“TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” NHÌN TỪ TRIẾT HỌC LIÊN VĂN HOÁ
Liên văn hóa
được mở rộng, khái quát thành trào lưu triết học liên văn hóa hướng đến những
điểm tương đồng trên nền tảng những khác biệt văn hóa. Soi điều này vào
"Tuyên ngôn Độc lập" của Bác Hồ sẽ thấy đây là một liên văn hóa tiêu
biểu, đặc sắc.
Liên văn hóa
trong một nền văn hóa chính là quan hệ chiều dọc truyền thống-hiện đại. Cảm hứng
đạo lý và ý thức tự chủ về nền độc lập từ “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam)
của Lý Thường Kiệt được Nguyễn Trãi kế thừa, cụ thể hóa và phát triển thành tư
tưởng nhân nghĩa: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
và tư tưởng độc lập dân tộc: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến
đã lâu... Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu, phát triển và nâng cao thành tư tưởng
tỏa sáng ở thời đại mới. Văn bản của Bác mở rộng ý nghĩa hơn nhiều, không chỉ
là “Tuyên ngôn Độc lập” của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con
người, quyền của các dân tộc nói chung. Nhờ ý nghĩa phổ quát rộng rãi này mà
“Tuyên ngôn Độc lập” mang giá trị toàn nhân loại. “Tuyên ngôn Độc lập” rất chú
ý tới liên văn hóa về thời gian lịch sử, vì thế các thời điểm luôn được nhấn mạnh
mang tính xâu chuỗi, kết nối các sự kiện nổi bật như là những bằng chứng lịch sử.
Điểm nổi bật,
đặc sắc của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là sự kết tinh ánh sáng tư tưởng về quyền
được sống, quyền tự do, hạnh phúc đã được khẳng định trên thế giới.
Một là ánh
sáng của Chủ nghĩa Tam dân. Bác Hồ từng khẳng định: “Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Tòa tháp Chủ
nghĩa Tam dân có 3 trụ cột chính với chủ nghĩa dân tộc (dân tộc độc lập), chủ
nghĩa dân quyền (dân quyền tự do) và chủ nghĩa dân sinh (dân sinh hạnh phúc).
Xét về bản chất, Chủ nghĩa Tam dân, theo lời của chính lãnh tụ Tôn Dật Tiên là
“chủ nghĩa cứu nước” nên rất chú trọng đến vấn đề “dân sinh” (với 3 phương diện:
Sinh tồn, sinh kế, sinh mệnh) và “dân quyền” (với 4 quyền cơ bản: Tuyển cử, bãi
miễn, sáng chế, phúc quyết). Như vậy, Chủ nghĩa Tam dân có những hạt nhân rất
tích cực và đi vào “Tuyên ngôn Độc lập” như là sự đương nhiên, tự nhiên vì
chung mục đích cứu nước, đòi độc lập cho nước, hạnh phúc cho dân, đưa Việt Nam
bình đẳng với các nước lớn.
Hai là lấy điểm
tựa công lý từ “Tuyên ngôn Độc lập” của nước Mỹ. Mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, Hồ
Chí Minh trích dẫn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của nước Mỹ do Thomas Jefferson soạn
thảo và được công bố ngày 4-7-1776, rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Linh hồn
của bản tuyên ngôn này chính là chữ “quyền” mà tác giả Hồ Chí Minh đã rất chú ý
nhấn mạnh trong 2 câu văn (dịch) nhưng có tới 6 chữ “quyền”.
Ba là ngọn lửa
nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp, “Tuyên ngôn Độc lập” trích một câu
từ “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” nổi tiếng năm 1791 của cách mạng Pháp:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”. Các chữ: “Tự do”, “bình đẳng”, “quyền lợi” được nhấn
mạnh chính là linh hồn của bản tuyên ngôn này. Như vậy, điểm tựa đạo lý đã trở
thành vũ khí pháp lý: Nước Mỹ và nước Pháp đã đặt vấn đề và mở ra kỷ nguyên mới
cho loài người, quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng của con người. Từ bình
diện con người ở hai bản tuyên ngôn này, Bác Hồ nâng lên ở bình diện mới: Quyền
sống, quyền tự do, quyền bình đẳng của các dân tộc. Hàm ý bật ra từ “liên văn
hóa” Mỹ-Pháp-Việt Nam: Chúng tôi làm đúng theo tuyên ngôn của các người. Các
người hãy công nhận chúng tôi. Xa hơn là: Các người đã tuyên bố thế thì hãy làm
theo tuyên bố của mình!
Bốn là, liên
văn hóa không gian đương đại. Người dựa vào điều khoản quy định về nguyên tắc
dân tộc bình đẳng tại Hội nghị Tehran và Hội nghị Cựu Kim Sơn (hay còn gọi là Hội
nghị San Francisco) để ràng buộc cả thế giới vào sự công nhận Việt Nam độc lập
là một “liên văn hóa” theo chiều rộng không gian: “Chúng tôi tin rằng các nước
đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tehran
và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt
Nam”. Nếu ở trên là sự ràng buộc với Mỹ, Pháp thì đến đây là ràng buộc với đồng
minh. Hội nghị Tehran ở Iran là hội nghị cấp cao họp từ ngày 28-11 đến
1-12-1943 với sự có mặt của nhà lãnh đạo Liên Xô J.Stalin, Tổng thống Mỹ
F.Roosevelt và Thủ tướng Anh W.Churchill. Hội nghị đã củng cố khối đoàn kết của
các nước đồng minh trong đấu tranh chống phát xít. Cũng tại đây, thời điểm ấy,
Liên Xô đã tuyên bố tham gia chống quân phiệt Nhật sau khi chiến tranh kết thúc
ở châu Âu.
Hội nghị Cựu
Kim Sơn ở San Francisco, Mỹ họp từ ngày 25-4 đến 26-6-1945, gồm đại biểu của 50
nước, đã thông qua bản Hiến chương Liên hợp quốc. Hiến chương nêu bật mục đích
của Liên hợp quốc là giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, giải quyết những vấn
đề tranh chấp và xung đột bằng biện pháp hòa bình, củng cố, giữ gìn, phát triển
quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng các quyền bình đẳng và tự
quyết dân tộc, tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực. Hiến chương Liên hợp
quốc là cơ sở chính trị, pháp lý rất cơ bản và quan trọng, là một điểm tựa cho
sự bảo đảm chủ quyền đối với các quốc gia, dân tộc mới giành độc lập. Nó có ý
nghĩa sâu sắc, mang tính phổ quát rộng rãi cho mọi dân tộc, mọi cộng đồng. Hiểu
chủ đề cơ bản của hai hội nghị này càng thấy sự ràng buộc các nước lớn (Hội nghị
Tehran), ràng buộc cả thế giới (Hội nghị Cựu Kim Sơn) phải công nhận nền độc lập
của Việt Nam như là một sự đương nhiên vậy!
Được đặt dưới
thấu kính văn hóa kết tinh ánh sáng các đỉnh cao tư tưởng ấy nên “Tuyên ngôn Độc
lập” như ngọn lửa bùng cháy tỏa sáng mạnh mẽ, có sức lan tỏa lớn. Nhờ hội tụ
các liên văn hóa nên về mặt cấu trúc tổng thể chúng ta cũng thấy sự chặt chẽ
mang tính thuyết phục lớn: Từ điểm tựa đạo lý (về nhân quyền, dân quyền, về lẽ
phải bảo vệ giang sơn, đất nước). Cái lõi của điểm tựa đạo lý này chính là chữ
“quyền” được tác giả nhắc lại 13 lần, đến sự thật chân lý (Pháp lợi dụng lá cờ
tự do đến cướp nước ta)... Tác giả như chôn đứng kẻ thù trong một chữ “chúng”
được nhấn mạnh nhiều lần trong những câu văn ngắn xuống dòng nhiều lần để liệt
kê kể tội: “Chúng lập ra nhà tù... Chúng thẳng tay chém giết... Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa...”, để nêu bật một công lý (ta có quyền hưởng tự do, độc lập
và quyết giữ vững tự do, độc lập. Các chữ ta, nước ta, dân ta, đồng bào ta,
công nhân ta được nhấn mạnh để cần được thừa nhận, khẳng định như là một “đối
trọng” một trời một vực với “chúng”-tức Pháp).
Phần cuối
“Tuyên ngôn Độc lập” mang tính khẳng định, khái quát nên ý tứ cũng dồn về một
chữ “quyền”: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Như vậy, Hồ Chí Minh là người tô đậm thêm chữ “quyền” trong lịch sử văn hóa
nhân loại để mở ra trang mới cho các dân tộc thuộc địa là đòi quyền (tự do, độc
lập) và quyết giữ cái quyền ấy. “Tuyên ngôn Độc lập” của Bác Hồ lại tỏa ánh
sáng liên văn hóa đến các vùng văn hóa khác!
Đến đây, ta thấy Bác Hồ đặt tên bản tuyên ngôn nước
Việt Nam giống như bản tuyên ngôn của nước Mỹ là hoàn toàn có chủ ý: Cảm ơn
nhân dân Mỹ đã khởi đầu, đã làm tấm gương cho các dân tộc trên thế giới đòi quyền
độc lập-quyền thiêng liêng nhất của mỗi con người, mỗi dân tộc. Chúng tôi là một
trong số đó, nhiều dân tộc khác sẽ học tập chúng tôi để có những tuyên ngôn độc
lập của riêng họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét