Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2020

Các nhà dâm chủ đấu tranh cực gắt



Phe cánh của Phạm Thanh Nghiên đang tích cực tương hỗ Đoan Trang trong việc đả phá bà Hoa, cho rằng Bà Hoa đã ăn hối lộ hàng ngàn đô quỹ của NXB Tự do. Đấu đá là vậy, Phạm Thanh Nghiên vẫn không quên nói đạo lý, chính nghĩa cho rằng đấu tranh này là vì tự do không màng danh lợi. Trong khi cộng đồng mạng (Cđm) phản ứng cực gắt với Phạm Thanh Nghiên và các thành phần trong phe nhóm của NXB Tự do.

BẢO ĐẢM TỰ DO NGÔN LUẬN, KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ CỔ SÚY CHO NGÔN LUẬN TỰ DO, TÙY TIỆN


Tự do ngôn luận là quyền chính đáng, khát vọng chân chính và nhu cầu của con người. Việc bảo đảm tự do ngôn luận là một trong những thước đo thể hiện sự văn minh, ưu việt của thể chế chính trị. Nhận thức sâu sắc điều đó, nhiều năm qua, Việt Nam đã kiên trì, nỗ lực thực hiện các giải pháp để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận cho người dân.         

Nói đến quyền tự do của ngôn luận, không thể không nhắc đến một sự kiện đáng chú ý cách đây 74 năm. Sau khi chính thức tuyên bố thành lập chính phủ cách mạng công nông với thể chế chính trị là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội khóa 1 nước ta đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên ngày 9/11/1946, trong đó điều 10 hiến định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.  Không ngẫu nhiên mà khi hiến định 5 quyền tự do cơ bản đó của công dân, quyền tự do ngôn luận được xếp ở vị trí đầu tiên. Bởi Chính phủ cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã sớm nhận rõ tầm quan trọng của việc bảo đảm tự do ngôn luận cho công dân là cơ sở để mở rộng, phát huy vai trò làm chủ của người dân và khơi nguồn sức mạnh ý chí, trí tuệ của mọi tầng lớp nhân dân phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. 

Điểm đáng nói là Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hiến định quyền tự do ngôn luận cho công dân sớm hơn trước 2 năm so với bản Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948. Điều đó thêm một lần khẳng định lịch sử lập hiến Việt Nam gắn liền với lịch sử hiến định quyền tự do ngôn luận của công dân, qua đó thể hiện tinh thần nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận cho người dân. Nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân được thực hiện trong cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành luật Tiếp cận thông tin và luật Báo chí. Trong đó, điều 3 luật Tiếp cận thông tin quy định: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân.  Điều 11 luật Báo chí năm 2016 cũng có những quy định cụ thể để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, đó là công dân được quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân.

Như vậy, về mặt pháp lý, nước ta đã xây dựng những chính sách phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình trong cuộc sống. 

Cần nhận thức và thực thi đúng quyền tự do ngôn luận 

Bấy lâu nay, khi nói đến quyền tự do ngôn luận, một số người suy nghĩ rằng, tự do ngôn luận là được quyền tự do nói năng, phát ngôn, bình luận, chia sẻ, phát tán thông tin mà không chịu bất cứ sự ngăn cản nào; vì thế nếu ai hạn chế quyền nói năng, phát ngôn, chia sẻ thông tin của người khác là vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân. Nhận thức như vậy là phiến diện, sai lầm và ngụy biện. Bởi trên thực tế, không có quyền tự do nào là tuyệt đối, mà chỉ có quyền tự do tương đối. Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô giới hạn, vô chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát, gây ra rối loạn xã hội. Quyền tự do ngôn luận cũng vậy. Nếu ai cũng nói năng bừa bãi, phát ngôn tùy tiện, chia sẻ thông tin bất chấp đúng - sai, thật - giả lẫn lộn, không chỉ làm cho xã hội rơi vào tình trạng rối nhiễu thông tin, mà còn có thể tạo ra những cuộc khủng hoảng thông tin xã hội một cách trầm trọng, từ đó gây mất ổn định an ninh chính trị. 

Những tháng đầu năm 2020, hầu hết các nước trên thế giới bị ảnh hưởng, lây lan bởi đại dịch Covid-19. Người dân các nước, trong đó có người dân Việt Nam không chỉ đối mặt với virus nguy hiểm này, mà còn phải đối mặt với vấn nạn tin giả bị phát tán tràn lan trên mạng xã hội. Phần lớn những tin giả này xuất phát từ những người lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai trái, thất thiệt. 

Nhận thức rõ vấn nạn tin giả làm rối nhiễu, hoang mang dư luận xã hội, các cơ quan chức năng ở nước ta đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những đối tượng gây ra nạn tin giả trên mạng xã hội nhằm bảo đảm sự trong sạch của môi trường thông tin, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thành công của Việt Nam trong công tác phòng, chống, kiểm soát đại dịch Covid-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, có một phần bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân; đồng thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hàng trăm đối tượng cố tình lợi dụng tự do ngôn luận để đăng tải, phát tán thông tin sai trái về dịch bệnh trên mạng xã hội. 

Kinh nghiệm thực tiễn ở các nước trên thế giới cho thấy, để bảo đảm quyền tự do ngôn luận một cách chính đáng cho công dân, nhất thiết phải tạo ra những khuôn khổ pháp lý, chế tài phù hợp để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để đăng tải, chia sẻ, phát tán những thông tin sai trái, xuyên tạc, bịa đặt, gây hoang mang dư luận xã hội, làm méo mó hình ảnh thể chế, chính quyền. 

Tự do ngôn luận khác với ngôn luận tự do. Điều này đã được đại đa số quốc gia trên thế giới và cả Liên hợp quốc đều lưu ý trong các hiến chương, đạo luật, quy định về các quyền bảo đảm tự do ngôn luận cho con người. Điều 11, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp đã quy định: “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. 

Khoản 2, điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”. 

Quyền đi liền trách nhiệm. Con người muốn có tự do phải hiểu rõ nghĩa vụ, bổn phận của mình được làm những gì, không được phép làm những gì. Công dân muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin thì nhất thiết phải am tường, tuân thủ các quy định pháp luật để thực hiện quyền tự do của mình nhưng không được gây hại đến quyền tự do của người khác và tác động tiêu cực đến đạo đức cộng đồng, an ninh trật tự xã hội. 

Không thể và không bao giờ có tự do ngôn luận cho những “anh hùng bàn phím” bày tỏ ngôn luận tự do, vô trách nhiệm, cố tình đăng tải, phát tán những thông tin sai trái, bịa đặt, ăn không nói có, đổi trắng thành đen, xuyên tạc truyền thống lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, bôi nhọ anh hùng dân tộc, phỉ báng chính quyền, mà thực chất là thông qua mưu đồ sử dụng chiêu bài tự do thông tin, tự do ngôn luận để lèo lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực, mục đích đen tối và tạo ra một góc nhìn sai trái về Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN ở Việt Nam. 

                                                                                             Chủ lực  

 


HƯỚNG DẪN THANH TOÁN CHI PHÍ XÉT NGHIỆM COVID-19 CHO NGƯỜI CÓ THẺ BHYT


Ngày 30/7, Bộ Y tế ban hành Công văn số 4051/BYT-KHTC, gửi BHXH Việt Nam về việc thanh toán chi phí xét nghiệm COVID-19.
Theo đó, tại văn bản này, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn cho biết, thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch COVID-19 về việc tăng cường năng lực, thực hiện xét nghiệm COVID-19, Bộ Y tế đề nghị BHXH Việt Nam chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố tạm thời thanh toán chi phí thực hiện xét nghiệm COVID-19 như sau:
Thanh toán chi phí xét nghiệm COVID-19 đối với người có thẻ BHYT trong trường hợp người bệnh phải thực hiện các biện pháp cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế, người nhiễm COVID-19 đang khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế và các trường hợp được cơ sở y tế chỉ định thực hiện xét nghiệm theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chẩn đoán, điều trị viêm đường hô hấp cấp do nCoV.
Công văn cũng nêu rõ, về mức giá áp dụng quy định tại phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 13/2019/TT-BYT ngày 5/7/2019 của Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư số 39/2018/TT-BYT ngày 30/11/2018 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám chữa bệnh BHYT giữa các BV cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám chữa bệnh trong một số trường hợp.
Cụ thể, dịch vụ số 1735 xét nghiệm vi khuẩn, virus, vi nấm, ký sinh trùng Real- time PCR là 734.000 đồng/mẫu xét nghiệm đối với trường hợp xét nghiệm bằng phương pháp Real-time PCR.
Dịch vụ số 1736 xét nghiệm vi khuẩn, virus, vi nấm, ký sinh trùng test nhanh là 238.000 đồng/mẫu xét nghiệm đối với trường hợp thực hiện test nhanh.
Liên quan về vấn đề này, cũng trong ngày 30/7, BHXH Việt Nam đã có Công văn số 2418/BHXH-CSYT gửi BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Công an nhân dân, đề nghị phối hợp với các cơ sở khám chữa bệnh BHYT trên địa bàn thực hiện, kịp thời giám định và thanh toán chi phí xét nghiệm theo nội dung hướng dẫn tại Công văn số 4051 của Bộ Y tế.
Đồng thời, đề nghị BHXH các tỉnh thực hiện theo các nội dung đã hướng dẫn tại Công văn số 2146/BYT-BH ngày 17/4/2020 và Công văn số 2276/BYT-BH ngày 24/4/2020 của Bộ Y tế về việc thanh toán chi phí khám chữa bênh BHYT liên quan đến dịch bệnh COVID-19./.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống


Người dân cần bình tĩnh và hiểu rõ trước mọi thông tin

Sáng 30-7, các chợ và siêu thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã xảy ra tình trạng người dân đổ xô đi mua đồ về dự trữ trong nhiều ngày, dẫn đến tình trạng chen lấn, hết hàng từ sớm.
Hình ảnh người dân TP Đà Nẵng đổ sô đi mua thực phẩm

Cùng với nhiều thông tin không đúng lan truyền trên mạng xã hội về việc thành phố sẽ đóng cửa các chợ, siêu thị, cách ly hoàn toàn; nhiều người dân đã không tìm hiểu rõ, hiểu nhầm và hoang mang
Người dân hãy bình tĩnh trước mọi trường hợp, phân biệt rõ ràng những thông tin không chính xác trên mạng xã hội và theo dõi kỹ những văn bản đưa ra của thành phố để tránh hiểu nhầm, hoang mang.
Sở Công Thương TP Đà Nẵng khẳng định không có chuyện đóng cửa chợ, siêu thị, không có chuyện ngăn cản vận chuyển hàng hóa lương thực thực phẩm vào thành phố. Thành phố bảo đảm đủ lương thực cho mọi người bây giờ và cả giai đoạn tới./.

Bài học cho nữ tổng giám đốc kỳ thị người dân Đà Nẵng


Ngày 31/7, Sở Thông tin và Truyền thông (TT&TT) TP Đà Nẵng cho biết: Thanh tra Sở TT-TT TP Hà Nội vừa ra quyết định xử phạt người đăng clip kỳ thị người Đà Nẵng.
Theo đó, xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Ngọc Thúy (27 tuổi, trú phố Khâm Thiên, phường Văn Chương, quận Đống Đa, TP Hà Nội) số tiền 7,5 triệu đồng, theo điểm a khoản 1 Điều 101, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 3/2/2020 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin.
Ngoài ra, Thanh tra Sở TT-TT TP Hà Nội cũng yêu cầu bà Thúy buộc phải gỡ bỏ thông tin vi phạm.
Bà Thúy là chủ tài khoản Facebook “Nguyễn Ngọc Thúy”, là Tổng Giám đốc Công ty mỹ phẩm, c có địa chỉ tại phường Văn Chương, quận Đống Đa, TP Hà Nội.
Trước đó, Sở TT-TT Đà Nẵng phát hiện tài khoản mạng xã hội cá nhân Facebook “Nguyễn Ngọc Thúy” (Người dẫn đường) đăng tải bài viết vi phạm quy định pháp luật, cụ thể như sau: Vào ngày 26/7/2020, trên trang mạng xã hội cá nhân Facebook “Nguyễn Ngọc Thúy” đã đăng tải clip Tik Tok, trong đó nội dung của clip có dấu hiệu kỳ thị người dân Đà Nẵng trong bối cảnh người dân toàn thành phố nói riêng và người dân cả nước nói chung đang tập trung phòng, chống dịch COVID-19.
Nội dung clip nêu trên có dấu hiệu vi phạm quy định tại Nghị định số 72 ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng. Đồng thì vi phạm nội dung tại Điều 8, Luật An ninh mạng.
Liên quan sự việc này, bà Nguyễn Ngọc Thúy đã đăng status gửi lời xin lỗi đến tất cả mọi người và mong Đà Nẵng sớm kiểm soát được dịch bệnh./.


Thứ Năm, 30 tháng 7, 2020

Công cụ đen trong tay những “lái buôn lương tâm”


Công cụ đen trong tay những “lái buôn lương tâm”

 

 “Tù nhân lương tâm” là gì? Đó thực sự là một khái niệm mập mờ! Thế nhưng, có một thực tế rõ ràng mà ai ai cũng phải thừa nhận: Những hành vi chống phá chế độ, làm tổn hại đến lợi ích, an ninh quốc gia cũng như cuộc sống bình thường của nhân dân cần phải bị nghiêm trị, và chắc chắn, không thể lấy cái khái niệm “tù nhân lương tâm” để cổ súy, bảo vệ cho những hành vi như thế.

Chiêu trò mập mờ
Lâu nay, các đối tượng thù địch thường dựa vào khái niệm “tù nhân lương tâm” để thổi phồng vấn đề dân chủ, tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam, nhằm thực hiện âm mưu dai dẳng là bôi nhọ, vu cáo và chống phá Nhà nước Việt Nam, làm suy giảm lòng tin của nhân dân Việt Nam vào hệ thống chính trị của nước ta. Ví dụ cụ thể có nhiều, mà gần đây nhất là bản thông cáo báo chí đầy ý đồ do Tổ chức “Bảo vệ người bảo vệ nhân quyền” (Defend the Defenders-DTD) tung ra vào đầu tháng 7 vừa qua.
Thông cáo báo chí của DTD chắc hẳn sẽ khiến những kẻ thường xuyên lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam rất hả hê. Theo bản thông cáo này, tính đến ngày 30-6-2020, Việt Nam đang giam giữ ít nhất 276 “tù nhân lương tâm” trong các nhà tù hoặc các hình thức giam giữ khác, trong đó có 213 người đã bị kết án, chủ yếu là các tội phạm chính trị và 63 "nhà hoạt động" đang bị giam giữ trong thời gian điều tra hoặc chờ xét xử. Thông cáo cũng khẳng định chắc mẩm rằng, đó là những blogger, luật sư, nhà hoạt động về quyền đất đai, nhà bất đồng chính kiến, người hoạt động nhân quyền và tín đồ của các tôn giáo thiểu số không đăng ký bị bắt giữ và kết án “chỉ vì thực hiện một cách ôn hòa” các quyền được bảo vệ bởi các công ước nhân quyền quốc tế và Hiến pháp Việt Nam, như: Quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do của tôn giáo hoặc niềm tin... Và như để nhân lên niềm tin của người đọc về tính chân thực, công tâm của văn bản này, DTD “bồi” thêm: Danh sách 276 “tù nhân lương tâm” nói trên không bao gồm các cá nhân đã tham gia hoặc ủng hộ bạo lực.
Càng nực cười hơn khi DTD cho rằng, sau khi bắt giữ hơn 40 "nhà hoạt động" và blogger, kết án khoảng 40 người bất đồng chính kiến vào năm 2019, Việt Nam tiếp tục trấn áp giới bất đồng chính kiến và người hoạt động xã hội để bảo đảm “sự ổn định xã hội” trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; và rằng, trong khi các nước khác đang tập trung giải quyết những vấn đề do đại dịch Covid-19 gây ra, Việt Nam dường như lại sử dụng cơ hội này để tăng cường đàn áp đối với giới bất đồng chính kiến-những người không bị cộng đồng quốc tế chỉ trích.
Người viết bài này hoàn toàn đồng tình với quan điểm được nêu ra trong bài viết “Ở Việt Nam không có cái gọi là "tù nhân lương tâm” (đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 25-5-2020), trong đó tác giả khẳng định rằng, ở Việt Nam không bao giờ có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, mà thực chất đó chỉ là những người vi phạm pháp luật, bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam. Một trong những dẫn chính điển hình là Cù Huy Hà Vũ, từ một trí thức biến thành đối tượng có tư tưởng và hành động chống đối Nhà nước Việt Nam, tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, đòi lật đổ chế độ, thực hiện đa nguyên, đa đảng, kêu gọi nước ngoài can thiệp...
Chẳng riêng gì ở Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, rất nhiều cá nhân đã bị bắt giữ, thậm chí bị đem ra xét xử và phạt tù vì những tội danh như làm tổn hại tới an ninh quốc gia, tung tin sai sự thật gây hoang mang trong dư luận, gây nguy hiểm cho người dân... Điểm chung của các vụ việc này là đều được xử lý dựa trên luật pháp hiện hành, trên tinh thần thượng tôn pháp luật mà bất cứ quốc gia nào cũng đã và đang nỗ lực hướng tới.
Vậy nên, “tù nhân lương tâm” thực chất chỉ là một khái niệm hết sức mập mờ được tạo ra nhằm đánh lạc hướng, thậm chí đầu độc dư luận, khiến họ khó có thể phân biệt đâu là những người hoạt động vì nhân quyền đích thực, đâu là những đối tượng sử dụng con bài nhân quyền nhằm mục đích gây rối, phá hoại.
Trên thực tế, trong thông cáo báo chí nói trên, DTD cũng khẳng định rằng, trong số 213 người đã bị kết án ở Việt Nam thì chủ yếu là các tội phạm theo các Điều 79, 87 và 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 109, 117 và 331 tương ứng trong Bộ luật Hình sự 2015. Vậy thì, các nhà soạn thảo thông cáo vô tình sơ hở, hay họ đã trực tiếp thừa nhận rằng, những đối tượng kể trên không hề bị kết án một cách vô căn cứ, mà trái lại, hoàn toàn dựa trên luật pháp?
Cần những cái đầu tỉnh táo
Phải thừa nhận rằng, “tù nhân lương tâm” thực sự là một cái mác dễ khơi gợi lòng trắc ẩn trong công chúng. Có lẽ đó cũng là lý do ngày càng có nhiều đối tượng sau khi vi phạm và bị xử lý theo luật pháp Việt Nam, bỗng nhiên được dựng lên như những “tù nhân lương tâm”, tiếp tục trở thành công cụ để các thế lực thù địch vu cáo và bịa đặt về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Để biết thực, giả cái gọi là vấn đề “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam ra sao, trước hết phải đặt ra vài câu hỏi: Có hay không thứ gọi là “lương tâm” trong Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, đối tượng lợi dụng các quyền tự do dân chủ, kích động nhân dân chống chính quyền, chống chế độ, gây phương hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội? Có lương tâm hay không khi hết lần này đến lần khác đăng tải các bài viết trên mạng xã hội, đả kích, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; bôi nhọ, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam như đối tượng Nguyễn Quốc Đức Vượng (sinh năm 1991, ở huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng); hoặc chủ mưu, cầm đầu, khởi xướng việc tổ chức lập “nhà nước Mông” tại huyện Mường Nhé (tỉnh Điện Biên), gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ chính trị của Nhà nước Việt Nam như đối tượng Sùng A Sính, Lầu A Lềnh...? Với những người am hiểu luật pháp, mưu cầu cuộc sống ổn định và có ý thức thượng tôn pháp luật, câu trả lời dĩ nhiên là “không”! Chắc chắn là “không”!
Đáng nói hơn, khi âm mưu của những Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hay Lê Công Định, Nguyễn Thị Công Nhân bị lật tẩy kèm theo những bản án thích đáng, người ta cũng dễ dàng nhận thấy một mưu đồ khác phía sau, đó là biến các đối tượng này “từ kẻ đáng tội thành kẻ đáng thương” bằng nhãn hiệu “tù nhân lương tâm”, dù tội danh của họ đã rõ rành rành. Mục đích cuối cùng là cổ súy, bảo vệ cho những hành vi xem thường luật pháp, gây rối xã hội, chống phá chế độ, xâm phạm an ninh quốc gia, từ đó tạo thêm vây cánh và nhân rộng “chân rết” phục vụ cho những hành động chống phá Việt Nam thông qua các vấn đề về tự do, tôn giáo và nhân quyền. Nói cách khác, “tù nhân lương tâm” thực chất chỉ là một món hàng để đem ra trao đổi và mua chuộc, một thứ công cụ đen để đánh lừa dư luận.
Tiếc rằng, trong chúng ta vẫn còn không ít người nhận thức đơn giản, dễ dàng bị mê hoặc trước những luận điệu và thông tin sai sự thật mà những kẻ đáng bị coi là “lái buôn lương tâm” ấy dựng lên.
Sứ mệnh đấu tranh với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước dựa trên chiêu bài nhân quyền nhằm vào Việt Nam chắc chắn còn dài. Để tạo thêm niềm tin của nhân dân vào sứ mệnh ấy, rất cần những cái đầu tỉnh táo để nhận diện và vạch trần sự thật về thứ đang được các trang web, diễn đàn phản động phát ra rả mỗi ngày: “tù nhân lương tâm”.

Bếp Hoàng Cầm - Huyền thoại ra đời từ chiến dịch Hòa Bình


Nếu ai đã từng đi lính không thế không biết chiếc bếp Hoàng Cầm. Và việc người ch.iến sỹ nào cũng phải biết cơ bản chiếc bếp này. Lên mạng gõ “hoàng cầm” hoặc là “bếp hoàng cầm” sẽ ra kết quả 2 người đó là tướng Hoàng Cầm và nhà thơ Hoàng Cầm. Đại đa số chúng ta sẽ nghĩ chắc là vị tướng kia rồi, Nhưng sự thật tác giả chiếc bếp nổi tiếng không phải vị tướng quân đội này và cũng không phải nhà thơ Hoàng Cầm với bài “Bên kia sông Đuống” nổi tiếng kia. Và thực sự người sáng tạo ra chiếc bếp cho quân đội sử dụng đến tận ngày nay chỉ mang quân hàm thiếu úy khi ra quân.
Hoàn cảnh ra đời
Khi đơn vị tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hòa Bình năm 1952, được tận mắt chứng kiến cảnh đồng đội bị thương vong nhiều, sức khỏe giảm sút do máy bay địch oanh k.ích và điều kiện ăn uống không đảm bảo. Hoàng Cầm nhận ra ch.iến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hy sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hy sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc m.ất mát ấy có một phần do việc nấu ăn vì ban đêm thấy lửa ban ngày thấy khói. Rất nhiều th.ương v.ong của bộ đội xuất phát từ việc “khói bốc lên giữa rừng”, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì d.ập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai họ. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh, bộ đội ăn không đảm bảo sức khoẻ.
Hoàng Cầm đã trăn trở ngày đêm suy nghĩ, mình phải làm một cái gì đó giúp cho đồng đội giảm bớt th.ương v.ong. Một buổi sáng dạo bên bờ suối, nhìn làn khói lượn lờ quanh mái bếp, Hoàng Cầm chợt nảy ra sáng kiến làm một kiểu bếp có thể nấu nướng mọi thứ ban ngày mà không sợ máy bay địch phát hiện. Sau nhiều ngày miệt mài nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp, và nhiều lần làm thử ngh.iệm. Hoàng Cầm đào hàng chục cái bếp khác nhau, với những kiểu bếp khoét sâu vào trong lòng đất có nhiều nhánh dẫn khói giống như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp, chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói vẫn phảng phất bay lên. Không nản chí Hoàng cầm lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi. Trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.
Cuối cùng, Hoàng Cầm đã tạo ra một kiểu bếp như ý, bếp lò khoét vào sườn đồi hoặc đào sâu xuống với những đường rãnh giống như râu mực từ bếp lò bò đi khá xa, trên rãnh được lát bằng cành cây và phủ đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Từ trong lò tuôn ra, khói tỏa vào khắp các rãnh, bốc lên gặp lượt đất ẩm, bị lọc và cản lại, lan ra là là trên mặt đất, thoảng nhẹ nhàng như làn sương buổi sớm. Kiểu bếp này ngay sau đó đã được phổ biến rộng rãi đến các đơn vị và được anh em nuôi quân hoan nghênh.
Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày. Tháng 10 năm 1952, đơn vị đã quyết định lấy tên người chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp: Bếp Hoàng Cầm.
Hiệu Quả
Từ khi ra đời cho tới nay, bếp Hoàng Cầm được sử dụng rộng rãi trong quân đội Việt Nam và là b.ắt buộc sử dụng ở tất cả các đơn vị. Với sáng kiến này, bộ đội đã được ăn cơm nóng, có nước nóng để uống trong mùa đông, các viện quân y dã ch.iến có nước nóng để sát trùng dụng cụ y khoa… Sáng kiến này có giá trị lớn trong thực tiễn hoạt động hành quân, chiến đấu và góp phần quan trọng giữ gìn sức khỏe cho bộ đội. Từ khi bếp Hoàng Cầm ra đời các chiến sĩ nuôi quân không còn lo sợ máy bay địch nhòm ngó mỗi khi nổi lửa, bộ đội ta không phải ăn cơm nguội do nấu vào ban đêm. Bếp Hoàng Cầm đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sức khỏe cho bộ đội, đảm bảo quân số ch.iến đấu cao.
Trong hồi ức “Đường tới Điện Biên Phủ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB QĐND- 2001), có đoạn viết: “Sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc ở đây một sáng kiến đã mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống các chiến sỹ ngoài mặt trận”.
Có thể ngày nay nhiều người không biết Hoàng Cầm là ai, nhưng di sản chiếc bếp ông đế lại cho quân đội vẫn luôn theo chân các chiến sỹ trong toàn quân./.

Theo Reuters: Việt Nam bật chế độ “phản ứng toàn diện” với Covid-19


Với hơn 95 triệu dân, tính đến ngày 30-7, Việt Nam có tổng cộng 464 ca mắc Covid-19 và là quốc gia đông dân nhất thế giới chưa ghi nhận ca tử vong nào.
Theo Reuters, thành công chống dịch bước đầu giúp Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên bắt đầu nới lỏng lệnh giãn cách xã hội hồi tháng 4. Sau đó, các quán bar mở cửa trở lại và đám đông tụ tập trên đường phố như bình thường. Nhiều trận đấu bóng đá cũng diễn ra.
Thêm vào đó, Việt Nam tái mở cửa ngành du lịch nội địa.
Đề cập tới công cuộc khống chế dịch Covid-19 hiệu quả, Reuters cho rằng đó là nhờ Việt Nam tăng cường xét nghiệm và truy vết nhanh hơn nhiều so với các nước láng giềng, đồng thời đưa hàng chục ngàn người đi cách ly nếu họ bị nghi ngờ tiếp xúc với bất kỳ ai mắc bệnh hoặc đến từ nước ngoài.
Trong 100 ngày tính đến hôm 25-7, Việt Nam không ghi nhận sự lây nhiễm virus SARS-CoV-2 trong cộng đồng.
Những biện pháp này đang được áp dụng trở lại sau khi phát hiện trường hợp đầu tiên mắc Covid-19 kể từ lúc lệnh giãn cách xã hội nới lỏng – là một người đàn ông 57 tuổi đến từ TP Đà Nẵng. Tiếp đến, ít nhất 30 trường hợp bị phát hiện dương tính với Covid-19 xung quanh Đà Nẵng và những trường hợp khác ở thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…
Chủng virus SARS-CoV-2 lần này không giống loại virus được phát hiện ở Việt Nam trước đó, cho thấy nó bắt nguồn từ nước ngoài thay vì bùng phát ở nội địa. Tuy nhiên, chưa xác định được nguồn lây nhiễm mới. Bộ Y tế Việt Nam cho biết một trường hợp mắc Covid-19 gần đây – là công dân Mỹ – biểu hiện triệu chứng của bệnh tại Đà Nẵng hôm 26-6. Dịch Covid-19 quay lại Việt Nam cùng lúc với việc phát hiện nhiều người Trung Quốc nhập cảnh trái phép.
Hiện tại, Việt Nam đã đình chỉ tất cả chuyến bay đến và đi từ Đà Nẵng trong 15 ngày. Chính quyền TP Hà Nội thông báo sẽ tiến hành xét nghiệm hàng loạt cho tất cả 21.000 người trở về từ Đà Nẵng, đóng cửa các quán bar và cấm tụ tập đông người. Tới chiều 30-7, TP HCM cũng có bước đi tương tự.


Quan doi tren Tuyen dau chong dich


Theo đề nghị của UBND thành phố Đà Nẵng, đêm 29-7, Quân khu 5 đã huy động lực lượng, phương tiện tiến hành tiêu độc, khử trùng toàn bộ các tuyến đường Quang Trung, Ông Ích Khiêm, Hải Phòng, Nguyễn Thị Minh Khai (phường Thạch Thang, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng). Tinh thần vượt khó, bất chấp hiểm nguy của người chiến sĩ đã giúp người dân trong khu vực yên tâm, phấn khởi, đoàn kết, chung  sức cùng lực lượng ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Trái với khung cảnh đông vui, tấp nập vốn có, sau khi thực hiện lệnh phong tỏa, các tuyến phố xung quanh Bệnh viện C, Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng Đà Nẵng trở nên vắng lặng, im ắng hẳn đi. Nhận thức rõ sự lây lan, nguy hiểm của dịch bệnh, những người dân sinh sống tại đây luôn tự giác, ý thức thực hiện nghiêm các quy định trong thời gian bị phong tỏa.
Tối 29-7, nghe chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng thông báo có bộ đội phòng hóa Quân khu 5 đến tiêu độc, khử trùng toàn bộ khu vực, bà con rất vui mừng, phấn khởi, chủ động nhắc nhau cất gọn ô tô, xe máy, tổng dọn vệ sinh, thu gom chướng ngại vật, giải phóng vỉa hè, lòng đường, tạo điều kiện tốt nhất để các chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ. Sau khi kiểm tra, khảo sát lần cuối toàn bộ khu vực tác nghiệp của đơn vị, đúng 20 giờ, Đại úy Nguyễn Văn Hồng, Phó tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Phòng hóa 78 (Bộ Tham mưu Quân khu 5) ra lệnh cho các kíp xe tiêu tẩy chuyên dụng ARS-14 đồng loạt nổ máy, nối đuôi nhau tiến vào hiện trường. Theo kế hoạch hiệp đồng, để khử khuẩn tối đa diện tích vỉa hè, lòng đường, đoàn xe cơ động chậm từ ngã 4 Quang Trung - Đống Đa xuống Nguyễn Thị Minh Khai, rồi vòng sang Hải Phòng, Ông Ích Khiêm thành một vòng tròn khép kín. Lần thứ nhất toàn bộ vỉa hè bên phải, lần thứ hai toàn bộ vỉa hè bên trái, lần thứ 3 toàn bộ lòng đường, sau 3 lượt xe chạy, các tuyến phố sẽ được tiêu độc, khử trùng rất kỹ càng, cẩn thận.
Trao đổi với chúng tôi khi đoàn xe khử khuẩn vừa đi qua trước ngõ, bà Nguyễn Thị Lượm, buôn bán, kinh doanh và sinh sống trên đường Hải Phòng không giấu được niềm vui: “Nhà đối diện với cổng Bệnh viện Đà Nẵng, nơi liên tục xuất hiện các ca bệnh mới nên trong những ngày gần đây, để phòng, chống dịch bệnh, chúng tôi luôn tự giác thực hiện nghiêm các khuyến cáo của cơ quan chức năng về việc đeo khẩu trang, rửa tay sát khuẩn và giãn cách xã hội. Đêm nay, có bộ đội phòng hóa Quân khu 5 đến tận nhà tiêu độc, khử trùng, bà con trên tuyến phố này ai cũng yên tâm, vững dạ”.
Ba đêm, hai lần nhận lệnh theo xe lên đường phun khử khuẩn, tiêu độc, khử trùng tại các khu vực, Thiếu úy Tống Phước Hiệp, Trung đội trưởng (Đại đội Tiêu tẩy 2, Tiểu đoàn Phòng hóa 78) cho biết: “Từ khi dịch bệnh bùng phát trở lại tại Đà Nẵng, đơn vị chính thức cấm trại 100% quân số. Chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo phương tiện, trang thiết bị, dụng cụ bảo hộ, quân tư trang và luôn trong tâm thế sẵn sàng cơ động, thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn thành phố và cả những địa phương khác khi có lệnh. Hóa chất độc hại, nguy cơ phơi nhiễm cao, chính vì vậy, để bảo vệ sức khỏe bản thân, sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao, dù mệt đến đâu, dù muộn đến mấy chúng tôi vẫn phải thực hiện nghiêm ngặt các bước tiêu tẩy cho xe, tiêu độc cho người theo đúng quy trình, hướng dẫn. Được góp phần nhỏ bé cùng các lực lượng chức năng tham gia ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh, trả lại cuộc sống bình yên cho nhân dân là tôi cảm thấy vinh dự, tự hào”. 
Đã gần 2 giờ sáng, nhưng phía sau đoàn xe, các cán bộ, chiến sĩ Đội y học dự phòng (Cục Hậu cần Quân khu 5) với máy phun khử khuẩn đeo lưng vẫn đang mải miết đi vào từng gốc phố để tiêu độc, khử trùng. Vừa quay ra từ một con hẻm nhỏ, trong lúc chờ đồng đội đổ đầy dung dịch Chloramin B vào chiếc bình phun đã cạn khô, Thiếu tá QNCN Trần Anh Dũng, nhân viên Kỹ thuật Đội y học dự phòng tranh thủ ngồi xuống vỉa hè nghỉ ngơi cho lại sức. Trò chuyện với chúng tôi, anh Dũng tâm sự: “Khi đổ đầy hóa chất, mỗi chiếc bình phun nặng hơn 20kg. Theo tính toán sơ bộ của anh em trong đội, đêm nay mỗi người sẽ cơ động khoảng 8 - 10 cây số. “Hành quân xa, mang vác nặng”, lại phải khoác lên người bộ quần áo bảo hộ kín bít bùng dưới tiết trời nóng nực thế này, cảm giác chẳng dễ chịu chút nào cả. Để tiết kiệm thời gian, công sức của bộ đội, quá trình chúng tôi cơ động trong các con hẻm, chỉ huy đơn vị sẽ điều xe tải nhỏ, chở dung dịch Chloramin B đứng chờ trên các trục đường lớn, sẵn sàng tiếp ứng, nhờ vậy khi cạn bình, mọi người không phải đi vòng lại đằng sau nữa”.
Chứng kiến tinh thần, trách nhiệm làm việc của bộ đội, anh Nguyễn Thân Quốc Bảo, Phụ trách Cửa hàng xăng dầu số 8 (Công ty Xăng dầu Khu vực V, Petrolimex Đà Nẵng) tại địa chỉ 172 Quang Trung, cảm kích: “Kinh doanh buôn bán mặt hàng thiết yếu nên theo quy định, dù dịch bệnh chúng tôi vẫn phải mở cửa để phục vụ nhu cầu đi lại, sản xuất của người dân. Cây xăng nằm sát khu vực bị phong tỏa, chúng tôi cảm thấy khá lo lắng và căng thẳng bởi nguy cơ lây nhiễm luôn tiềm ẩn. Tuy nhiên, trực tiếp thấy các anh pha trộn dung dịch, phun khử khuẩn kỹ càng toàn bộ các trục đường trong khu vực này, bà con càng thêm vững dạ, yên tâm hơn. Cảm ơn các anh nhiều lắm. Chỉ có Bộ đội Cụ Hồ mới lo cho dân, thương dân như thế!”.
Trực tiếp chỉ huy các lực lượng tại hiện trường, Đại tá Đoàn Văn Tâm, Phó tham mưu trưởng Quân khu 5 cho biết: “Để tiêu độc, khử trùng khoảng 70.000m2 bề mặt lòng đường, vỉa hè và các con hẻm, chúng tôi đã pha chế, sử dụng gần 200kg Chloramin B. Qua kiểm tra, theo dõi, tôi đánh giá rất cao tinh thần, trách nhiệm và kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ, chiến sĩ trong buổi tối hôm nay. Bằng việc làm cụ thể của mình, các chiến sĩ đã góp phần tích cực trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự lây lan của dịch bệnh, giúp người dân sinh sống trong khu vực cảm thấy an tâm, tự tin hơn. Trên tuyến đầu chống dịch, bộ đội Quân khu 5 luôn là điểm tựa vững chắc của người dân!”.
PTC


Bịa đặt thông tin hòng làm méo mó các vụ án



Những ngày gần đây, trên internet xuất hiện khá nhiều trang báo mạng với đủ các thể loại (viết, hình, nói) đề cập đến một số vụ án hình sự vừa được các cấp tòa của Việt Nam xét xử. Chưa bàn đến tính chất, nội dung của các bản án, bởi để có được một bản án công minh, đúng người, đúng tội thì phải có một quá trình thực hiện tố tụng, xét xử chặt chẽ, khoa học, theo đúng luật định. Nhưng cái cách tiếp cận vụ án của một số trang mạng xã hội rõ ràng là “có vấn đề”, bởi dường như họ muốn dẫn dắt dư luận theo cách nghĩ của họ, khiến dư luận nhìn nhận các vụ án một cách méo mó, đầy nghi ngờ. Mục tiêu cuối cùng của nhiều trang mạng là hướng tới xuyên tạc, phủ nhận nền tư pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
Nền tư pháp của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (trước đây là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) hình thành sau khi nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại chính quyền, thiết lập một nhà nước Việt Nam tự do, độc lập. Năm 1946, thể theo nguyện vọng của toàn dân, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Đây là văn bản luật đầu tiên của nước Việt Nam mới, thể hiện đầy đủ quyền tự do, dân chủ mà người dân Việt Nam xứng đáng được hưởng và được Nhà nước bảo hộ. Cũng từ văn bản luật gốc này, từ thực tiễn cuộc sống, nhu cầu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội (CNXH), các văn bản luật khác dần được hình thành, ra đời.
Quá trình xây dựng các văn bản pháp luật (gọi chung là các luật) được tiến hành chặt chẽ, khoa học, được lấy ý kiến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân và được tiếp thu, chỉnh sửa một cách hợp lý theo nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trước khi trình Quốc hội thông qua. Điều đó thể hiện tính dân chủ rất cao trong quy trình xây dựng các luật. Trong số 230 bộ luật, luật đang có hiệu lực thi hành và sắp có hiệu lực thi hành thì có hai bộ luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc khởi tố, xét xử các vụ án hình sự đối với các cá nhân, tổ chức có vi phạm, đó là Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Các điều, khoản trong hai bộ luật nêu trên vừa khái quát đầy đủ các lĩnh vực, vừa cụ thể hóa rõ ràng các hành vi, dấu hiệu vi phạm hình sự của mọi cá nhân, tổ chức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc áp dụng các điều, khoản trong quá trình tố tụng và xét xử được các cơ quan tư pháp tiến hành độc lập, theo đúng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, do đó về mặt nguyên tắc là rất chặt chẽ, không có chuyện vi phạm dân chủ như một số trang mạng cố tình đoán mò rồi dẫn lái dư luận. Trong điều kiện hiện nay, với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ nên thông tin được truyền đi nhanh chóng và rộng rãi. Trong lĩnh vực điều tra, xét xử các vụ án cũng có quy trình rất minh bạch, công khai, thông tin đầy đủ, điều đó không cho phép các cá nhân tham gia vào quy trình xử lý các vụ án có thể cố tình làm sai lệch kết quả điều tra, xét xử.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, có những vụ án rất phức tạp, nhiều tình tiết, chứng cứ khó có thể làm rõ trong một thời hạn nhất định, chính vì thế mới xảy ra các lỗi trong quá trình điều tra, xét xử dẫn đến hiện tượng lọt người, sót tội ở một vài vụ án trong số hàng nghìn vụ án mà các cấp tòa phải xét xử hằng năm. Thế nên có thể khẳng định, việc sai sót trong điều tra các tình tiết cụ thể, có thể xảy ra, nhưng đó là do sai sót của từng khâu, thuộc về từng cá nhân tham gia vào quy trình điều tra, xét xử. Còn về mặt nguyên tắc tổng thể của quá trình điều tra, xét xử các vụ án hình sự là hoàn toàn chặt chẽ, minh bạch, thể hiện rõ sự nghiêm minh, ưu việt của pháp luật XHCN. Thế nên, không thể lấy một vài sai sót từ một số vụ án để quy chụp và xuyên tạc cả nền tư pháp của Việt Nam. Đó là tư duy và cách hiểu của những người cố tình phủ nhận sạch trơn hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhằm vào những mưu đồ và lợi ích cá nhân.
Sở dĩ thông tin bịa đặt, thông tin giả về các vụ án còn tồn tại trên không gian mạng và luôn phát triển với cấp số nhân là vì mấy vấn đề sau: Thứ nhất, còn nhiều người tin vào những sự “bịa như thật” trên mạng. Nói về vấn đề này, TS Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, từng nhận xét: Ở Việt Nam, tốc độ phát triển của internet khá nhanh và lượng người sử dụng rất cao (khoảng 64 triệu người), trong khi trình độ dân trí của một bộ phận người dân còn có những hạn chế nên khó phân biệt được tin thật với tin giả lan truyền trên mạng. Vì vậy, việc nâng cao dân trí thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục... là rất cần thiết, đây chính là cái gốc sâu xa nhằm giải quyết vấn đề dư luận sẽ đi theo chiều cạnh nào khi tiếp nhận biển cả thông tin mênh mông. Đối với các vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến dư luận, tâm lý xã hội, nhất là các vụ án trọng điểm thì càng cần được định hướng, tuyên truyền sâu rộng để đông đảo các tầng lớp nhân dân được biết, được hiểu, từ đó tự xây dựng nhận thức đúng đắn khi tiếp nhận các thông tin trái chiều. Một quy luật tất yếu là nếu lúa tốt thì cỏ dại khó mọc và ngược lại.
Nhiều nhà mạng thiếu trách nhiệm với những thông tin mà mình cung cấp, điều nguy hại hơn là họ còn trả tiền cho cả những thông tin giả, thông tin bịa đặt. Với vai trò là cung cấp nền tảng hơn là vai trò của nhà xuất bản, các nhà mạng lớn trên thế giới hiện nay có vẻ không quan tâm đến độ chính xác của các thông tin, vì thế các thông tin thất thiệt hầu như không bị can thiệp, mặc sức hoành hành trên mạng. Thực tế hiện nay, mạng xã hội không khác gì "chợ truyền thông", trong đó lẫn lộn cả thông tin tốt lẫn thông tin xấu độc. Có lẽ đã đến lúc cần phải nghiên cứu xây dựng các đạo luật, hoặc các công ước có tính quốc tế nhằm quản lý tình trạng trên, không thể để tình trạng vì tiêu chí tự do ngôn luận mà xâm hại các quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thậm chí là quyền lợi chính đáng của một quốc gia. Mục tiêu của các nhà mạng là kiếm tiền từ thông tin thì dứt khoát phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin mà mình đóng vai trò hỗ trợ cung cấp. Trong một cái chợ thì ban quản lý chợ cũng phải chịu trách nhiệm về tình trạng trộm cắp, bất lương của cái chợ đó.
Việc cung cấp thông tin chính thống có lúc chưa kịp thời, chưa đầy đủ. Về vấn đề này, có lần trao đổi với chúng tôi, nhà báo Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương cho rằng: Cơ chế thông tin của Nhà nước ta là dân chủ và minh bạch, tuy nhiên đối với từng cơ quan cụ thể, có lúc chưa làm tốt vấn đề này, chính vì vậy mới tạo ra kẽ hở để một số tổ chức, cá nhân có dã tâm lợi dụng, hòng trục lợi và mưu đồ chống phá. Do đó, việc thông tin những vấn đề quan trọng có liên quan tới quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa... của các tầng lớp nhân dân cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện và sâu kỹ. Khi có thông tin đích thực, chính thống, có nghĩa là dư luận đã được định hướng, không còn sự ngả nghiêng, nghi ngờ giữa cái thật và không thật. Báo chí chính thống, cách mạng phải giữ vững vai trò chủ đạo trong thông tin chân thực, tuyệt đối không để lợi ích cục bộ che lấp bản chất cách mạng của các nhà báo, cơ quan báo chí. Giải quyết được 3 vấn đề trên có nghĩa là chúng ta đã thực hiện được những yếu tố cơ bản, góp phần làm trong sạch môi trường truyền thông, tạo điều kiện tốt nhất để dư luận tiếp cận các thông tin đúng, chân thực, loại bỏ các thông tin xấu độc, giả mạo để người dân hiểu đúng bản chất sự việc, sự thật.
PTC


Không thể vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn



Lợi dụng việc một số cán bộ quân đội có sai phạm bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng ai cũng biết rằng, không thể đánh tráo giữa bản chất và hiện tượng, đừng thấy cây mà không thấy rừng. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và sự thật các vụ việc không cho phép chúng thực hiện được hành vi vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn đó…
Giữ nghiêm kỷ luật quân đội là bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh để quân đội ta luôn chiến thắng, trưởng thành và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng xác định: “Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua”. Người chỉ rõ: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm. Vì vậy kỷ luật phải nghiêm minh”. Thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh,  trong hơn 75 năm qua, cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân đã không ngừng rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, đồng thời giữ vững kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, được Đảng, Nhà nước và nhân dân trân trọng, tin tưởng. Trong xã hội đã từ lâu xuất hiện dư luận đánh giá: Môi trường quân đội rất mẫu mực, là nơi rèn luyện con người nghiêm túc nhất! Nhiều thanh niên, gia đình mong muốn bản thân và con em mình được vào quân đội để rèn luyện, thử thách, trưởng thành.
Trong hoạt động quân sự đầy gian nan, thử thách với biết bao khắc nghiệt đòi hỏi nhiều hy sinh, cống hiến, bên cạnh những chiến công, thành tích, ưu điểm của tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ, thì cũng có một số người mắc phải sai lầm, khuyết điểm, vi phạm kỷ luật quân đội, kỷ luật Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật Nhà nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trên con đường cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”. “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”. Thấm nhuần tinh thần ấy, quân đội luôn có quan điểm, thái độ đúng trong đánh giá, xử lý vấn đề này. Số ít cán bộ, chiến sĩ mắc sai phạm tuy chỉ là hiện tượng cá biệt, đơn lẻ, không làm phai nhạt, lu mờ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, không làm thay đổi bản chất tốt đẹp của quân đội. Phải hiểu rõ như vậy để chúng ta không chán nản, bi quan, hiểu sai về kỷ luật quân đội, mà cần lấy đó làm bài học kinh nghiệm răn dạy chính mình và đồng đội, không mắc vào những vi phạm tương tự. Thực tế đáng mừng là quân đội, từ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đến các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn nhất quán thống nhất kiên quyết đấu tranh, phê phán, xử lý nghiêm minh với những cá nhân, tập thể, sự việc sai phạm. Sai phạm đến mức phải xử lý là kiên quyết xử lý. Đã có một số cán bộ, chiến sĩ, kể cả cán bộ cao cấp trong quân đội bị khai trừ Đảng, tước quân tịch, lĩnh án tù, thậm chí trong kháng chiến chống Pháp từng có một cán bộ quân hàm đại tá bị tử hình vì vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước. Trong quá trình xem xét xử lý các sai phạm của một số cán bộ, chiến sĩ, quân đội cũng như  Đảng, Nhà nước, pháp luật cũng đã luôn chú ý xem xét đến những công lao, thành tích, bối cảnh, mức độ sai phạm  của người vi phạm, hài hòa giữa sự nghiêm minh và tính răn đe, giáo dục để xử lý thấu lý, đạt tình, vừa kiên quyết, vừa nhân văn. Việc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, lãnh đạo chỉ huy các cơ quan đơn vị trong toàn quân luôn có quan điểm đúng, sự nhìn nhận đánh giá khách quan, có biện pháp xem xét, xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng việc, đúng tội, công khai, minh bạch, không có vùng cấm, không bao che, giấu giếm… đã làm cho Đảng, Nhà nước, nhân dân hiểu hơn, đánh giá đúng hơn và thêm tin tưởng, yêu qúy, qua đó góp phần để quân đội thêm trưởng thành, vững mạnh.
Không để bị lợi dụng 
Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã lợi dụng sai phạm đơn lẻ, “con sâu làm rầu nồi canh” của một số cán bộ, chiến sĩ để cố tình tiến hành âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ, vu cáo nhằm hạ thấp uy tín quân đội. Họ thổi phồng các vi phạm, bóp méo sự việc, thậm chí là bịa đặt, vu cáo một cách vô căn cứ, theo kiểu võ đoán, áp đặt, vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn. Xin nêu một vài ví dụ: Trong việc phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua, quân đội đã tham gia rất tích cực, hiệu quả, được Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Biết bao người xúc động, cảm phục trước việc cán bộ, chiến sĩ quân đội vào rừng mắc võng ở, trải chiếu dưới đất nằm để nhường chỗ cho người dân cách ly có nơi ở tốt; rồi lo chu đáo cơm ngon, áo ấm, chăm sóc, cứu chữa, nghiên cứu khoa học tìm ra những thiết bị tiên tiến… để chữa bệnh cho nhân dân, ủng hộ các nước cùng bị dịch…
Ngày 28-3-2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó viết: “Là lực lượng nòng cốt, tuyến đầu, các đồng chí không quản ngại khó khăn, gian khổ, chấp nhận hy sinh, đối mặt với nguy cơ lây nhiễm để hoàn thành sứ mệnh cao cả, thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, và nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội với những đêm ngủ ngoài trời, những bữa cơm ăn vội trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 đã tô thắm truyền thống cao đẹp của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Những hành động và đóng góp nổi bật của toàn lực lượng Quân đội được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, xứng đáng là điểm tựa tinh thần của quần chúng nhân dân, là chỗ dựa vững chắc của đồng bào, đồng chí cả nước trong công cuộc phòng, chống và quyết tâm đẩy lùi, chiến thắng đại dịch Covid-19”. Thế mà các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã lợi dụng việc một vài cán bộ quân đội có sai sót trong quá trình tham gia phòng, chống dịch để vu cáo, bôi nhọ danh dự quân đội, phủ nhận sự đóng góp tích cực, hiệu quả của quân đội trong thực hiện nhiệm vụ đột xuất, quan trọng này. Trên thực tế quân đội cũng đã kịp thời có biện pháp xử lý kiên quyết, nghiêm minh với vi phạm của một vài cán bộ đó, được dư luận chung đánh giá cao, thêm tin tưởng, yêu quý  quân đội, đồng thời bày tỏ sự bất bình, phê phán thái độ, hành động cực đoan với dụng ý không tốt của những kẻ xấu. 
Đối với sai phạm của Đô đốc Nguyễn Văn Hiến và một số đồng phạm, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã thẳng thắn, nghiêm minh trong việc xem xét, xử lý vụ việc theo thẩm quyền của mình và quy định của pháp luật (theo kế hoạch, ngày 18-5-2020, Tòa án Quân sự Quân chủng Hải quân sẽ đưa vụ án ra xét xử ). Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã báo cáo với Trung ương để có hình thức xử lý nghiêm khắc về Đảng và chính quyền với Đô đốc Nguyễn Văn Hiến.
Nhưng các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị phớt lờ thực tế đó, cố tình xuyên tạc, vu cáo quân đội bao che, lấp liếm, đấu đá nội bộ. Đặc biệt nguy hiểm khi chúng áp đặt, xuyên tạc cho rằng các sai phạm xảy ra trong quân đội là từ bản chất, đặc điểm của quân đội, quân đội không thể sửa chữa sai phạm, không thể lấy lại được danh dự, uy tín… Phải thẳng thắn thừa nhận rằng sai phạm xảy ra là do chủ quan rèn luyện, phấn đấu chưa tốt của các cá nhân, tập thể vi phạm và có cả phần trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục, xử lý của lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan đơn vị trong quân đội. Từ đó quân đội đã luôn xử lý nghiêm minh, có biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời, nên có những hiệu quả thiết thực. Nhiều cá nhân, tập thể mắc sai phạm đã sửa chữa tiến bộ, các cơ quan, đơn vị nói riêng và toàn quân nói chung vẫn không ngừng giữ vững kỷ luật, kỷ cương và trưởng thành phát triển. Điều rất hạnh phúc của quân đội là dù trong quân đội vẫn còn một số sai phạm, dù các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị  thường xuyên dùng các âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tinh vi vu cáo, nói xấu…nhưng Đảng, Nhà nước và tuyệt đại bộ phận nhân dân vẫn dành cho quân đội sự tin tưởng, yêu thương. Đây là niềm tự hào, hạnh phúc, mà cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam cần trân trọng, trăn trở suy nghĩ để sống, làm việc tốt hơn, không phụ sự bao dung, tin yêu ấy.
Chúng ta cần bình tĩnh, tỉnh táo, tin tưởng vào sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội. Những hình thức kỷ luật cũng như các bản án nghiêm khắc, nhân văn không làm quân đội yếu đi, mà ngược lại sẽ giúp quân đội trưởng thành, phát triển hơn. Điều quan trọng là mỗi cán bộ, chiến sĩ, cơ quan, đơn vị trong quân đội phải luôn đoàn kết thống nhất, chủ động rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, trở thành tấm gương mẫu mực để cả cộng đồng tin tưởng, yêu thương và học tập, để ngăn chặn hiệu quả sự lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương phiên họp cuối năm 2017, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bí thư Quân ủy Trung ương, đã phát biểu: “Phải đặc biệt giữ gìn, phát huy hình ảnh, uy tín của quân đội, giữ vững niềm tin yêu của nhân dân đối với quân đội. Muốn vậy, kỷ luật, kỷ cương phải nghiêm, quân đội phải làm gương cho các nơi khác”. Các cơ quan, đơn vị cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nắm bắt tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ để tránh hiện tượng dao động, nghi ngờ, a dua, thiếu tin tưởng, mắc mưu kẻ xấu, ảnh hưởng đến tư tưởng, hành động của bộ đội. Cần thực hiện tốt những quy định về kỷ luật của quân đội, là kỷ luật tự giác, nghiêm minh; chú trọng mối quan hệ chặt chẽ giữa dân chủ và kỷ luật, cá nhân và tập thể, tự phê bình và phê bình; phát huy cao nhất tính nêu gương của đội ngũ cán bộ các cấp; kiên quyết không để xảy ra sai phạm, nếu có sai phạm thì phải kịp thời xử lý nghiêm minh, công khai, minh bạch.

PTC

Không thể xuyên tạc quy trình xây dựng pháp luật Việt Nam



Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XIV (bế mạc vào cuối tuần qua) đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Đây là một trong những thành công lớn của kỳ họp lần này, đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo cử tri. Thế nhưng một số ít người có thể vì không hiểu hoặc cố tình không hiểu đã xuyên tạc quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận…
 “Góp ý, phê bình về quy trình xây dựng luật” nhưng lại không hiểu luật
Ngày 18-6 vừa qua, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) với 92,96% đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành. Đây là một trong những dự án luật được đông đảo cử tri quan tâm. Dự án luật này cũng được một số đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta “soi xét” khá kỹ. Những người này từng có những bản “góp ý phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” đăng tải trên mạng xã hội và một số cơ quan báo chí nước ngoài, trong đó phê bình trực tiếp quy trình xây dựng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL.
Có lẽ họ không nhớ vào ngày 22-5-2020, Quốc hội đã thảo luận trực tuyến về dự án Luật BHVBQPPL. Tại cuộc họp này, về cơ bản, các vị ĐBQH đã tán thành với báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và nhiều nội dung của dự thảo luật; đồng thời đóng góp thêm ý kiến về một số điều, khoản cụ thể. Trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật. Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về thời gian cơ quan chủ trì soạn thảo gửi văn bản tới Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và phạm vi, chủ thể, thời hạn thực hiện phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam để bảo đảm tính khả thi. UBTVQH đã báo cáo: Việc phản biện xã hội đối với dự thảo Luật BHVBQPPL đang được thực hiện theo quy định của Luật MTTQ Việt Nam. Dự thảo luật đã tiếp thu, bổ sung quy định về hoạt động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 6. Các vấn đề về thời gian gửi văn bản, phạm vi, chủ thể, thời hạn phản biện xã hội thuộc trình tự, thủ tục thực hiện phản biện xã hội, hiện đang được quy định tại Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN. Do đó, UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của các ĐBQH để chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, quy định rõ trong Nghị quyết liên tịch số 403.
Cũng có ý kiến đề nghị Hội đồng Dân tộc (HDDT), các ủy ban của Quốc hội chỉ nên có ý kiến mà không nên quy định trách nhiệm thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và tham gia thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực phụ trách, UBTVQH cho rằng, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, HĐDT, ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật thuộc lĩnh vực phụ trách nhằm bảo đảm tất cả nội dung liên quan của dự án luật đều được xem xét để báo cáo Quốc hội, UBTVQH. Tương tự như vậy, trong việc thẩm tra đề nghị xây dựng luật, ngoài trách nhiệm chung của Ủy ban Pháp luật thì rất cần ý kiến thẩm tra chuyên môn sâu của HĐDT, các ủy ban khác của Quốc hội với vai trò là cơ quan phụ trách lĩnh vực. Đây cũng là sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong công tác lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật và đã đạt được những kết quả tích cực. Việc quy định như vậy cũng là nhằm đề cao, làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia trong quy trình xây dựng, ban hành luật như yêu cầu của Ban Bí thư tại Thông báo số 26-TB/TW ngày 19-4-2017. Như vậy UBTVQH đã tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các ĐBQH theo hướng mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và toàn dân trong xây dựng các dự án luật, điều này trái với ý kiến của một số người cho rằng Quốc hội áp đặt ý chí của một số ít người trong xây dựng luật. Điều đáng phê phán là có người “góp ý, phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” nhưng lại không hiểu quy trình xây dựng luật ở Việt Nam.
Thành quả xây dựng pháp luật ở Việt Nam là điều không thể phủ nhận
Lập hiến và lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng và đặc trưng nhất của Quốc hội Việt Nam. Chức năng này đã được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Ngoài Hiến pháp năm 1946 quy định nguyên tắc chung “Nghị viện nhân dân đặt ra các pháp luật”, thì cả 4 bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định Quốc hội là cơ quan lập hiến và lập pháp. Qua mỗi bản Hiến pháp, cơ chế thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội được kế thừa, phát triển và ngày càng được làm rõ hơn. Hiến pháp năm 2013 (hiện hành) đã khẳng định, Quốc hội là cơ quan làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật; thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Trên thực tế, quy định này của Hiến pháp được thực hiện khá chặt chẽ, cụ thể theo trình tự như sau: Hàng năm, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH lập và trình Quốc hội xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trên cơ sở đó, UBTVQH phân công, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện chương trình này. HĐDT, các ủy ban của Quốc hội, bên cạnh việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, còn dành nhiều thời gian, công sức cho việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, ý kiến của nhân dân, của các cơ quan, tổ chức hữu quan. Để phục vụ cho công tác này, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội đã tham gia ngay từ đầu vào quá trình xây dựng dự án luật. UBTVQH với tư cách là cơ quan chuẩn bị và chủ trì kỳ họp Quốc hội, thường xuyên cho ý kiến đối với các dự án luật, pháp lệnh. Giữa hai kỳ họp, các đoàn ĐBQH đã tổ chức các hội nghị để trao đổi, thảo luận và lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan. Ý kiến của ĐBQH là cơ sở quan trọng mang tính quyết định trong việc hoạch định chính sách, chỉnh lý và hoàn thiện từng nội dung của dự án luật. Theo trình tự này, Quốc hội đã nắm trọn quyền lập pháp, vì thế ý kiến một số người cho rằng Quốc hội chỉ là cơ quan thông qua luật là không có cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu so sánh giữa dự án luật trình Quốc hội với các dự án luật đã được các cơ quan của Quốc hội thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện và Quốc hội thông qua thì chất lượng được nâng cao đáng kể, phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là về các chính sách, cả về mặt nội dung cũng như hình thức văn bản. Quy trình xây dựng luật của Việt Nam cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo quy trình này, pháp luật đã ban hành giúp chúng ta đã thu được nhiều thành quả mà các thế lực thù địch dù có cố tình xuyên tạc nhưng cũng không thể phủ nhận.  
Tại Kỳ họp thứ chín mới đây, Quốc hội đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Các dự án luật, nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua và cho ý kiến tại Kỳ họp thứ chín đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; tổ chức bộ máy; quan hệ lao động; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường công tác nội luật hóa các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, tiến trình hội nhập quốc tế.   
Tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Có thể nói hệ thống pháp luật Việt Nam kể từ thời điểm đổi mới đất nước năm 1986 đến nay đã phát triển không ngừng và còn phải tiếp tục hoàn thiện. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL mà Quốc hội vừa thông qua sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Theo đó, cơ quan trình dự án luật được quyền bảo vệ quan điểm của mình trong toàn bộ quá trình soạn thảo và trình thông qua dự án luật. Còn cơ quan thẩm tra, dù đó là các ủy ban của Quốc hội hay UBTVQH thì phải làm đúng chức năng của cơ quan thẩm tra, giúp Quốc hội xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông qua một dự án luật là điều hoàn toàn có thể xảy ra nhưng không nên làm thay và tước đi quyền của cơ quan soạn thảo dự án luật.   
Luật BHVBQPPL năm 1996 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2002 đã quy định hồ sơ dự án luật trình Quốc hội phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết. Luật BHVBQPPL năm 2008 đã bỏ quy định này. Tuy nhiên, năm 2013, qua giám sát tối cao việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, Quốc hội thấy rằng tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết có xu hướng gia tăng, dẫn đến luật chậm được triển khai thực hiện. Do đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 yêu cầu trong hồ sơ dự án luật phải trình kèm theo dự thảo văn bản quy định chi tiết. Quy định này tiếp tục được thể hiện trong Luật BHVBQPPL sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, UBTVQH đã đề nghị cơ quan trình, cơ quan soạn thảo thời gian tới cần quan tâm hơn nữa việc chuẩn bị dự thảo văn bản quy định chi tiết nhằm bảo đảm chất lượng văn bản, tránh hình thức, lãng phí.
Để xử lý tình trạng còn xảy ra một số mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định giữa các luật do ngay từ giai đoạn tổng kết, đánh giá, xây dựng dự thảo văn bản mới, các cơ quan liên quan chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc rà soát, phát hiện và xử lý kịp thời các nội dung có quy định khác nhau trong các văn bản luật ban hành trước, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung vào Luật sửa đổi bổ sung Luật BHVBQPPL quy định hồ sơ dự án luật gửi thẩm định, thẩm tra, trình Quốc hội phải có báo cáo về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự án, dự thảo; đồng thời bổ sung vào Khoản 2, Điều 12 quy định “trường hợp văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Pháp luật của Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể bảo đảm cho mọi công dân được tiếp cận thông tin đa dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến của người dân công khai minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu. Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Không thể xuyên tạc thành quả và quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam.

PTC

Đập tan chiêu trò bịa đặt về nhân sự đại hội Đảng



Từ trước thềm Hội nghị Trung ương (HNTƯ) 12 (khóa XII), đến nay, trên các trang mạng nước ngoài và một số tài khoản blog, facebook cá nhân... đã chủ ý đăng tải nhiều thông tin xuyên tạc, thất thiệt và cố tình suy diễn về công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành (BCH) Trung ương nhiệm kỳ 2021-2026. Các luận điệu hồ đồ quy chụp rằng, công tác chuẩn bị nhân sự Trung ương bị chi phối quyết định bởi “nhóm lợi ích” từ một bộ phận quan chức Trung ương, ép buộc vận hành theo một kịch bản đã được lên sẵn.
Mặc dù Đại hội XIII của Đảng đến đầu năm 2021 mới diễn ra, vậy mà, không biết từ nguồn tin nào, bằng cách gì, những kẻ hiềm khích, giả danh yêu nước đã sớm tung tin về kết quả của đại hội như thể họ là người trong cuộc, được có mặt tại nghị trường ở thì tương lai?
Từ đầu tháng 5-2020, không khó để tiếp cận các bài viết trên mạng xã hội nước ngoài tung tin đồn, suy đoán về “nhân sự tứ trụ” sẽ được Đại hội XIII của Đảng tín nhiệm tiến cử, lựa chọn. Có nghĩa, nhân sự cho các chức danh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đã được định sẵn một cách thiếu dân chủ, khách quan, vì lợi ích nhóm trong CTCB. Tác giả của các bài viết nêu trên “lo rằng”, sự “quy hoạch mặc định” ấy sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhất là gây mất đoàn kết trong Đảng, do các phe cánh bày mưu tính kế, hạ bệ lẫn nhau... Cùng với đó, các bài viết còn chủ ý bôi nhọ danh dự, đời tư và hạ thấp công trạng, đóng góp của các đồng chí lãnh đạo đương chức của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp cách mạng; cố tình đưa ra các luận cứ cho thấy sự phân chia phe cánh, hình thành các đường dây đối lập trong nội bộ Đảng ở thời điểm trước và trong đại hội đảng.
Cần nhận diện đúng đắn rằng: Những thông tin nêu trên là hòng gây nhiễu loạn tình hình nhân sự trong Đảng, cố ý bôi nhọ tình cảm đồng chí, đồng đội trong tập thể lãnh đạo của Đảng; mưu đồ hạ thấp uy tín của cán bộ lãnh đạo đương chức, vừa gây nghi kỵ, mâu thuẫn nội bộ, dẫn đến thiếu thống nhất, đoàn kết. Đây thực chất là một thủ đoạn hết sức nham hiểm, thâm độc. Bởi chính sự đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội là sức mạnh nội sinh để toàn đảng, toàn dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; cũng là bức tường thành vững chắc đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Do vậy, không lấy gì làm khó hiểu khi các thế lực thù địch luôn lăm le chống phá cho kỳ được thành trì đoàn kết của Đảng ta!
Và sự bịa đặt trắng trợn ấy, ngay lập tức bị bóc mẽ, nhận diện, khi mà HNTƯ 12, khóa XII diễn ra thành công tốt đẹp, một lần nữa công khai rộng rãi chủ trương về công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, việc giới thiệu quy hoạch cán bộ (QHCB) chiến lược được Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa XII nhất quán xuyên suốt phương châm "làm từng bước, làm đến đâu chắc đến đó" với lộ trình cụ thể: Quy hoạch BCH Trung ương trước; sau đó làm quy hoạch tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cuối cùng là quy hoạch các chức danh chủ chốt: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, chứ không tiến hành cùng lúc như những nhiệm kỳ trước đây.
Như vậy, xét theo tiến trình, đến HNTƯ 12, khóa XII, Trung ương chỉ mới xem xét, quyết nghị những vấn đề có tính định hướng lớn trong công tác nhân sự BCH Trung ương; thậm chí chưa bàn, quyết nghị đến nhân sự cụ thể giới thiệu dự bầu BCH Trung ương khóa mới, nên chưa thể đưa ra phương án nhân sự cụ thể cho các chức danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước như những kẻ hiềm khích đã và đang lớn tiếng rêu rao, suy diễn, bịa đặt.
Xin nhắc lại một cách làm mới mẻ và khoa học như vậy của BCH Trung ương khóa XII để nhận diện rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của những kẻ hiểm ác; nhận biết quy luật hoạt động chống phá có tính chất chu kỳ của các thế lực thù địch với những chiêu trò đổi trắng, thay đen, không từ bất kể thủ đoạn nào. Và tất nhiên, dã tâm của những kẻ thiếu kiến thức, sự hiểu biết thực tiễn sẽ khiến những luận điệu mà chúng phơi ra dư luận trở thành những chiếc gậy tự đập vào lưng chính mình, đúng như bài học “gậy ông đập lưng ông” mà người xưa đã chỉ dạy, cảnh báo cho những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lý, quy luật hiển nhiên.
Ngoài trò hề quen thuộc nêu trên, trước HNTƯ 12, khóa XII, những kẻ hiềm khích còn suy diễn, cho rằng: Công tác quy hoạch và lựa chọn, giới thiệu cán bộ Trung ương khóa XIII lần này là do Trung ương lên sẵn kịch bản theo lối “chỉ mặt, điểm tên”, bắt buộc các cấp thực thi bằng các giải pháp dân chủ hình thức để “mị dân” và chỉ nhằm phục vụ lợi ích nhóm của một bộ phận quan chức cầm quyền. Thực tế CTCB trong Đảng nói chung, công tác giới thiệu, lựa chọn QHCB chiến lược nhiệm kỳ Đại hội XIII nói riêng lại hiện hữu một bức tranh khác biệt và đối lập. Tất nhiên, những chủ trương lớn về CTCB do Trung ương ban hành, hoạch định và trực tiếp lãnh đạo, nhưng việc lựa chọn “hiền tài” được vận hành đồng bộ ở mọi cấp trên cơ sở phát hiện, giới thiệu của cấp ủy, tổ chức đảng từ cấp nhỏ nhất đến cấp đảng bộ trực thuộc Trung ương. Mới đây nhất, trong bài viết định hướng công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp và phát biểu khai mạc, bế mạc HNTƯ 12, khóa XII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng đều thẳng thắn chỉ rõ yêu cầu phải lựa chọn bằng được cán bộ đủ tiêu chuẩn cho Trung ương và phần việc đó thuộc trách nhiệm của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đặc biệt, với tinh thần làm việc nghiêm túc, HNTƯ 12, khóa XII vừa qua tiếp tục khẳng định tinh thần xuyên suốt của cả nhiệm kỳ Đại hội XII về hai nội dung, giải pháp hết sức quan trọng đối với công tác lựa chọn, phát hiện, giới thiệu nhân sự cho BCH Trung ương Đảng khóa XIII, đó là: Trao quyền lựa chọn, giới thiệu nhân sự Trung ương cho cơ sở và đảng bộ trực thuộc; đồng thời đề cao trách nhiệm, quy trách nhiệm đối với người tiến cử, đề cử cán bộ quy hoạch chiến lược. Thực tiễn CTCB cũng minh chứng sống động cho tính đúng đắn của những giải pháp lớn ấy. Theo đó, dưới sự điều hành của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là Ban Chỉ đạo xây dựng QHCB cấp chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026, tập trung cao điểm vào tháng 11-2018, 100% đảng bộ các tỉnh, thành phố và cơ quan, đơn vị, địa phương trực thuộc Trung ương đã tổ chức tốt hội nghị cán bộ chủ chốt để phát hiện, giới thiệu nhân sự quy hoạch BCH Trung ương khóa XIII.
Với tinh thần ủy quyền và đặt niềm tin đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương của BCH Trung ương đã thật sự mở ra cơ chế và điều kiện thuận lợi nhất để tất cả cấp ủy, tổ chức đảng vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện nghiêm túc quy trình phát hiện, giới thiệu nhân sự quy hoạch ở địa phương, cơ quan, đơn vị theo 4 bước; quy trình rà soát, thẩm tra, phê duyệt quy hoạch ở Trung ương thực hiện theo 5 bước.
Cũng tại các cơ quan, đơn vị, địa phương, hội nghị ban thường vụ, hội nghị cán bộ chủ chốt tỉnh, thành phố đều tiến hành bỏ phiếu giới thiệu nhân sự tham gia Trung ương khóa XIII. Kết quả lấy phiếu được tiến hành đúng quy trình, bảo đảm nguyên tắc với quan điểm đặc biệt coi trọng tiêu chuẩn giới thiệu vào quy hoạch, coi trọng chất lượng, không vì cơ cấu, số lượng mà hạ thấp yêu cầu.
Đặc biệt, khi Trung ương trao quyền và gắn trách nhiệm đối với người tiến cử, đề cử giới thiệu cán bộ đã giúp đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nhiều cơ quan, đơn vị đề cao trách nhiệm, thực sự nêu gương, kiên quyết chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch; không để có sự can thiệp không đúng nguyên tắc, sai thẩm quyền, thiếu trách nhiệm, trái quy định vào CTCB, nhất là quy trình giới thiệu QHCB chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026. Với quy trình chặt chẽ, kết quả giới thiệu nhân sự BCH Trung ương Đảng khóa XIII đến nay đã đáp ứng yêu cầu và tiến độ đặt ra. Những cán bộ được cơ sở “chọn mặt, gửi vàng”, góp tên vào danh sách đề nghị quy hoạch gửi về Trung ương, trở thành căn cứ quan trọng để BCH Trung ương xem xét, quyết nghị tại những hội nghị tiếp theo của BCH Trung ương khóa XII.
Như vậy, cách làm nêu trên cho thấy: BCH Trung ương là cơ quan tối cao thẩm định, xem xét, quyết nghị cuối cùng về nhân sự Trung ương khóa mới trên cơ sở lựa chọn, giới thiệu nhân sự cụ thể ở từng đảng bộ trực thuộc Trung ương. Hơn thế, việc chiêu mộ hiền tài cho Đảng, Nhà nước được Trung ương kêu gọi, khuyến khích toàn đảng, toàn dân phát hiện, giới thiệu để kịp thời bổ sung và sàng lọc, chứ không cứng nhắc về phương án, áp đặt về số lượng, chất lượng hay rơi vào nạn cửa quyền, mệnh lệnh theo lối áp đặt. Điều đó càng khẳng định, những thông tin bịa đặt xoay quanh vấn đề nhân sự đại hội đảng thực chất là những thủ đoạn trá hình của các thế lực thù địch và đối tượng xấu sử dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, hòng chia rẽ nội bộ trong Đảng và chĩa mũi nhọn công kích vào sự kiện chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, chống phá quyết liệt đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Thế nhưng, tất cả những chiêu trò đó chỉ như chút bóng tối lập lờ, sẽ nhanh chóng bị ánh sáng sự thật đẩy lùi, xua tan!
PTC