhau của quyền con người.

Ở đây, cũng cần nói thêm rằng trong lĩnh vực nhân quyền “vẫn đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa lực lượng tiến bộ nhằm phát huy những giá trị cốt lõi thuộc về con người với các thế lực lợi dụng nhân quyền để thực hiện ý đồ chính trị.

Nhìn chung, trong các hoạt động hợp tác song phương cũng như tại các diễn đàn đa phương về quyền con người, Việt Nam luôn tích cực, chủ động và có những đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên tinh thần đối thoại, tăng cường hiểu biết lẫn nhau.

Đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền nói chung, quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi một số lực lượng chính trị, xã hội quốc tế sử dụng nhân quyền như một công cụ để thực hiện các cuộc “cách mạng màu” nhằm lật đổ các chế độ xã hội mà họ coi là “không phù hợp” với quan điểm của họ, với các giá trị nhân quyền phổ biến thì cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này đã mang những nội dung và tính chất mới đối với nhiều quốc gia - dân tộc nhằm bảo vệ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên Liên hợp quốc.

Đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ các quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người, bảo vệ các thành quả về quyền con người mà nhân dân Việt Nam nói chung, cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng đã đạt được trong hơn 9 thập niên qua; đồng thời kiên quyết chống lại các luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của một số thế lực thù địch nhằm lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động, chia rẽ, tạo sự bất ổn về chính trị, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, làm suy giảm lòng tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước…

Thực hiện Công ước CERD, Chính phủ Việt Nam đã giao Uỷ ban Dân tộc chủ trì phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan xây dựng báo cáo quốc gia và tổ chức bảo vệ tại Ủy ban Công ước CERD, hướng tới mục tiêu đóng góp vào việc ngăn chặn và chống lại sự phân biệt chủng tộc.

Việt Nam đã 4 lần bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia thực thi Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012. Tại khóa họp lần thứ 111 (ngày 29, 30/11/2023), Việt Nam trình bày báo cáo quốc gia định kỳ từ lần thứ 5 theo hướng dẫn của Ủy ban Công ước CERD.

Báo cáo tập trung thể hiện kết quả Việt Nam thực thi Công ước CERD từ năm 2013 - 2019, cụ thể là các nội dung: Hệ thống pháp luật Việt Nam và các thiết chế bảo đảm, thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam; Định nghĩa phân biệt chủng tộc và đánh giá sự phù hợp của định nghĩa phân biệt chủng tộc trong các điều luật của Việt Nam; Vai trò quan trọng của công tác dân tộc và thực hiện các chính sách dân tộc trong việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Kết quả thực hiện các cam kết cấm và xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam; Các biện pháp đảm bảo cho người dân tộc thiểu số ở Việt Nam không phải chịu bất cứ hành động phân biệt chủng tộc nào.

Ngoài việc bảo vệ báo cáo quốc gia trước Uỷ ban Công ước CERD, Việt Nam còn tham gia tích cực các phiên đối thoại với các Ủy ban Công ước CERD và nghiêm túc xem xét các khuyến nghị, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch triển khai tăng cường thực thi các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên./.

                                                                     Phương Liên - Lý Thu

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chính sách dân tộc ở Việt Nam


Các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách thông tin sai lệch bản chất chính sách dân tộc nhằm gây hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) với Đảng, Nhà nước; kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Nhận diện luận điệu, thủ đoạn của chúng để nâng cao cảnh giác, đấu tranh phản bác, đồng thời khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng về vấn đề dân tộc là rất quan trọng.

Vùng dân tộc thiểu số và miền núi là địa bàn trọng điểm để các thế lực thù địch lợi dụng

Trong 12 năm, từ 2011 - 2023, vùng DTTS và miền núi xảy ra hai vụ việc rất nghiêm trọng. Vụ thứ nhất, từ 30/4 - 6/5/2011, một số phần tử xấu dùng nhiều thủ đoạn kích động, lừa mị lôi kéo hàng nghìn đồng bào Mông từ nhiều xã trong huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên và các địa phương khác: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Đắk Nông, Đắk Lắk… tụ tập về bản Huổi Khon, xã Nậm Kè để chờ ngày chúa phán quyết (21/5/2011) và xưng vua.

Các thế lực thù địch đã lợi dụng trình độ dân trí thấp, đời sống khó khăn và sự cả tin của đồng bào trong âm mưu xưng vua của một số phần tử cầm đầu; lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền đạo trái pháp luật hòng làm mất ổn định chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn biên giới.

Vụ thứ hai, đêm 10/6, rạng sáng 11/6/2023, gần 100 đối tượng người DTTS, chia thành 2 nhóm tấn công trụ sở xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk giết chết 4 cán bộ Công an xã, làm bị thương 2 cán bộ Công an xã khác, đập phá, thiêu đốt tài sản nhà nước và công dân... Trên đường rút chạy, các đối tượng tiếp tục phá hoại tài sản của người dân; uy hiếp 3 người dân làm con tin; giết chết 2 cán bộ xã và 3 người dân. Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của cán bộ, người dân, phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân để thành lập cái gọi là “Nhà nước Đêga”.

Kết quả điều tra xác định, do thiếu hiểu biết, vướng mắc trong cuộc sống cá nhân nên một số đối tượng là người DTTS ở tỉnh Đắk Lắk đã bị các đối tượng phản động, lưu vong ở Mỹ là Y Mút Mlô, Y Čik Niê, Y Niên Êya, Y Bút Êban (Y Bé Êban), Y Chanh Byă, Y Sôl Niê... dùng nhiều thủ đoạn tuyên truyền, kích động, lôi kéo, dụ dỗ tham gia tổ chức phản động. Các đối tượng cốt cán trong nước nghe theo chỉ đạo của các đối tượng nước ngoài tiếp tục lôi kéo, dụ dỗ, đe dọa, cưỡng ép một số người DTTS nhẹ dạ, cả tin khác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thành lập nhóm vũ trang lấy tên gọi là “Lính Đêga” để tiến hành hoạt động khủng bố, phá hoại...

Ngoài hai vụ việc trên, tại vùng DTTS và miền núi, những năm gần đây, còn xảy ra một số vụ đồng bào DTTS khiếu kiện, tranh chấp đông người; phát sinh một số vụ mâu thuẫn giữa đồng bào DTTS với người Kinh, với doanh nghiệp, chính quyền… 

Từ những sự việc trên cho thấy, vùng DTTS và miền núi là địa bàn trọng điểm mà “thế lực thù địch, phản động đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ đối với nước ta, trong đó các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ là những mắt xích chiến lược, các thế lực thù địch đang tập trung “đột phá”.

Được sự tiếp sức, hậu thuẫn của thế lực thù địch, một số đối tượng cầm đầu trong các tổ chức phản động người DTTS lưu vong đã lập ra cái gọi là “nhà nước” của người DTTS ở bên ngoài như: Nhà nước “Đề ga” của người Thượng, “Nhà nước Mông”, “Chính phủ Chăm lưu vong”… Từ đó, chúng chỉ đạo, móc nối với số đối tượng trong nội địa tập hợp lực lượng, củng cố tổ chức… để khi có thời cơ sẽ tổ chức biểu tình, bạo loạn cướp chính quyền, thành lập “nhà nước” ở từng vùng DTTS nước ta”

Đưa ra các quan điểm sai trái, thù địch, vu cáo, xuyên tạc là thủ đoạn phổ biến

Một thuộc tính cố hữu trong bản năng chống Cộng của các phần tử thù địch đối với cách mạng Việt Nam nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng đó là nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp và phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đa số đồng bào DTTS sinh sống ở vùng miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn. Lợi dụng trình độ dân trí thấp, bản tính thật thà, chất phác của đồng bào và những khó khăn, thiếu sót trong thực hiện chủ trương của Đảng về chính sách dân tộc, các thế lực thù địch, phản động thường đưa ra các quan điểm sai trái, thù địch, vu cáo, xuyên tạc: “Đảng, Nhà nước Việt Nam “phân biệt đối xử” với các DTTS” hoặc “chính sách ngược đãi các DTTS đang diễn ra ở Việt Nam”. Mục đích của chúng là thông tin sai lệch bản chất chính sách dân tộc nhân văn, tốt đẹp, làm mất uy tín của Đảng, gây hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước; kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, hình thành lực lượng phản động là người DTTS làm đối trọng với lực lượng cách mạng trên địa bàn, thúc đẩy xu hướng ly khai, tự trị dân tộc, gây ra các vụ xung đột, bạo loạn, khủng bố… để “quốc tế hóa” vấn đề dân tộc, tạo cớ cho các thế lực thù địch can thiệp vào công việc nội bộ, phá hoại nền độc lập, thống nhất và sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam.

Có thể thấy rõ âm mưu, thủ đoạn này của chúng qua phân tích trong bài viết “Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc về quyền của nhóm dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 4 (32) - 2023 của PGS,TS Nguyễn Thị Báo, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Tác giả nêu: “lợi dụng vụ khủng bố ở Đắk Lắk ngày 11/6/2023, các thế lực thù địch đã chớp thời cơ đưa ra nhiều luận điệu xảo trá xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; vu khống, bôi nhọ Việt Nam, kích động tư tưởng ly khai dân tộc, tạo điểm nóng về nhân quyền, gây bão dư luận quốc tế, gây bất ổn định từ bên trong và kiếm cớ kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam nhân danh bảo vệ nhân quyền của đồng bào DTTS: Đài Á châu tự do đã đăng tải bài viết có nội dung kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta, cho rằng: trên thực tế Đảng ta không thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết dân tộc, áp dụng chính sách “thuộc địa”, vi phạm quyền sở hữu đất đai của người Thượng dẫn đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”. Đài VOA đăng tải, “giật tít” nhiều bài viết đánh lừa người đọc, trích dẫn nhiều lời sai trái, bịa đặt của các phần từ phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài như: Y Phíc - đối tượng thuộc nhóm “Người Thượng vì công lý - MSFJ”), Nguyễn Đình Thắng - kẻ cầm đầu BPSOS, CAMSA ở Mỹ xuyên tạc chính sách pháp luật của Việt Nam về quyền của người DTTS, những kẻ này không bỏ lỡ cơ hội kiếm Đô-la bằng nhiều câu từ mang tính kích động, hằn học, bêu riếu chính quyền, cho rằng vụ tấn công của người Thượng ở Đắc Lắc là do họ bị “đẩy đến đường cùng”.

Báo điện tử Công an nhân dân phản ánh: “Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 23/6 đăng bài “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc của núi rừng trong lòng tôi” đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Bài viết cố tình hướng lái sai mục đích, ý nghĩa của vấn đề di dân, phát triển kinh tế ở Tây Nguyên, từ đó quy chụp “không gian của các sắc tộc bị tan vỡ”! Người viết đưa ra những câu từ vừa trái bản chất, vừa mang tính kích động như “Sau biến cố 30/4/1975, Tây Nguyên bước vào kỷ nguyên bị phá vỡ””.

Các thế lực thù địch đã triệt để “lợi dụng và xoáy sâu vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, đất đai, xem đây là những “ngòi nổ” để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, “bài Kinh”. Trên phương diện quốc tế, các tổ chức phản động lưu vong và các đối tượng xấu triệt để lợi dụng Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị để tuyên truyền xuyên tạc. Lợi dụng các diễn đàn quốc tế vu cáo Việt Nam “đàn áp, diệt chủng người dân tộc ở Tây Nguyên”, kêu gọi Mỹ, Liên hiệp quốc can thiệp, gây sức ép ngoại giao với Việt Nam”

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc một khi bị thổi phồng, nói đi nói lại có thể gây ra một số cách hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ, méo mó, phiến diện; làm cho một số nước hoặc một số tổ chức quốc tế mặc dù rất ủng hộ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đối với công tác dân tộc, nhưng đôi khi bị nhiễu loạn thông tin, hiểu sai, hiểu nhầm. Chẳng hạn, trong một số vấn đề đề nghị phía Việt Nam giải thích thêm trong vòng 48 giờ sau các phiên bảo vệ Báo cáo quốc gia lần thứ 5 thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (Báo cáo CERD 5) (tháng 11/2023), Uỷ ban Công ước quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) nêu câu hỏi: “Chiếm đất là một trong những hành vi vi phạm nghiêm trọng nhất quyền lợi của người dân bản địa. Chúng tôi nhận được nhiều báo cáo rằng chính phủ hoặc chính quyền địa phương tịch thu đất đai của người dân bản địa đã sống ở đó nhiều thế hệ với lý do là các dự án trữ nước hoặc xây dựng sân gôn và khu nghỉ dưỡng. Những người đó đã bị đuổi khỏi đất đai của họ chỉ với sự hỗ trợ tái định cư và bồi thường tài chính tối thiểu. Xin giải thích về hành vi vi phạm như vậy đối với người bản địa?”

Về câu hỏi này, không cần đến 48 giờ, ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, Trưởng đoàn công tác liên ngành đàm phán đối thoại bảo vệ Báo cáo CERD 5 rất nhanh chóng đã khẳng định: “Ở Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố trí tái định cư. Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận lợi cho người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất ở Việt Nam được thực hiện công khai, minh bạch, tạo điều kiện tốt nhất cho người có đất thu hồi sớm ổn định cuộc sống tại nơi tái định cư. Không có việc người dân bị chính quyền “đuổi” ra khỏi nơi cư trú một cách vô cớ. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do Nhà nước thu hồi đất ở thì được hỗ trợ tái định cư”…

                                                            Trần Quỳnh - Phạm Kiên 

Chính sách đúng đắn và nhất quán về người Việt Nam ở nước ngoài

 

Xác định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam luôn là chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, mới đây, Đề án 'Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới' được ban hành đã nhanh chóng nhận được quan tâm hưởng ứng của đông đảo kiều bào và nhân dân cả nước.

Tuy nhiên các thế lực thù địch đã lập tức coi đây là mục tiêu mới để xuyên tạc và bôi nhọ nhằm chống phá và vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngày 10/11/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang ký Quyết định số 1334/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” (Đề án). Mục tiêu tổng quát của Đề án nhằm huy động nguồn lực NVNONN tham gia phát triển đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với mục tiêu phát triển của Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 như Đại hội Đảng lần XIII đã đề ra; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước; củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng NVNONN đóng góp cho đất nước.

Mục tiêu cụ thể là tăng cường thống nhất nhận thức NVNONN là nguồn lực ngày càng quan trọng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, từ đó xây dựng các định hướng, chủ trương, biện pháp mang tính tổng thể, cơ bản, lâu dài nhằm thu hút và phát huy tối đa nguồn lực này. Tạo môi trường, cơ chế trong nước để NVNONN yên tâm gắn bó, phát huy nguồn lực của mình với đất nước.

Xây dựng hành lang pháp lý để NVNONN cơ bản được hưởng môi trường pháp lý tương đương với người trong nước khi tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh, khoa học-công nghệ, văn hóa thể thao, nhân đạo. Tạo khuôn khổ, cơ chế bền vững khuyến khích NVNONN tham gia phát triển đất nước trên các lĩnh vực phù hợp với nguồn lực của cộng đồng; đẩy mạnh phát huy hiệu quả nguồn lực của trí thức NVNONN thúc đẩy chuyển giao tri thức và kỹ năng; thu hút và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động, du học sinh trở về; triển khai hiệu quả các sáng kiến, đóng góp từ thiện nhân đạo, xã hội của các cá nhân, tổ chức NVNONN tại Việt Nam; phát huy vai trò cầu nối của NVNONN trên các lĩnh vực khoa học-công nghệ, kinh tế, thương mại, văn hóa, xã hội...

Cùng với các chủ trương, chính sách liên quan đến NVNONN của Đảng và Nhà nước ta đã ban hành trước đây, Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, đặc biệt trong vấn đề nêu cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị nhằm hỗ trợ cũng như chăm lo cho NVNONN.

Có thể khẳng định, Đề án thể hiện ghi nhận, đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng NVNONN. Cùng với các chủ trương, chính sách liên quan đến NVNONN của Đảng và Nhà nước ta đã ban hành trước đây, Đề án thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, đặc biệt trong vấn đề nêu cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị nhằm hỗ trợ cũng như chăm lo cho NVNONN.

Tiêu biểu có thể kể đến việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, khoa học-công nghệ, xuất nhập cảnh, quốc tịch, sở hữu nhà ở… được ban hành nhằm hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của NVNONN khi về nước. Đồng thời việc củng cố mạng lưới NVNONN trên toàn thế giới cũng chính là phục vụ cộng đồng NVNONN.

Tuy nhiên, sau khi Đề án được ban hành, trên một số diễn đàn, trang mạng xã hội của các tổ chức phản động cực đoan NVNONN đã đăng tải cái gọi là “Bản lên tiếng về chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm khai thác người Việt tại hải ngoại”. Nội dung văn bản này lặp lại những luận điệu cũ, đầy hằn học mà lâu nay các đối tượng chống cộng cực đoan thường xuyên rêu rao hòng xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, mưu đồ gây chia rẽ, mâu thuẫn, làm suy giảm niềm tin của cộng đồng NVNONN đối với Đảng, Nhà nước.

Các đối tượng cố tình bóp méo, vu cáo bản Đề án là “âm mưu tinh vi nhằm khai thác nhân tài, vật lực của người Việt hải ngoại”. Một trong những mục tiêu đề ra trong bản Đề án bị các thế lực thù địch tập trung tấn công đó là việc “củng cố mạng lưới NVNONN trên toàn thế giới. Phấn đấu 100% các địa bàn có đông cộng đồng NVNONN thành lập được các hội, đoàn”. Các đối tượng chống phá cho rằng việc thành lập các hội, đoàn nêu trong Đề án là cách để “cộng sản xâm nhập, phá hoại và lũng đoạn các cộng đồng, các hội đoàn, các cơ sở thương mại, trường học của người Việt tại hải ngoại”; “Đảng Cộng sản Việt Nam đang tham vọng “định hướng chính trị”, tức “Đảng hóa” với cả những hội, đoàn trong tương lai mà Đảng hậu thuẫn tại hải ngoại”,...

Các đối tượng cố tình xuyên tạc, vu cáo rằng kể từ Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đến Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về công tác đối với NVNONN đã thất bại nên Đảng ta phải ban hành Đề án mới để tiếp tục thực hiện kế hoạch của mình, đồng thời cho rằng Đề án chỉ là những “giả hiệu dân chủ”.

Trước hết phải khẳng định, đây là những luận điệu xuyên tạc xuất phát từ tư tưởng thù địch nhằm bóp méo ý nghĩa tốt đẹp của các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Nhìn danh sách các tổ chức ký tên vào Bản lên tiếng cực đoan và sai sự thật kể trên, dư luận không hề bất ngờ khi bắt gặp những hội nhóm chống cộng cực đoan vốn đã “quen mặt” suốt nhiều năm qua như cái gọi là “Đại Việt quốc dân đảng”, “Cộng đồng người Việt tỵ nạn chính trị tại Âu châu”, “Hội Ái hữu tù nhân chính trị và tôn giáo Việt Nam”, “Khu Hội Cựu tù nhân chính trị Bắc Cali”, “Mặt trận Toàn Dân cứu nước”,…

Đơn cử như “Hội Ái hữu tù nhân chính trị và tôn giáo Việt Nam”, thành viên tích cực của tổ chức này là Nguyễn Chí Thiện-một người bất đồng chính kiến-từng đứng lên kêu gọi hùng hồn: “Nếu hải ngoại chúng ta quan tâm trợ giúp 100 Mỹ kim cho một tù nhân lương tâm một tháng thì cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền Việt Nam sẽ đạt được thành quả”.

Lời kêu gọi này được đưa ra từ năm 2021 song đến nay đề xuất góp tiền cho “tự do dân chủ” này dường như rơi vào im lặng vì chẳng mấy ai quan tâm, hưởng ứng! Cũng cần phải nói thêm, tổ chức này thường xuyên kêu gọi, kích động người dân “đồng loạt xuống đường”, “biểu dương sức mạnh” nhằm gây rối, phá hoại tình hình an ninh trật tự trong nước, phá hoại cuộc sống yên bình ở Việt Nam. Nếu thật sự muốn vì dân vì nước thì lẽ ra các tổ chức, cá nhân dù ở bất cứ đâu cũng cần phải cổ vũ động viên người dân đoàn kết gắn bó, cùng nhau xây dựng quê hương, phải thấy vui mừng về những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được, tự hào về vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được tăng cường và củng cố.

Thế nhưng “Hội Ái hữu tù nhân chính trị và tôn giáo Việt Nam” và nhiều tổ chức phản động ở nước ngoài đã đi ngược lại điều đó, thường xuyên ra sức bôi nhọ tình hình đất nước, hằn học trước những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, thực hiện nhiều âm mưu thủ đoạn hòng kích động mâu thuẫn, hận thù trong cộng đồng, cản trở sự phát triển của đất nước, rắp tâm lật đổ chế độ, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hạ thấp vai trò vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thực tiễn đã chứng minh, mặc dù sống xa Tổ quốc nhưng đồng bào ta vẫn luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn.

Thực tiễn đã chứng minh, mặc dù sống xa Tổ quốc nhưng đồng bào ta vẫn luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình, quê hương. Chính vì vậy bà con đã có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước đã được kiều bào ta đón nhận và ủng hộ; nhiều người đã về thăm gia đình, quê hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, nhân đạo, từ thiện... Đây cũng là xu thế chung trong cộng đồng NVNONN.

Theo Ủy ban Nhà nước về NVNONN, cộng đồng NVNONN tiếp tục tăng về số lượng và mở rộng về thành phần: khoảng 6 triệu người ở 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% là các nước phát triển, số lượng người Việt Nam ra nước ngoài học tập, lao động, kết hôn, đầu tư… tiếp tục tăng. Đáng chú ý, vai trò, vị thế và uy tín của cộng đồng NVNONN trong xã hội sở tại ngày càng nâng cao, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước. Các hội, đoàn NVNONN tiếp tục được củng cố và phát triển cả về lượng và chất.

Thông qua những việc làm thiết thực, các hội, đoàn NVNONN đã phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái và lòng tự tôn dân tộc, thể hiện vai trò nòng cốt trong việc hỗ trợ kiều bào tại nước sở tại. Đồng bào ta ở nước ngoài ngày càng tin tưởng và ủng hộ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nhiều kiều bào, kể cả những người trước đây từng có mặc cảm, định kiến, nay đã có những bài viết và phát ngôn tích cực về tình hình đất nước, trực tiếp lên tiếng phản bác quan điểm xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Như mới đây, trong chuyến về thăm người thân ở thị xã Ayun Pa (Gia Lai) trong năm 2023, chứng kiến sự thay da đổi thịt trên quê hương, ông R’Ô Bleo, Việt kiều Mỹ năm nay ngoài 80 tuổi, đã bày tỏ sự thán phục trước những nỗ lực và thành quả to lớn của Đảng và Nhà nước, nhất là trong việc chăm lo phát triển đời sống dân sinh, dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

Đồng thời ông R’Ô Bleo cũng lên án mạnh mẽ những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch và phản động lưu vong. Còn ông Rmah Djuan (từng sinh sống ở thị trấn Phú Thiện, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai) đã có những năm tháng tin và nghe theo lời dụ dỗ, xúi giục của kẻ xấu, tham gia kích động đồng bào gây bạo loạn vào năm 2001. Sau khi sang Mỹ định cư, ông đã nhận ra bản chất thật của tổ chức phản động mà mình tham gia do đó đã viết thư về khuyên nhủ một số người dân ở quê nhà vẫn còn u mê sớm từ bỏ các tổ chức phản động để lo làm ăn sinh sống, xây dựng quê hương.

Trước những luận điệu xuyên tạc, thù địch nhằm phủ nhận sự đúng đắn trong chính sách về NVNONN, mới đây là “Bản lên tiếng về chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm khai thác người Việt tại hải ngoại” đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, kịp thời tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh, phản bác.

Dù vẫn những luận điệu, mưu đồ chống phá điên cuồng được lặp lại song cách thức chống phá hiện nay của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng triệt để khai thác ưu thế của mạng xã hội hòng xâm nhập, lôi kéo những người Việt nhẹ dạ cả tin, người bất đồng chính kiến, chia rẽ NVNONN với đồng bào ta ở trong nước.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng các hội, nhóm chống phá ở hải ngoại chỉ là thiểu số trong cộng đồng NVNONN, mục tiêu chống phá của chúng ngày càng lạc lõng trong xu thế phát triển chung của thời đại. Tình nghĩa đồng bào “con Lạc cháu Hồng” keo sơn gắn bó, sự tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò của NVNONN của tuyệt đại đa số người dân chắc chắn sẽ là nền tảng quan trọng để việc triển khai những Đề án đạt được kết quả tốt đẹp, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch.

                                                                     THÀNH NAM