Hiển thị các bài đăng có nhãn LỊCH SỬ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn LỊCH SỬ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2025

Cất nhắc cán bộ không 'vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang'

 

Nhìn lại lịch sử xây dựng Đảng trong 95 năm qua, cách chọn người, dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. 

Người nói rất cụ thể, rất thiết thực: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”.

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

Cheo Reo: Trận ‘đánh chặn’ vô tiền khoáng hậu

 

Sau thất bại liên tiếp ở Buôn Ma Thuột và Nông Trại – Chư Cúc, ngày 14/3, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút bỏ Tây Nguyên theo đường 7. Từ 15-16/3, quân đội Sài Gòn ở bắc và trung Tây Nguyên (khoảng 15 nghìn quân, gồm cơ quan Quân đoàn 2 thuộc Quân khu 2, Sư đoàn Không quân 6, Lữ đoàn Kị binh 2 và 6 liên đoàn biệt động quân, 6 tiểu đoàn pháo binh) theo đường 7 (đường liên tỉnh) rút chạy qua Cheo Reo về đồng bằng Khu 5.

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2025

Tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, thực tài, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

 Tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, thực tài, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn không đơn thuần là cắt giảm số lượng, mà còn phải chú trọng cải thiện, nâng cao chất lượng đội ngũ, bảo đảm mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực, kỹ năng đáp ứng yêu cầu công việc cũng như có đầy đủ phẩm chất đạo đức, tâm huyết, trách nhiệm. Cán bộ, công chức, viên chức phải thường xuyên tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cũng như phải thực sự cầu thị, sẵn sàng học hỏi, tiếp thu kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm mới để có thể nâng cao chất lượng, kết quả thực thi nhiệm vụ, công vụ trong môi trường có nhiều thay đổi như hiện nay. 

Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy đòi hỏi phải xác định biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh, xây dựng cơ chế đánh giá minh bạch, khoa học, dựa trên kết quả công việc cụ thể nhằm khích lệ người làm việc tốt, đồng thời loại bỏ cá nhân không đáp ứng yêu cầu, qua đó nâng cao hiệu suất công việc. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu xây dựng thể chế, chính sách có năng lực chuyên môn cao, có tầm nhìn và khả năng dự báo. Có cơ chế, chính sách hợp lý, đủ mạnh để thu hút, trọng dụng người có tài năng và có phẩm chất đạo đức tốt vào làm việc cho cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị. 

06 Nhiệm vụ chung cần triển khai tại Kế hoạch định hướng sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ

 

Căn cứ theo tiểu mục 1 Mục II Kế hoạch 141/KH-BCĐTKNQ18 năm 2024 nêu rõ 06 nhiệm vụ chung cần triển khai của kế hoạch định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ như sau:

- Các cơ quan, tổ chức kết thúc hoạt động Ban cán sự đảng, khẩn trương xây dựng phương án thành lập Đảng bộ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trực thuộc Đảng bộ Chính phủ; đồng thời xây dựng quy chế làm việc, mối quan hệ công tác của Đảng ủy bộ sau sắp xếp tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, bảo đảm theo yêu cầu định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ.

- Thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ và tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (giảm tối thiểu 15%-20% đầu mối tổ chức bên trong, không bao gồm các tổ chức thuộc diện hợp nhất, sáp nhập do trùng lặp chức năng, nhiệm vụ khi thực hiện phương án hợp nhất các Bộ) trên cơ sở quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc nêu trên, bảo đảm bám sát yêu cầu định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Ban Chỉ đạo Trung ương; đồng thời, rà soát lại tất cả các hoạt động của các ban chỉ đạo theo hướng kết thúc hoạt động, chỉ giữ lại những ban chỉ đạo có chức năng, nhiệm vụ cần thiết.

- Sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với giảm biên chế cán bộ, công chức, viên chức và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tỉnh hình mới.

- Rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức bộ máy của Chính phủ để có giải pháp đề xuất xử lý trong quá trình sắp xếp; xây dựng dự thảo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

- Đề xuất và giải quyết chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

- Hướng dẫn xử lý tài chính, ngân sách, tài sản cộng và chuyển tiếp quản lý dự án đầu tư công trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Mục tiêu cụ thể về tinh gọn bộ máy

 Mục tiêu cụ thể về tinh gọn bộ máy

- Đến năm 2021: (1) Cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để kịp thời khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý; (2) Thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần làm rõ về lý luận và thực tiễn; (3) Sắp xếp thu gọn hợp lý các đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn theo quy định về quy mô dân số, diện tích tự nhiên và giảm số lượng thôn, tổ dân phố; (4) Giảm tối thiểu 10% biên chế so với năm 2015.

Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:

Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [2]; xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông, tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản "chính quốc", cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản "chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng "chính quốc". 

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 

Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện "kháng chiến và kiến quốc". Thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối :"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới; là nguyên nhân quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ.

Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của "ba tầng Mặt trận": Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của "ba tầng Mặt trận" đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Người đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 

Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chỉ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam" [3]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau” [4]

Trong 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ xác định rõ nội dung và cụ thể hóa mục tiêu về độc lập dân tộc và  chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn đó chỉ ra rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán và đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta trong 91 năm qua. Hiện tại, dù còn nhiều khó khăn, nhưng Ðảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì đó là con đường đúng đắn, là quy luật và xu thế phát triển tất yếu của thời đại; là điều kiện bảo đảm để dân tộc thực sự độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trở thành hiện thực. 

Trong bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay trong nội bộ Đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn vững vàng lập trường, bản lĩnh, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi cấp, ngành và địa phương; mọi lực lượng và toàn dân cần tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nêu cao cảnh giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam

Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. 

Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.  
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người có nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. 

Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2025

Bảo vệ biên giới phía Bắc: Sự kiện lịch sử không được phép lãng quên

Phóng viên VOV phỏng vấn GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam về nội dung này.

PV: Đã 45 năm trôi qua và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc được nhắc lại, nhớ đến như một sự tri ân to lớn đối với những người con thân yêu của dân tộc đã ngã xuống cho nền hòa bình, độc lập của Tổ quốc. Theo ông, chúng ta cần có sự nhìn nhận như thế nào về cuộc chiến đấu này trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi hai nước Việt - Trung đang có những phát triển theo chiều hướng tích cực?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Cuộc chiến tranh xảy ra ở biên giới phía Bắc vào năm 1979 là điều vô cùng đáng tiếc. Bất cứ lịch sử về vấn đề gì hay là sự kiện nào thì cũng là khách quan đối với chúng ta vì nó xảy ra rồi. Cho nên muốn nhìn nhận một cách đầy đủ, đúng đắn thì cách tốt nhất là hãy trình bày nó một cách khoa học.

Chúng ta nhìn lại sự kiện này, định vị về tính chất của cuộc chiến này không phải là để khắc sâu hận thù mà là để nhắc nhở trong quan hệ hai nước có một vết hằn như vậy, có một cái hố ngăn cách như vậy. Bây giờ chúng ta bước qua cái hố đó bằng cây cầu hữu nghị. Chúng ta luôn luôn nhớ là dưới cầu là có cái hố ấy như một sự nhắc nhở trong tương lai không bao giờ để nó tái diễn.

PV: Rõ ràng là nhân dân Việt Nam không bao giờ mong muốn việc tái diễn một sự kiện như vậy. Nhưng khi nhìn lại sự kiện này, chúng ta cũng cần đánh giá đúng sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến đấu bảo vệ những giá trị thiêng liêng của dân tộc?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Đúng thế, trước hết, chúng ta phải thấy rằng, chiến thắng này một lần nữa thể hiện đây là chiến thắng của nhân dân. Những trận đánh đầu tiên bảo vệ chủ quyền lãnh thổ chủ yếu là bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng và dân quân tự vệ. Cho nên, chiến thắng này là chiến thắng của một cuộc chiến tranh nhân dân.

Lúc đó, mỗi một người dân Việt Nam như có một sự sôi sục trong lòng và họ đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng cho sự nghiệp chính nghĩa này.

PV: Tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc một lần nữa được phát huy cao độ trong cuộc chiến đấu này, thưa Giáo sư?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Chắc chắn là như vậy, lịch sử Việt Nam không chỉ có xây dựng đất nước mà luôn luôn phải cầm vũ khí gìn giữ độc lập, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Chủ nghĩa yêu nước đã ngấm vào máu mỗi người dân Việt Nam, tạo thành sức mạnh Việt Nam, thậm chí nó là một phần của văn hóa Việt Nam.

Việc đưa ra những nhận định đúng đắn về cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc năm 1979 sẽ giúp tiếp nối truyền thống, hun đúc khí chất của người Việt Nam và dung dưỡng sức mạnh nội lực của người Việt Nam. Bởi vì chúng ta làm sao biết được trong tương lai không còn những thế lực nào muốn nhòm ngó đất nước ta. Chính vì thế, chúng ta phải vừa xây dựng đất nước hùng cường, vừa phải xây dựng một quân đội mạnh, để bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.

Nếu chúng ta không nói nữa thì đó là “mảnh đất màu mỡ” cho sự xuyên tạc, cho sự kích động. Bởi vì người ta không biết đâu là chân lý. Cách tốt nhất là nói đúng, chân thực để không những cho các thế hệ người Việt Nam mà nhân dân Trung Quốc cũng như là nhân dân thế giới hiểu rõ về sự kiện này.

PV: Đó cũng là nền tảng vững chắc mà chúng ta đang tiếp tục phát huy, biến lòng yêu nước thành những hành động, việc làm cụ thể trong giai đoạn hiện nay, thưa ông?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được coi là giá trị tinh thần vô cùng quý giá và có thể coi đó là cội nguồn sức mạnh của Việt Nam. Trong một cuộc chiến tranh, một cuộc chiến đấu hay một trận đánh thì chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được đẩy lên một cách cao nhất nhằm bảo vệ những giá trị thiêng liêng nhất, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.

Cho nên có thể coi rằng, sự kiện năm 1979 mà quân và dân ta chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên tuyến biên giới phía Bắc đã thể hiện một cách tập trung, cao độ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

PV: 45 năm đã trôi qua, độ lùi của thời gian đã làm cho nhiều vấn đề của lịch sử được làm sáng tỏ hơn và chắc chắn rằng, khí thế và tinh thần sục sôi trong những ngày tháng cách đây 45 năm sẽ là điểm tựa tinh thần rất lớn để chúng ta xây dựng đất nước. Theo ông, bài học lớn nhất rút ra được từ cuộc chiến đấu này là gì?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Tôi nghĩ rằng, lực lượng vũ trang phải được chuẩn bị sẵn sàng. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, đất nước luôn phải đối đầu với kẻ thù hùng mạnh hơn và chúng ta đã có bài học rồi. Chỉ dựa vào bộ đội chính quy là không đủ, phải dựa vào bộ đội địa phương, phải là dân quân tự vệ, dựa vào nhân dân. Đó là một bài học rất lớn phải triển khai.

Nhưng điều tôi muốn nói nhất là phải giáo dục cho thế hệ trẻ, giáo dục truyền thống cho họ. Cho nên sự kiện năm 1979 không được phép lãng quên. Những người anh hùng đã hy sinh, đã đổ xương máu để bảo vệ bờ cõi năm 1979 phải được tôn vinh giống như những người anh hùng đã từng ngã xuống, đã từng đổ xương máu trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

Việc này phải được đưa vào sách giáo khoa, phải được giáo dục như thế nào đó để thể hiện truyền thống yêu chuộng hòa bình, dập tắt muôn đời chiến tranh, nhưng sẵn sàng cầm vũ khí khi quân xâm lược kéo đến.

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2025

35 năm Nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Vị Xuyên: Tiếp tục quy tập các phần mộ liệt sỹ

  Sau 35 năm xây dựng và trải qua một số lần trùng tu, Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Vị Xuyên hiện mang diện mạo mới. Đây là nơi yên nghỉ của gần 2.000 liệt sỹ và một mộ tập thể các liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. 

​​​​​​​

Cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc - Nhắc lại lịch sử để tri ân quá khứ

Ngày 17/2/1979, thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân và dân Việt Nam đã anh dũng, kiên cường chiến đấu đáp trả lại hành động của quân xâm lược, kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. 46 năm đi qua, nhớ lại sự kiện bi thương này để chúng ta một lần nữa khẳng định, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc là cuộc chiến đấu vì chính nghĩa và cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ, tri ân công lao to lớn của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước đã chiến đấu, hi sinh bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Cùng với đó, chúng ta cũng đang nỗ lực giải quyết và bảo đảm đầy đủ các chế độ, chính sách cho đồng bào, chiến sĩ tham gia cuộc chiến đấu này. Đó cũng là truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc ta, luôn ghi nhớ và biết ơn những người đã cống hiến máu xương cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Kỷ niệm 46 năm cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc (17/2/1979 – 17/2/2025), phóng viên VOV phỏng vấn Trung tướng Hoàng Khánh Hưng, Chủ tịch Hội Hỗ trợ các gia đình liệt sĩ Việt Nam.

PV: Là người đã từng tham gia chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, và cũng đã có nhiều năm gắn bó với hành trình tìm kiếm hài cốt liệt sĩ và hỗ trợ gia đình, thân nhân các liệt sĩ, Trung tướng có suy nghĩ như thế nào khi mà chúng ta ngồi đây hôm nay để nhắc nhớ về cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc diễn ra cách đây đã 46 năm?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Chiến tranh là điều không ai muốn hết. Nhưng khi các cuộc chiến đã xảy ra, thì bất cứ một lý do gì cũng không thể lãng quên. Trách nhiệm mọi người là phải ôn lại lịch sử, phải nhớ lại lịch sử.

Thời gian có thể xóa đi những viết tích của đau thương, nhưng sự thật của cuộc chiến thì cần nhắc lại một cách đầy đủ, cần nhớ lại một cách chi tiết, đương nhiên là chúng ta không thêm bớt. Chúng ta không nên khoét sâu mâu thuẫn, khoét sâu hận thù mà chính là nhắc lại để rút ra những bài học, những kinh nghiệm cho hiện tại cũng như tương lai. Nhắc lại lịch sử, cũng là một cách tri ân đối với anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Nói như thế để chúng ta thấy rằng, trong các cuộc chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, gần 1,2 triệu liệt sĩ đã ngã xuống trên các chiến trường, kể cả Việt Nam, Lào và Campuchia. Sự hi sinh đó, tôi suy nghĩ là không uổng.

PV: Không uổng như Trung tướng nói là bởi vì đó là sự hi sinh cho nền hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc, cho chúng ta có được hòa bình trọn vẹn như ngày hôm nay?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Đó là vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Và chúng ta cũng thấy rằng đó là sự hi sinh xứng đáng, sự hi sinh vì dân tộc, vì đất nước bình yên.

Chỉ có điều đáng buồn là cho đến giờ phút này, chúng ta còn 530.000 liệt sĩ nữa chưa biết tên. Trong đó còn 180.000 liệt sĩ nữa đang nằm ở các chiến trường kể cả Việt Nam, Lào và Campuchia.

Có thể nói, mặt trận Vị Xuyên là hết sức ác liệt, chiến trường Hà Giang hết sức ác liệt. Cuộc chiến kéo dài cho đến năm 1989, nhưng từ đó đến nay công tác tìm kiếm, di chuyển hài cốt liệt sĩ còn nhiều vấn đề chưa giải quyết hết được. Chiến trường Hà Giang, tôi nắm không đầy đủ cũng có gần 5.000 liệt sĩ đã hy sinh ở đó. Trong gần 5.000 liệt sĩ này, thực chất là mới có hơn 3.000 liệt sĩ nằm ở nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên của Hà Giang. Còn hơn 1.000 liệt sĩ nữa chúng ta vẫn chưa tìm được hài cốt. Đây là một vấn đề nhức nhối nhất.

PV: Nhắc lại lịch sử không phải là để chúng ta đào sâu quá khứ, tạo thêm khoảng cách mà là để cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau biết rằng, cha anh chúng ta đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm như thế nào để gìn giữ núi sông, bờ cõi, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, nói đúng lịch sử, bản chất của sự kiện và cần đối xử công bằng với lịch sử. Thời thế, quan hệ, bạn và thù có thể có thay đổi, nhưng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì không bao giờ thay đổi.

Nhắc lại các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới là cách tri ân của người đang sống đối với người đã chết, là cách tri ân của dân tộc Việt Nam đối với các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống, đã hi sinh xương máu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Chúng ta nói như vậy là để thể hiện một cách đàng hoàng bản lĩnh của người Việt Nam trong các cuộc chiến tranh. Chúng ta không tự kiêu, tự mãn, nhưng mà chúng ta sẵn sàng hi sinh khi Tổ quốc lâm nguy. Chúng ta sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ biên cương bờ cõi; sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ mồ mả tổ tiên, ông bà và mảnh đất của dân tộc Việt Nam đã xây dựng qua hơn 4.000 năm lịch sử.

PV: Với các gia đình liệt sĩ hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, Hội Hỗ trợ các gia đình liệt sĩ Việt Nam đã có những hoạt động hỗ trợ như thế nào?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Hội hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam đóng góp, giúp đỡ cho phần lớn là liệt sĩ trên mọi miền đất nước. Riêng với các liệt sĩ hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, chúng tôi cũng đã góp phần thực hiện được một số việc.

Ví dụ cách đây 2 năm, Hội đã cùng với nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên Vị Xuyên để di chuyển 7 hài cốt liệt sĩ tìm được ở trong hang đá, trong các điểm cao về nghĩa trang liệt sĩ.

Chúng tôi cũng làm được một số việc như tặng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, tặng quà cho nhân dân ở vùng mà ngày trước là vùng chiến sự trên đó và đặc biệt là những con em đã hi sinh ở Hà Giang như một số thanh niên của Phú Thọ, Hải Phòng, Tuyên Quang, Yên Bái thì chúng tôi cũng đều tìm hiểu và tặng quà, tặng nhà tình nghĩa cho những thân nhân gia đình liệt sĩ có con em hi sinh ở khu vực phía Bắc rất nhiều.

PV: Chiến tranh ngày càng lùi xa, vết tích chiến trường cũng sẽ bị xóa mờ theo năm tháng, đây có phải là khó khăn lớn nhất trong việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ nói chung và hài cốt liệt sĩ hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nói riêng?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Chúng tôi cũng đã có ý kiến rất nhiều để giải quyết vấn đề này. Bộ Tư lệnh Công binh, Bộ Tư lệnh Quân khu 2 và các đơn vị công binh phía Bắc cũng đã tích cực khắc phục vật cản ở khu vực chiến sự ngày xưa, để tìm hài cốt liệt sĩ. Nhưng bây giờ cũng lâu rồi, 46 năm rồi, nhiều hài cốt liệt sĩ lúc đó hi sinh ở trong hang đá, hi sinh ở khe suối rồi bom mìn xung quanh dày đặc, không chôn cất được thì hài cốt liệt sĩ cũng càng ngày càng mai một đi, càng tan biến vào lòng đất. Đúng là sống kiên cường bám đá, chết hóa đá kiên cường.

PV: Những năm gần đây, chính sách hỗ trợ cho các gia đình chính sách nói chung và gia đình, thân nhân liệt sĩ nói riêng đã được Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội quan tâm nhiều hơn, chế độ trợ cấp, phụ cấp cũng cao hơn. Nhưng nhìn chung đời sống của họ vẫn còn nhiều khó khăn, chúng ta cần phải vào cuộc tích cực hơn nữa, đây cũng là những trăn trở của Hội Hỗ trợ gia đình các liệt sĩ?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Đảng và Chính phủ đã giải quyết chính sách đền ơn đáp nghĩa rất tốt. Thực tế các gia đình chính sách ở các địa phương đã có cuộc sống bằng hoặc là tương đối khá hơn so với trước, đó là nói về thu nhập. Nhưng thực tế thì họ khó khăn nhiều lắm, họ rất khó khăn ở chỗ bố mẹ liệt sĩ bây giờ là tuổi cao rồi, sức khỏe ngày càng yếu đi, không sản xuất, lao động được nhiều. Tiền trợ cấp, nếu nói thu nhập cao nhưng thực chất là không cao, còn khó khăn lắm.

Tôi đến hầu hết 63 tỉnh, thành trong cả nước, nhưng phần lớn nhiều gia đình thân nhân liệt sĩ họ khó khăn. Các Mẹ Việt Nam anh hùng cho đến giờ phút này tôi thấy đỡ hơn. Nhưng thân nhân gia đình liệt sĩ thì nhiều nhà còn khó khăn lắm, có thể nói là họ thiệt thòi, nhất là những người vợ có chồng liệt sĩ trước đấy mà chưa có con, bây giờ họ già nghèo, khổ lắm.

Đây là những trường hợp mà chúng tôi có quan tâm, hết sức lưu ý, nhưng việc vận động  tri ân, tài trợ cũng ngày càng khó vì doanh nghiệp làm ăn cũng chưa được tốt lắm. Cho nên việc tri ân, tài trợ, quỹ tri ân của họ cũng chưa được nhiều. Vì vậy mà sự giúp đỡ cho thân nhân gia đình liệt sĩ cũng chưa được hiệu quả và nhiều cho lắm.

PV: Những hi sinh, mất mát của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh, những con số đã nói lên rồi. Ông có cho rằng, đó là những hi sinh mất mát khó có thể nói hết thành lời…Và nó luôn nhắc nhở chúng ta không được lãng quên lịch sử?

Trung tướng Hoàng Khánh Hưng: Trong cuộc đời này không ai muốn chọn cho mình cái chết, ai cũng thích sống, nhưng không có cái chết nào vĩ đại, vinh quang bằng sự hi sinh cho Tổ quốc. Trong thời đại ngày nay, khi kẻ thù muốn thôn tính nước ta, chúng ta không chịu khuất phục thì chúng ta chiến đấu. Không phải là không có những lớp người tiên phong đâu, tôi rất tin tưởng lớp trẻ bây giờ, khi được giác ngộ cách mạng, nhận thức đúng vai trò, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, họ sẵn sàng xả thân, sẵn sàng cống hiến,  sẵn sàng hy sinh. Để có được độc lập, tự do thì không ai tiếc xương máu của mình cả.