Thứ Năm, 30 tháng 7, 2020

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên
 Hiện nay, có một số người băn khoăn về nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa thuộc về những thành phần nào, hay nói cách khác là nhiệm vụ đó thuộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.
Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".
Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

PTC

CHẲNG CÓ GÌ GỌI LÀ "TOANG" Ở ĐÂY CẢ!

Đà Nẵng không toang, Hà Nội không toang, TP.HCM cũng không toang! 

Đợt sóng covid thứ 2 đã quay lại, đó cũng là điều dễ hiểu, vì quanh ta các nước số lượng người nhiễm vẫn tăng hàng ngày, hàng giờ. Ngay từ khi phát hiện dịch tại Đà Nẵng, chính phủ đã chỉ đạo truy vết tiếp xúc, đi lại của các bệnh nhân để cách ly. Các địa phương khác cũng khoanh vùng du khách trở về từ Đà Nẵng. Việc của mọi người bây giờ là bình tĩnh, chỉ nên mua khẩu trang và đồ dùng vừa đủ, tin tưởng vào Chính Phủ và thực hiện tốt các khuyến cáo của Bộ Y Tế, trước mắt là vì bản thân, sau là vì người thân, và cuối cùng là vì xã hội.
Hải Đăng

MỘT ĐẤT NƯỚC KỲ LẠ!


 

Trong khi làn sóng Covid thứ hai quay lại Việt Nam, uy hiếp Đà Nẵng, Quảng Ngãi, thì VN trong hai ngày 26 và 27/7 vẫn bình tĩnh, tự tin cho máy bay bay thẳng vào tâm dịch San Francisco, Mỹ đón 280 công dân Việt về nước.

Và sáng nay (28/7), một chuyến bay đặc biệt nữa bay thẳng tới Guinea Xích Đạo để đón 219 công dân VN về, trong đó hơn 1 nửa là đã nhiễm Covid!

Có đất nước nào như đất nước này không?

Một đất nước duy nhất trên hành tinh có ngày Giỗ Tổ, cùng chung nguồn cội; chiến tranh không khuất phục, thiên tai không cúi đầu, khó khăn không chùn bước, dịch bệnh không run sợ!

Điều cốt lõi ở đây là gì, là tình người, là máu mủ đồng bào, là người dân đoàn kết, là một chính phủ cộng sản quyết không để một ai bị bỏ lại phía sau!

Chỉ có gắn bó với đất nước, máu thịt với đồng bào mình mới thấu hiểu được đạo lý một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ!

Tổ quốc tôi đẹp vô cùng, dù chưa giàu về vật chất nhưng riêng tình người, nghĩa đồng bào  thì đã hơn các cường quốc hàng đầu thế giới từ rất lâu rồi!

Mai Năm Mới (ST)

Một số giải pháp cơ bản không ngừng nâng cao chất lượng quan hệ dân tộc và tôn giáo trong thời gian tới




Một là, Nhận thức đúng đắn về vấn đề dân tộc, tôn giáo và giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo vì sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Thống nhất nhận thức, tư tưởng từ Trung ương đến cơ sở về tầm quan trọng chiến lược của vấn đề dân tộc, tôn giáo và giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo ở nước ta trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, nhất là vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong công tác dân tộc, tôn giáo.
Thống nhất nhận thức quan điểm của Đảng: Đồng bào các dân tộc là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam; tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Công tác dân tộc, tôn giáo và công tác vận động quần chúng, vì vậy cần có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến địa phương về công tác dân tộc và công tác tôn giáo.
Quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về dân tộc, tôn giáo, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo cho cán bộ đảng viên trong hệ thống chính trị, nhất là tại các vùng có đông đồng bào dân tộc, đồng bào theo tôn giáo.
Trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo, cần có thái độ đúng đắn và phương pháp phù hợp không được kỳ thị, thành kiến với tôn giáo và đồng bào các dân tộc thiểu số. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân các dân tộc trong khuôn khổ chính sách, pháp luật. Chủ động quan tâm giải quyết nhu cầu chính đáng, hợp pháp của đồng bào các dân tộc, đồng bào tôn giáo. Tích cực vận động đồng bào các dân tộc, tôn giáo đoàn kết, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước.
Cần đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản về chuyên môn nghiệp vụ; nâng cao trình độ lý luận chính trị và kiến thức về dân tộc, tôn giáo cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tập trung đồng bào tôn giáo. Đẩy mạnh và đa dạng hoá công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, thường xuyên cập nhật kiến thức về dân tộc, tôn giáo, về chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân tộc, tôn giáo thông qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn để đảm bảo có đủ bản lĩnh và kiến thức chuyên môn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo.
Coi trọng giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo và tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn dân trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh làm điểm tương đồng; khơi dậy ý thức tương trợ, ý thức đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo; tăng cường hợp tác, đối thoại giữa các dân tộc, các tôn giáo vì sự ổn định và phát triển của đất nước.
Thường xuyên quan tâm nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo và tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu chính đáng của đồng bào. Tập trung chỉ đạo, giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các vấn đề liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo như vấn đề đất đai, đất sản xuất… cho đồng bào các dân tộc, các tranh chấp, khiếu kiện có nguồn gốc tôn giáo.
Hai là, phát triển kinh tế, văn hoá xã hội nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào tôn giáo.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển toàn diện kinh tế- xã hội, nhất là vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo, giảm nghèo nhanh, bền vững, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, các vùng, bảo vệ môi trường. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo công ăn, việc làm, nâng cao thu nhập, làm dịch vụ cho hộ gia đình các dân tộc, tôn giáo nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với tập quán, trình độ phát triển của mỗi tộc người, tiềm năng lợi thế của từng địa phương và từng vùng.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thốmg kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, nhất là ở những nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc, tôn giáo, trong đó ưu tiên phát triển hệ thống chính sách hạ tầng cấp thôn/bản hoặc cum thôn/bản. Quy hoạch bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước tổ chức hợp lý cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, các bản, làng, nhất là các xã vùng biên giới tạo điều kiện để đồng bào nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống.
Giải quyết một cách căn bản tình trạng thiếu đất sản xuất trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây nam Bộ và tình trạng di dịch cư tự do ở miền núi phía Bắc. Tổ chức sắp xếp lại các nông, lâm trường quốc doanh theo hướng thu hút đồng bào dân tộc, tôn giáo tại chỗ tham gia, kiên quyết giải thể các nông, lâm trường làm ăn kém hiệu quả, giao đất, giao rừng cho đồng bào quản lý.
Kết hợp phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng an ninh vùng dân tộc, tôn giáo, xây dựng vùng kinh tế đường biên giới trên đất liền. Xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, tham gia vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên các địa bàn xung yếu, trọng điểm. Phát huy tiềm năng và nguồn lực trên các địa bàn chiến lược, đồng thời làm cơ sở chỉ đạo, quản lý việc xây dựng theo quy hoạch vùng.
Bảo tồn và phát huy, phát triển các giá trị văn hoá dân tộc, tôn giáo. Đầu tư các nguồn lực, nghiên cứu, sưu tầm, khôi phục lại bản sắc văn hoá truyền thống của các tộc người, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức, tích cực của tôn giáo trong phát triển bền vững trên cơ sở có sự tham gia, chọn lựa và quyết định từ phía cộng đồng các tộc người cũng như phù hợp trong đa dạng của văn hoá quốc gia. Tăng cường tổ chức giao lưu văn hoá các dân tộc và tôn vinh các giá trị văn hoá tộc người, tôn vinh các giá trị văn hoá tôn giáo để khơi dậy lòng tự hào về văn hoá của dân tộc, tôn giáo mình, đồng thời tôn trọng sự khác biệt văn hoá giữa các tộc người và giữa các cộng đồng khác đức tin tôn giáo.
Tăng cường đầu tư xây dựng và củng cố các thiết chế văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào tôn giáo. Chú trọng đầu tư xây dựng các chương trình nội dung, thong tin bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số và bằng nhiều hình thức đa dạng và phương pháp phù hợp với vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo tập trung.
Nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết, giải quyết tình trạng mũ chữ, tái mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào tôn giáo. Nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục, đào tạo,quan tâm xây dựng hệ thống trường lớp, đào tạo đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tăng cường đầu tư, cải thiện điều kiện dạy và học, thực hiện có hiệu quả chính sách đào tạo, dạy nghề trên cơ sở đổi mới nội dung, cơ chế quản lý và nội dung, phương thức đào tạo cho phù hợp với đặc thù vùng dân tộc thiểu số, và có đông đồng bào tôn giáo.
Cải thiện các điều kiện dịch vụ y tế nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc thiẻu số, đồng bào tôn giáo. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình cung cấp nước sạch và dịch vụ y tế nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng.
Ba là, nâng cao chất lượng hoạt động và vai trò của hệ thống chính trị trong giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo.
Các cấp uỷ Đảng từ trung ương đến cơ sở, nhất là cấp cơ sở vùng DTTS, vùng có đạo quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc, tôn giáo, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, quy chế công tác dân tộc, tôn giáo của địa phương. Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt các nội dung cốt lõi của công tác dân tộc, tôn giáo, giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc. Kiện toàn nâng cao chất lượng các tổ chức, cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo. Tăng cường lãnh đạo xây dựng cơ sở chính trị vùng tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số; chú trọng phát triển đảng viên trong cộng đồng tôn giáo và dân tộc thiểu số.
Kiện toàn nângcao chất lượng các tổ chức, đội ngũ cán bộ trong HTCT các cấp làm công tác dân tộc, tôn giáo. Cần đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao trình độ lý luận chính trị và kiến thức về dân tộc, tôn giáo cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, công tác tôn giáo, nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng tập trung đông đồng bào tôn giáo. Đẩy mạnh và đa dạng hoá công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương….thống qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ…
Lãnh đạo chính quyền làm tốt công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, trong phát triển y tế, giáo dục vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo. Nâng cao hiệu quả quản lý đối với tổ chức tôn giáo và hoạt động của các chức sắc tôn giáo; đối với vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự liên quan đến tôn giáo; đối với hoạt động xã hội hoá giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của các tôn giáo.
Đổi mới tổ chức và phát huy hiệu quả của Mặt trận tổ quốc các đoàn thể….tăng cường côngtác kiêmtra giám sát thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo. Tranh thủ người có uy tín…
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, chủ động và kiên quyết đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động lợi dụng quan hệ dân tộc và tôn giáo nhằm kích động quần chúng chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Vấn đề dân tộc và vấn đề tin ngưỡng tôn giáo luôn là vấn đề nhạy cảm và thường xuyên bị các thế lực thù địch lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chống phá cách mạng nước ta. Do vậy tăng cường củng cố an ninh quốc phòng là nhiệm vụ thường trực hết sức quan trọng không được phép lơ là. Chủ động ngăn ngữa bạo loạn chính trị do các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và nhân quyền. Muốn vậy phải làm tốt công tác quản lý địa bàn, xây dựng các phương án để chủ động phòng ngừa các hoạt động tôn giáo trái phép. Đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện các chương trình phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng công an, quân đội với các đoàn thể trong công tác dân tộc, tôn giáo để nắm chắc tình hình, quản lý chặt chẽ đối tượng, sẵn sàng các phương án chủ động đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Tranh thủ giáo sỹ, vận động giáo dân thực hiện xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”
Chủ động vạch trần những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo, hoặc kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo nhằm “tôn giáo hoá dân tộc” của chúng. Kiên quyết đấu tranh, xử lý các tổ chức, các đối tượng có các hoạt động vi phạm pháp luật truyền đạo trái phép, hoặc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền để kích động quần chúng, chia rẽ tình đoàn kết dân tộc.


Cần nhanh chóng hơn nữa trong chống dịch COVID-19



Mấy ngày vừa qua, khi có dịch xuất hiện tại Đã Nẵng, cả hệ thống chính trị đã nhanh chóng vào cuộc với các biện pháp kịp thời như thông tin, tuyên truyền, giáo dục; khai báo nắm nguồn dịch bệnh; khoanh vùng; cách ly v.v… Tuy nhiên để thực hiện đồng bộ các biện pháp này phải cần cả hệ thống chính trị nhanh chóng vào cuộc với cách làm khoa học và quyết liệt nhất. Tôi cho rằng, trong lúc này, trước hết, cần nhanh chóng nắm và khai báo rõ từng con người trong từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học, công xưởng v.v…, không được để xót người và khai báo không thành khẩn. Cần phải chú ý đến các đối tượng: Di dân bất hợp pháp; những người không nơi nương tựa; những người có hoàn cảnh, bởi những người này không có địa chỉ cụ thể, rất khó quản lý; nên rất dễ dẫn đến bỏ xót đối tượng. Thứ hai, chúng ta phải giả định và nhanh chóng xây dựng nhiều kịch bản để ứng phó. Tuy nhiên cho dù nhiều kịch bản ứng phó, nhưng nếu chúng ta không phát huy hết tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của người dân; tinh thần đoàn kết; nghị lực phi thường trong chống dịch của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức thì chúng ta sẽ không chiến thắng được dịch lần này.


Tiếp tục thực hiện tốt các quan điểm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo



Thời gian qua toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị đã thực hiện tốt mối quan hệ dân tộc và tôn giáo đã đạt được những thành tựu quan trọng. Để thực hiện tốt mối quan hệ dân tộc và tôn giáo, thời gian tới chúng ta tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm sau đây:
Một là, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt Nam.
Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối sử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết đồng bào các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào không theo tôn giáo và đồng bào theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc, đồng thời phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước. Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải luôn là môi trường, điều kiện thuận lợi nhất cho tất cả các dân tộc, các tôn giáo được tự do phát triển theo đúng quy định của pháp luật, phát huy mọi nguồn lực, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH.
Hai là, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo luôn phải đặt trong mối quan hệ với cộng đồng quốc gia- dân tộc thống nhất theo định hướng XHCN
Việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phải tuân thủ theo nguyên tắc: giải quyết vân đề tôn giáo trên cơ sở vấn đề dân tộc, tuyệt đối không được lợi dụng vấn đề tôn giáo đòi ly khai dân tộc, hay chia rẽ khối đoàn kết dân tộc làm tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, mà phải đảm bảo giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước “tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc”
Ba là, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo vào mục đích chính trị
 Quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân: Công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào; Người có tín ngưỡng tôn giáo và không có tín ngưỡng tôn giáo phải tôn trọng nhau; nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân bằng pháp luật
 Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Các dân tộc thiểu số có quyền tự quyết: phát huy dân chủ trên các mặt của đời sống xã hội. Kiến quyết đấu tranh với âm mọi mưu chia rẽ dân tộc, tình đoàn kết dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc.

Hãy tự tin trong chống dịch COVID-19



Mấy tháng vừa qua, chúng ta đã thực hiện tốt việc chống dịch COVID-19 đã được nhân dân tin tưởng, thế giới khen ngợi. Mấy ngày gần đây, dịch xuất hiện trở lại, nhưng chúng ta vẫn tin tưởng rằng, nếu chúng ta tự tin, chúng ta sẽ chiến thắng được dịch.
Tự tin là thể hiện một tính cách điềm tĩnh, chủ động khi xem xét, đánh giá, hoặc thực hiện một vấn đề gì đó với năng lực sẵn có cùng với kinh nghiệm đã được đúc kết, trải nghiệm. Nếu tự tin trong thực hiện bất cứ nhiệm vụ gì, chúng ta sẽ không bị rối, bị loạn khi có nhiều tình huống ập đến.
Trong chống dịch COVID-19 lần này, chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong phát hiện, khoanh vùng, dập dịch. Vì vậy, tôi cho rằng với kinh nghiệm chống dịch COVID-19 vừa qua, chúng ta hãy bình tĩnh, tự tin, bằng các biện pháp nhanh chóng, đồng bộ, kết hợp tinh thần quyết chí, quyết thắng của cả dân tộc, chắc chắn chúng ta sẽ chống dịch thành công.

Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và những diễn biến phức tạp trong quan hệ dân tộc, tôn giáo từ bên ngoài sẽ ảnh hưởng lớn đến quan hệ dân tộc và tôn giáo của Việt Nam.



Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Điều này một mặt giúp cho chúng ta có thể tiếp cận và tiếp thu những thành tựu từ các nước, vận dụng phù hợp và sáng tạo để phát triển nhanh, song mặt khác nó cũng đặt ra rất nhiều thách thức, nguy cơ mà Việt Nam phải tỉnh táo vượt qua, kể cả những tác động trong vấn đề dân tộc và tôn giáo đang diễn ra rất phức tạp ở nhiều nơi trên thế giới.
Những căng thẳng tôn giáo và sắc tộc sẽ trở nên trầm trọng hơn khi có sự can thiệp chính trị từ bên ngoài của đất nước. Ví dụ: Những xung đột sắc tộc, tôn giáo tại Li Ban từ những năm 1975, 1990 đã trở thành cuộc nội chiến kéo dài hơn hai thập kỷ; hay những xung đột sắc tộc, tôn giáo dai dẳng tại khu vực Trung Đông, với những can thiệp quân sự từ bên ngoài; hoặc xung đột sắc tộc, tôn giáo tại khu vực Tân Cương, Tây Tạng của Trung Quốc v.v… làm cho những khu vực này luôn trong tình trạng bất ổn.
Từ thực tế này cho thấy, coi trọng giải quyết mối quan hệ dân tộc, tôn giáo là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo như Việt Nam, bởi vì nó là vấn đề rất nhạy cảm và dễ bị lợi dụng, dễ tạo cớ cho các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia.
Bên cạnh đó, âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống phá cách mạng Việt Nam đang và sẽ diễn ra, tác động xấu đến mối quan hệ dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam, được biểu hiện trên những vấn đề sau:
Các thế lực thù địch thường xuyên, triệt để lợi dụng những điều kiện mới của thế giới, vấn đề dân tộc và các động thái tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta để liên kết các cộng đồng tôn giáo thành một lực lượng chính trị với âm mưu tạo ra những “điểm nóng” gây mất ổn định xã hội, kích động chủ nghĩa dân tộc, khơi dậy tư tưởng chia tách dân tộc, đòi tự trị, ly khai…Đây là một trong những vấn đề bức xúc, đang nổi lên ở một số địa bàn trọng yếu, nhạy cảm, có sự đa dạng về thành phần tộc người và tôn giáo ở nước ta, từ Miền Núi Phía Bắc, Miền Tây Thanh Hoá - Nghệ An, Tây Nguyên đến Tây Nam Bộ.
 Hiện nay tại một số địa bàn trọng yếu, nhạy cảm, khu vực biên giới nước ta, bằng nhiều phương thức và thủ đoạn khác nhau, núp dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền, quyền của người bản điạ”, các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, những hạn chế trong thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta để tập hợp lực lượng, tuyên truyền xuyên tạc, kích động tư tưởng tự trị, ly khai, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nhằm thực hiện ý đồ phá hoại tính cố kết nội bộ tộc người và khối đại đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta. Hoạt động tôn giáo ở một số khu vực vùng dân tộc thiểu số như Tây Bắc, Tây nguyên, Tây Nam bộ…đặc biệt ở các tuyến biên giới, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Cam Phu Chia còn có biểu hiện chưa tuân thủ pháp luật, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội và đi ngược lại với lợi ích quốc gia. Các hoạt động chống phá này thường được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: lợi dụng mê tín để mê hoặc quần chúng, lừa đảo, trục lợi, hành nghề trái phép gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân; làm mất ổn định về đời sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào. Đặc biệt, chúng sử dụng các phương tiện truyền thông để truyền đạo trái phép. Trong những năm gần đây các thế lực phản động tăng cường đổi mới thiết bị, cải tiến kỹ thuật, gia tăng thời lượng phát sóng bằng tiếng dân tộc, thông qua mạng Intenet, thông qua các cuộc hội thảo, các diễn đàn…để đẩy mạnh việc truyền đạo trái phép, tuyên truyền một số đạo lạ ở nhiều địa phương trong cả nước, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Qua đó chúng đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và tôn giáo; kích động quần chúng đòi tự do tôn giáo, đòi li khai dân tộc… gây mất trật tự an ninh ở khu vực cả nước. Chúng lợi dụng những sơ hở, sai sót trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của ta để can thiệp chính trị. Những năm qua nhiều địa phương thực hiện chủ trương thu hồi, đền bù đất, giải phóng mặt bằng để phục phụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là quá trình tất yếu phải thực hiện. Tuy nhiên những xai sót trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở không ít nơi làm cho nhu cầu sinh hoạt ở nhiều địa phương chưa được đáp ứng đầy đủ, đời sống vật chất của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có đông tín đồ. Những xai phạm này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, một mặt làm suy giảm niềm tin của dân đối với Đảng, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặt khác các thế lực xấu và thù địch đã lợi dụng triệt để vấn đề này để kích động quần chúng nổi dậy chống phá chính quyền.
Đồng thời chúng tăng cường tuyên truyền, tác động để thực hiện việc chuyển hoá chế độ chính trị ở nước ta; kích động tâm lý kỳ thị, hẹp hòi, cực đoan, chia rẽ dân tộc; hình thành các tổ chức phản động của người dân thiểu số ở nước ngoài để tác động vào trong nước; lợi dụng việc nghiên cứu văn hoá, du lịch, tăng cường thâm nhập vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; tuyên truyền và kích động tư tưởng ly khai, đòi thành lập các vùng dân tộc tự trị như “Vương quốc Mông tự trị”. “Nhà nước Đề Ga tự trị”, “Nhà nước Kherme Crôm”
Các thế lực thù dịch và chủ nghĩa đế quốc đã thông qua con đường du lịch, thăm thân, qua các hoạt động từ thiện…để thăm dò, khảo sát tình hình và phát tán các tài liệu, ấn phẩm có nội dung truyền đạo phản động vào các vùng dân tộc ở khu vực Miền Núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên. Tăng cường hoạt động xâm nhập vũ trang; xâm canh lấn chiếm; xuất nhập cảnh, khai thác vận chuyển khoáng sản, lâm sản trái phép, buôn bán trái phép; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng hạ tầng ở vùng biên giới, phát triển kinh tế mậu biên; đưa dân ra định cư ở các xóm giáp biên; duy trì hoạt động quân sự, tuần tra, kiểm soát biên giới…để tiếp tục “cường biên” . Thậm trí, chúng thông qua các cơ quan đại diện hợp pháp ở Việt Nam và qua các tổ chức tôn giáo để theo dõi tình hình tôn giáo ở nước ta, tìm ra những sai sót sơ hở của ta để can thiệp về chính trị, vu cáo ta “đàn áp tôn giáo”, “vi phạm nhân quyền”, từ đó chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, kích động quần chúng nổi dậy chống phá chính quyền, gây sức ép với cán bộ và gây áp lực buộc ta phải thừa nhận tư cách pháp nhân của một số tôn giáo mới.
 Trong thời gian tới, các thế lực thù địch sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo trong nuớc để phát triển đạo trong vùng dân tộc thiểu số, bao gồm cả các tà đạo và cả số lượng người theo đạo, biến các tổ chức và hoạt đọng tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam.


PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT TRONG CHỐNG DỊCH COVID – 19



Hiện nay dịch COVID- 19 đã xuất hiện lây nhiễm nhanh ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Hà Nội, chúng ta bằng trí tuệ, đoàn kết Việt Nam hãy cùng chung tay khoanh vùng, dập dịch chiến thắng dịch COVID- 19 một lần nữa.
Hiện nay mới chỉ có hơn chục ca, mức độ lây lan trong cộng đồng ít, nếu như chúng ta nhanh chóng khoanh vùng được nguồn dịch, thì chúng ta mới chiến thắng được dịch. Muốn vậy, chúng ta phải nhanh chóng phát huy tinh thần đoàn két trong khai báo. Khai báo phải nhanh, phải chính xác, không được sót đối trượng. Để thực hiện tốt việc khai báo, chúng ta phải phát huy tinh thần tự giác, sự thành khẩn của mỗi cá nhân trong khai báo. Bên cạnh phát huy tính tự giác trong khai báo của từng cá nhân, chúng ta phải tăng cường phát hiện và kiểm tra việc khai báo và phải có biện pháp cứng rắn đối với thành phần không khai báo không trung thực. Nếu làm tốt được vấn đề trên, chúng ta chắc chắn sẽ khoanh vùng được dịch COVID-19 lần này.

Đường hướng hành đạo và chủ trương phát triển nhanh tôn giáo trong vùng dân tộc thiểu số của các tổ chức tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến công tác dân tôc, tôn giáo ở Việt Nam



Thời gian qua các tôn giáo, luôn thể hiện đường hướng hành đạo tiến bộ. Phật giáo: Đạo pháp- dân tộc- chủ nghĩa xã hội; Công giáo: Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục phụ hạnh phúc của đồng bào; Tin lành: Phụng sự thiên chúa, phụng sự Tổ quốc; Cao đài: Nước vinh- đạo sáng; Hoà hảo: Vì đạo pháp, vì dân tộc. Với các  đường hướng hành đạo mới, đồng bào các tôn giáo trên phạm vi cả nước đã tự giác, tích cực hiện thực hoá đường hướng hành đạo của tôn giáo mình, đồng thời đã góp phần to lớn cùng dân tộc Việt Nam nói chung và các dân tộc nói riêng đã tạo nên nhiều thành công trong công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt theo xu hướng hiện nay, các tín đồ, chức sắc tôn giáo đã nhập thế tích cực, không bó hẹp đời sống đạo trong các cơ sở thờ tự mà dấn thân, nhập cuộc vào xã hội, nhất là vào các vùng dân tộc thiểu số cùng với Đảng, Nhà nước và với cộng đồng các dân tộc giải quyết các vấn nạn xã hội, thực hiện an sinh xã hội…
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc thay đổi đường hướng hành đạo và chủ trương phát triển nhanh tôn giáo trong vùng dân tộc thiểu số của các tổ chức tôn giáo cũng có nhiều tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng ở nước ta.
Những năm gần đây tôn giáo Việt Nam có điều kiện phát triển mạnh, gắn với sự đa dạng về hình thức (hiện nay có 16 tôn giáo, với 43 tổ chức giáo hội, ngoài ra còn nhiều tổ chức chưa được pháp luật công nhận những vẫn hoạt động). Trong tương lai con số này chắc chắn sẽ không dừng lại. Sự đa dạng còn được thể hiện trong sự phong phú của thành phần tín đồ tôn giáo gồm rất nhiều tầng lớp, thành phần xã hội, và thể hiện trong sinh hoạt tôn giáo nhộn nhịp ở hầu hết các tôn giáo.
Trong xu thế mở rộng giao lưu dân tộc, một số tôn giáo mới sẽ có điều kiện tiếp tục phát triển nhanh gây xáo trộn, phức tạp, nhất là trong vùng dân tộc thiểu số.
Đối với các tôn giáo đang hoạt động một cách hợp pháp cũng có các phương thức, cách thức, biện pháp nhằm không ngừng mở rộng phạm vi tác động, gia tăng ảnh hưởng và thực hiện thu hút, vận động lôi kéo, phát triển tín đồ
 Các tôn giáo mới (chưa được pháp luật công nhận), đặc biệt là sự tham gia của các tà đạo. Cùng với các tà đạo đã và đang nén nút hoạt động, sẽ có thể xuất hiện các tà đạo mới trong vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Không ít các tôn giáo đã và đang làm đảo lộn trật tự xã hội truyền thống, làm sói mòn và thương tổn nặng nề đối với nền văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số, ảnh hưởng, thậm trí làm biến đổi tư tưởng, tình cảm, tâm lý trong một bộ phận đồng bào theo đạo, tạo ra nhiều thách thức đối với quá trình giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dồng bào dân tộc.
Sự tồn tại và và phát triển của tôn giáo mới ở một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đã gây nên tình trạng chia rẽ dân tộc, gây mâu thuẫn giữa người theo đạo và người không theo đạo, mâu thuẫn giữa tín ngưỡng đa thần và tôn giáo độc thần, từ đó tạo cơ hội cho các thế lực xấu, các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng làm mất ổn định chính trị- xã hội, chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, đoàn kêt tôn giáo.
 Hoạt động in ấn, xuất bản, nhập các ấn phẩm, sách báo tài liệu…từ nước ngoài và lưu hành kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép; hiện tượng giảng đạo, truyền đạo trái phép; hiện tượng giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật tiếp tục diễn ra ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng biển giới.
 Mặt khác tình hình di cư, dịch cư tự do của đồng bào dân tộc thiểu số trong đó có cả lý do tôn giáo và diễn biến phức tạp khó kiểm soát, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi Tây Bắc và Tây Nguyên (ví dụ vấn đề Tin Lành Vàng Chứ xưng vua trong người Mông, Tin Lành Đề ga vùng Tây Nguyên)
 Các hoạt động tôn giáo phức tạp, vi pham pháp luật làm phương hại trực tiếp, có khi nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến đời sống của đồng bào tôn giáo.
Điển hình là các vụ khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo: xin đòi lại đất, cơ sở thờ tự có nguồn gốc tôn giáo đã giao cho nhà nước quản lý. Hiện tượng lấn chiếm hiến tặng, chuyển nhượng đất trái pháp luật của các nhân tín đồ tôn giáo cho các cơ sở tôn giáo diễn ra khá nhiều, có chiều hướng gia tăng. Một số việc làm mất an ninh trật tự trên địa bàn, ảnh hưởng xấu đến đoàn kết tôn giáo, dân tộc đã sảy ra thời gian qua, như vụ đòi đất ở 42 Nhà Chung, Quận Hoàn Kiếm và 178 Nguyễn Lương Bằng, Quận Đống Da Hà Nội; vụ Nhà thờ Công Giáo Tam Tòa, Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; vụ Cồn Dầu Thành phố Đà Nẵng; vụ việc liên quan đến dất dai Công Giáo ở Đan viện Thiên An, thừa Thiên Huế, vụ việc ở nhà thờ Tin Lành Phú Phong, tỉnh Bình Định v.v…
Sự mất đoàn kết nội bộ, hay xuất hiện tư tưởng ly khai trong một số tổ chức tôn giáo v.v…

Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước Việt Nam về dân tộc, tôn giáo



Việt nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Chính sách nhất quán của Đảng ta là: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ”; đồng thời “phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo. Chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong thời kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và tôn giáo có nhiều đổi mới được thể hiện qua các văn bản như: Nghị quyết 24- NQ/TW 16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị 37 CT/TW 2/7/98 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết 25- NQ/TW 12/3/2003 của BCHTWƯ về công tác tôn giáo; Nghị quyết 24- NQ/TW 12/3/2003 của BCHTWƯ về công tác dân tộc; Luật tín ngưỡng tôn giáo được Quốc hội thông qua năm 2016; Chỉ thị số 18- CT/TW 10/1/2018 của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết 25-NQ/TW 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Những chủ trương quan điểm mới của Đảng về vấn đề dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo hành lang pháp lý, tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, đồng thời là cơ sở và điều kiện để các tôn giáo, cả tôn giáo nội sinh và ngoại nhập đều có xu hướng hòa đồng, biến đổi, thích ứng, phù hợp với văn hóa, tâm thức dân tộc để tồn tại và phát triển.
Những chủ trương, chính sách pháp luật về vấn đề dân tộc, tôn giáo đồng thời là căn cứ pháp lý để giải quyết những mâu thuẫn giữa giáo luật với pháp luật của Nhà nước. Về cơ bản, các tôn giáo đều tự giác thực hiện trên cơ sở thượng tôn pháp luật, tôn trọng lợi ích chung của xã hội và cộng đồng dân tộc, trong đó có lợi ích của tôn giáo mình. Vì vậy tuy có nhiều dân tộc và tôn giáo tồn tại, nhưng không có xung đột, chiến tranh tôn giáo.


Việt Nam là quốc gia có an ninh, chính trị tốt



Với bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa: Chế độ không có áp bức, bất công; chế độ vì con người; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân lao động, ở Việt Nam thời gian vừa qua đã phát huy được chủ nghĩa yêu nước, tinh thần quật khởi của dân tộc.
Với bản chất chế độ như vậy, cho nên ở Việt Nam từ Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, mọi chủ trương, đường lối, chính sách đưa ra đều vì mục đích chung, đều vì hạnh phúc của nhân dân. Cho nên, mặc dù trong thời gian qua có những cán bộ, đảng viên tham ô, tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân, nhưng nhìn chung đấy chỉ là một số cá nhân, còn về cơ bản đội ngũ cán bộ, đảng viên đều trong sạch,  mẫn cán, vì tập thể, vì nhân dân, vì mục đích chung.


Điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của các tộc người và tín đồ tôn giáo ảnh hưởng lớn đến công tác dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.



Việt Nam là một quốc gia có thuận lợi về địa chính trị, kinh tế, văn hoá nên rất thuận lợi trong việc giao thương với các nước để phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá…Quốc gia của chúng ta, biên giới giáp Vịnh Thái Lan ở phía Nam, vịnh bắc bộ và biển đông ở phía Đông, Trung Quốc ở phía Bắc; Lào và Cămpuchia ở phía Tây, với đường bờ biển 3260 km (không kể các đảo), diện tích vùng biển thuộc chủ quyền khoảng 1 triệu km…Do vậy trong lịch sử phát triển, nền văn hoá dân tộc Việt Nam đã giao lưu, du nhập và tiếp biến nhiều nền văn hoá và tôn giáo của các nước trên thế giới. Các tôn giáo các nền văn hoá đã hoà đồng, khoan dung với hệ thống tín ngưỡng và văn hoá truyền thống, đóng vai trò quan trọng việc hình thành mối quan hệ dân tộc, tôn giáo chi phối sâu sắc đạo đức, lối sống của người Việt Nam, làm giàu và phong phú thêm các giá trị văn hoá truyền thống và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc. Tuy nhiên, nó cũng tác động khiến cho mối quan hệ dân tộc, tôn giáo thêm nhạy cảm, phức tạp và dễ bị lợi dụng để thực hiện những mục tiêu không trong sáng, không có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước, nhất là trước những xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc đang diễn ra rất phức tạp ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, các tôn giáo có điều kiện hội nhập vào Việt Nam, một mặt chúng ta hội nhập được những tinh hoa văn hóa thế giới, những nét đẹp của tôn giáo thế giới, nhưng mặt khác sẽ có nhiều vấn đề tôn giáo mới được du nhập vào Việt Nam, trong khi chúng ta có những khó khăn như sau:
 Nước ta có địa lý đa dạng, phức tạp
 Địa lý nước ta gồm các vùng đồng bằng, trung du, vùng rừng, núi cao và hải đảo; lại thêm đường biên giới kéo dài là chung đường biên giới với nhiều nước. Đại bộ phận đồng bào các dân tộc thiếu số nước ta sinh sống ở các vùng rừng núi cao , vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đây là những vùng có địa hình hiểm trở, giao thông khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, môi trường sống không thuận lợi cho phát triển, đây là mảnh đất màu mỡ để cho việc truyền đạo trái phép.
Trình độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội
Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số đến nay vẫn dứng trước những khó khăn của sự phát triển. Đó là tình trạng phát triển không đều giữa các dân tộc, điều kiện địa lý phức tạp, giao thông khó khăn, dân cư phân tán, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất thấp, nguồn nhân lực thiếu và yếu, sức hấp dẫn để thu hút đầu tư trong nước và quốc tế hạn chế…vì vậy đời sống của một bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc thiểu số, tín đồ tôn giáo còn gặp rất nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo, tái nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo còn cao; chênh lệch giàu nghèo, chênh lệch về trình độ phát triển văn hóa, xã hội… giữa miền núi và miền xuôi, giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số có xu hướng gia tăng; một số vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh.
Những yếu kém trong phát triển kinh tế tất yếu sẽ tác động dẫn tới hạn chế trong việc thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo…đây là nguyên nhân làm nảy sinh những bức xúc, mâu thuẫn trong quan hệ dân tộc, tôn giáo…đồng thời là cớ để địch chống phá.
 Các thiết chế xã hội còn đơn giản, lạc hậu
Ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, nhìn chung thiết chế xã hội còn đơn giản, mang tính tự quản là chính, nhiều nơi vẫn mang tính tự nhiên thuần phác. Đời sống tinh thần được gắn kết chặt chẽ bởi truyền thống văn hóa, các phong tục tập quán, luật tục…và bởi sợi dây tín ngưỡng tôn giáo tạo thành nền tảng vững chắc trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và tạo nên sự cố kết cộng đồng bền chặt, lâu dài trong lịch sử.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều nơi trình độ kinh tế kém phát triển, trình độ dân trí còn thấp và nhiều phong tục tập quán, luật tục…lạc hậu còn tồn tại. Đây chính là những điều kiện thuận lợi khiến cho một số tôn giáo thường lựa chọn các khu vực này để thực hiện truyền đạo (như truyền đạo tin lành ở khu vực Tây Nguyên; Tin lành Vàng Chứ ở khu vực Tây Bắc v.v…) điều này dễ làm nảy sinh những xung đột mâu thuẫn giữa tín ngưỡng tôn giáo đa thần của một số đồng bào dân tộc thiểu số với tôn giáo độc thần hoặc một số lợi dụng để truyền bá tà đạo mà bản chất là cuồng tín, cực đoan, phản động, đi ngược lại những chủ trương, chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Ví dụ như Hà Mòn (Tây nguyên), Pháp Luân công (Hà Nội, các tỉnh phiá Bắc), Đạo Chân không (khu vực miền Trung), Phủ tốc (Lai Châu, Điện Biên) v.v.. Đây là nguy cơ tiềm ẩn những mâu thuẫn trong quan hệ dân tộc, tôn giáo cần phải được nhận diện rõ.


Chống dịch COVID- 19 làm thế và lực của Việt Nam lên cao trên trường quốc tế



Quá trình dựng nước, giữ nước của cha ông ta đã là minh chứng hùng hồn để thế giới ngưỡng mộ trong chống thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Trong thời kỳ đổi mới lại một lần nữa, khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu đổ vỡ thì Việt Nam vẫn đứng vững với sự kiên trì xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa mà nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng là Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu, trong đó nổi bật là chế độ chúng ta đang xây dựng là chế độ dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân; mọi người dân công bằng, bình đẳng, không có sự bóc lột không phân biệt, không ai bị bỏ lại phía sau; một chế độ có nền kinh tế ổn định, phát triển; an ninh chính trị ổn định; đời sống xã hội ngày càng nâng cao.
Thêm một minh chứng rất rất rõ nữa là từ đầu năm 2020 đến nay, qua chống dịch COVID- 19, Việt Nam với lượng người mắc vì dịch rất ít và cho đến nay không có ai chết vì bệnh dịch này. Qua chống dịch COVID-19 chắc chắn thế và lực của Việt Nam sẽ nâng cao trên trường quốc tế.

Ảnh hưởng của tôn giáo đến những vấn đề ngoài tôn giáo trong các cộng đồng dân tộc/ tộc người ở Việt Nam có xu hướng gia tăng



          Các yếu tố ngoài tôn giáo luôn có sự tác động tích cực và tiêu cực đến mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, theo xu hướng hòa nhập quốc tế, thì vấn đề trên có ảnh hưởng rất lớn đến tôn giáo Việt Nam
Thứ nhất, tác động ngoài tôn giáo theo chiều hướng tích cực
 Các tôn giáo nói chung, tôn giáo ở Việt Nam nói riêng luôn mong ước một cuộc sống tốt đẹp: Phật giáo, Ki tô giáo, Hồi giáo… đều mong ước đến cõi niết bàn hoặc trên thiên đàng, muốn vậy phải tu luỵên, tu nhân, tích đức. Các tín đồ có nhiều hoạt động đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội như: Đào tạo học giả, sáng tạo nghệ thuật; dạy học, chữa bệnh, ủng hộ người nghèo
Thứ hai, tác động ngoài tôn giáo theo chiều hướng tiêu cực
Xu hướng thúc đẩy sự cố kết giữa vấn đề tôn giáo và vấn đề tộc người, dân tộc, hoặc gắn vấn đ tự do tôn giáo với vấn đề nhân quyền để thực hiện mục đích chính trị, gây ra những mâu thuẫn, chia rẽ, xung đột sắc tộc, dân tôc, tôn giáo, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Đặc biệt, hiện nay, sự phát triển nhanh đạo Tin Lành vào đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới gia tăng (Thành lập Nhà nước Đề ga, vương quốc Mông, nhằm tuyên truyền những nội dung phản văn hoá, truyền đạo trái phép, phát tán các tài liệu, chống phá cách mạng nước ta).
Những tác động trên ở mỗi thời kỳ cách mạng có biểu hiện đặc điểm, tính chất, nội dung khác nhau, cần phải nắm vững và có những chủ trương, chính sách hợp lý thì mới khăc phục được sự ảnh hưởng, tác động của nó đến mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở nước ta.

Phát huy trí tuệ, tinh thần yêu nước Việt Nam trước thềm Đại hội Đảng các cấp



Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng với sự tập trung trí tuệ, trách nhiệm rất cao của toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị để xây dựng chủ trương, đường lối đúng đắn của các tổ chức đảng trong cả một nhiệm kỳ cũng như một giai đoạn cách mạng; đồng thời lựa chon, tìm ra những đảng viên có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực vào cấp ủy khóa mới. Đây có thể nói là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, quan trọng ảnh hướng lớn đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tương lai. Thực tê cho thấy, ở từng giai đoạn lịch sử cách mạng đã kiểm chứng, ở đâu, khi nào mà ở tổ chức đảng thực hiện tốt đợt sinh hoạt chính trị này thì ở đó, giai đoạn đó, tổ chức đó sẽ có chủ trương, đường lối đúng đắn và có đội ngũ cấp ủy trong sạch, mẫn cán; ngược lại nếu đợt sinh hoạt chính trị qua loa, đại khái hình thức, không đạt chất lượng, thì ở đó, tổ chức  đó sẽ không có chủ trương đường lối đúng đắn, không có đội ngũ cấp ủy mẫn cán, và sẽ luôn không hoàn thành nhiệm vụ.
Như chúng ta đã thấy, cách mạng nước ta đang trên con đường thắng lợi toàn diện cả về phát triển kinh tế- xã hội, cả về thế, lực và uy tín quốc tế. Bản chất chế độ của chúng ta là chế độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, con người của chúng ta là con người thông minh, nghị lực phi thường, không chịu khuất phục trước khó khăn, gian khó. Chính vì vậy, chúng ta phải tích cực đổi mới, nhất là trong đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng này. Chúng ta phát huy cao độ trí tuệ, trách nhiệm trong dịp đại hội đảng các cấp lần này. Để đợt sinh hoạt chính trị đạt chất lượng, chúng ta mỗi con người Việt Nam hãy phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, trí tuệ con người Việt Nam để xây dựng chủ trương, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì đạt chất lượng. Có như vậy chúng ta mới giành được mọi thắng lợi trong giai đoạn cách mạng mới.

Các tôn giáo kể cả tôn giáo ngoại nhập đều biến đổi phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã hội, nhất là truyền thống của văn hoá dân tộc Việt Nam



Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Lịch sử trước đây cũng như hiện nay cho thấy, các tôn giáo khi vào Việt nam muốn trụ lại và phát triển đều phải biến đổi ít nhiều cho phù hợp với truyền thống dân tộc, với nền tảng văn hóa bản địa như phong tục, tập quán, tâm lý…của quốc gia – dân tộc nói chung, văn hóa các tộc người nói riêng. Ngoài ra trong quá trình hình thành và phát triển của mình, các tôn giáo lớn đều thích ứng với lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để tìm ra một tiếng nói chung, nhằm tôn vinh ý nghĩa “tốt đời, đẹp đạo”, điều đó được biểu hiện:
Dân tộc và tôn giáo gắn kết với nhau ở cộng đồng lãnh thổ
Ở Việt Nam khi mà phần lớn các tộc người và các tôn giáo đan xen, ít có tộc người nào, tôn giáo nào có lãnh thổ riêng biệt. Điều này là một trong những thuận lợi trong xây dựng, bảo vệ lãnh thổ cộng đồng lãnh thổ chung quốc gia cũng như xây dựng khối đoàn kết lương giáo, đoàn kêt toàn dân. Tuy nhiên đặc điểm này nếu không được sử lý tốt sẽ dẫn tới mất đoàn kết các tộc người theo tôn giáo khác nhau khi họ sống trên cùng một địa bàn.
 Dân tộc và tôn giáo gắn kết về cộng đồng ngôn ngữ
Phần lớn các tộc người ở Việt Nam theo các tôn giáo lớn (Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo…) đều lấy tiếng Việt là ngôn ngữ chính thống trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của mình. Chỉ có một số tộc người thiểu số có sử dụng ngôn ngữ của tộc người mình trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng.
Dân tộc và tôn giáo gắn kết với nhau về cộng đồng văn hóa
Các tôn giáo có giáo lý, cách tu tập khác nhau, nhưng luôn thấm đẫm bản sắc văn hóa của người Việt Nam trong ăn, ở, sinh hoạt, tập tục
Ở Việt Nam những người theo tôn giáo khác nhau có thể sống chung trong một làng, 1 dòng họ, thậm chí một gia đình (tiếng trống Đình làng, tiếng chuông nhà thờ hoà quyện với tiếng mõ chùa là nét đặc trưng của sự ôn hoà). Người Việt Nam dù theo tôn giáo nào cũng giữ được bản sắc dân tộc. Người Việt nam không xa cách đối tượng mình thờ phụng, vì họ tin là người giúp mình. Thần thánh của các tôn giáo, tổ tiên cùng huyết thống cũng chỉ là người dẫn đường, nêu gương cho bản thân noi theo để giữ đạo làm người. Với tầng lớp có quyền thế tôn giáo vào Việt Nam giúp họ củng cố vương quyền, suy tôn vua là con trời hành đạo, là cha mẹ dân. Với người dân, tôn giáo là phương thức giúp họ điều chỉnh hành vi “ăn, ở” sao cho phải đạo, hợp lẽ trời, thoả mãn nhu cầu trần tục và thế giới mai sau “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”
Ngày nay, các tôn giáo luôn có ý thức “cải tạo giáo hội” theo chiều hướng ngày càng đồng hành cùng dân tộc. Các tôn giáo có xu hướng nhập thế để phù hợp với hiện thực xã hội ngày nay (ít lễ lạy hơn; hướng vào lao động sản xuất…). Đúng như tinh thần của Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam đã nêu ra: Ý thức mình là con cháu Lạc Hồng để đều là chủ nhân của đất nước. Ai cũng muốn đất nước mình, Tổ quốc mình thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, hội nhập với thế giới với tấm căn cước sang giá”
Như vậy có thể khẳng định trong lịch sử cũng như hiện nay, ở Việt Nam các tôn giáo (dù nội sinh hay ngoại nhập) luôn tự phải biến đổi mình để thích nghi, tồn tại. Sự vận động biến đổi của mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo gắn chặt với sự vận động và biến đổi của tồn tại xã hội. Trong điều kiện hiện nay, do tác động của kinh tế thị trường, toàn cầu hoá, quan hệ dân tộc và tôn giáo có những điểm khác biệt so với trước. Chính sự khác biệt đó là cơ sở để chúng ta nghiên cứu nhằm bổ sung lý luận về tôn giáo và hoạch định chính sách về quản lý tôn giáo theo phương châm “tôn giáo đồng hành cùng dân tộc” phù hơp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của dân tộc.

HÃY BÌNH TĨNH, TỰ TIN ĐỂ CHỐNG DỊCH COVID-19



Những ngày này chúng ta đã có hơn trục ca dương tính với COVID-19 ở Đã Nẵng và Hà Nội và có nguy cơ lây nhiễm rất nhanh trong cộng đồng nếu nhu chúng ta không có biện pháp kịp thời. Hiện nay tôi cho rằng ngoài việc chúng ta thực hiện đồng bộ các biện pháp, thì biện pháp khẩn thiết nhất, đó là khai báo và cách ly các hoạt động không cần thiết ở những nơi có người nhiễm và nghi có người nhiễm thông qua khai báo. Tuy nhiên việc khai báo chúng ta phải triển khai rất nhanh trong ngày 29/7 và ngày 30/7, và tuyệt đối không được bỏ sót đối tượng. Việc khai báo phải thực hiện ở các cấp, các ngành, các lực lượng; tránh tình trạng khai báo chung chung. Nếu khai báo chung chung chúng ta sẽ bỏ sót đối tượng; khi bỏ sót đối tượng chỉ vài ngày sẽ lây lan rất nhanh trong cộng đồng. Chúng ta hãy bình tĩnh, tự tin, nhưng cũng phải rất nhanh chóng thì mới khoanh vùng được dịch bệnh.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thăng hoa trong chống dịch COVID- 19



Chống đại dịch COVID-19 là chống dịch cộng đồng, chống dịch tập thể, không phải trách nhiệm của riêng mỗi cá nhân. COVID-19 là bệnh dịch với sự lây lan rất nhanh, nếu như cả cộng đồng quyết tâm chống dịch nhưng chỉ một vài cá nhân lơ là, với trách nhiệm không cao thì sẽ không chống được dịch. Đây chính là thực tế hiện nay, một số nước trên thế giới đang vấp phải, bởi ý thức trách nhiệm của một số người dân không tốt, trong khi cả hệ thống với trách nhiệm, nghị lực rất cao cùng với nền y học hiện đại nhưng vẫn đang loay hoay trong chống dịch COVID-19.
Ở Việt Nam cùng với sự vào cuộc kịp thời của Đảng, Nhà nước, trong chống dịch COVID-19 vừa qua, ý thức trách nhiệm của người dân là yếu tố rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của đại dịch.
Ý thức trách nhiệm bao gồm ý thức tự giác và ý thức quyết tâm. Từ yếu tố tự giác, ý thức quyết tâm sẽ trở thành nghị lực phi thường của mỗi người. Khi có nghị lực phi thường chắc chắn sẽ vượt qua tất cả. Trong chống dịch COVID- 19 vừa qua, ở Việt Nam đã có nghị lực phi thường ấy. Nguồn gốc của nghị lực phi thường ấy do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất cơ bản đó là lòng yêu nước của con người Việt Nam. Lòng yêu nước của con người Việt Nam đã trở thành truyền thống, thành sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính lòng yêu nước ấy, trong chống dịch vừa qua, một mặt đã thể hiện rất rõ ở tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, tinh thần quyết tâm cao trong chống dịch, mặt khác là sự đồng lòng đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ lẫn nhau trong chống dịch. Vì vậy trong chống dịch ở Việt Nam không ai bị bỏ lại phía sau, tất cả đều được quan tâm, tạo điều kiện, do vậy không có hiện tượng trốn tránh, vô trách nhiệm trong chống dịch. Chính những vấn đề trên, khi có dịch, từng gia đình, từng tổ chức, từng cá nhân đều ra sức chống dịch, do vậy không có khoảng chống lây chéo trong cộng đồng.
Từ những vấn đề phân tích trên đây, có thể nói, trong chống dịch COVID- 19, chúng ta đã phát huy có hiệu quả chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Những thành tựu đạt được trong thực hiện quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam



Đảng ta luôn xác định: dân tộc, tôn giáo là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo, đó là:
Thứ nhất, các tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân với phương châm “tốt đời đẹp đạo”
Trong lịch sử cũng như hiện tại, nhìn chung, các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, gắn đạo với đời. Mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo đều đoàn kết góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sinh thời, khi đề cập về mối quan hệ hữu cơ giữa dân tộc và tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chỉ khi nào dân tộc được giải phóng, đất nước được độc lập thì tôn giáo mới được tự do, các giáo sỹ người Việt Nam mới thật sự được hưởng hạnh phúc, không bị phân biệt đối xử.
Tháng 1 năm 1946, khi nước ta đang đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược một lần nữa, Người nhấn mạnh: Nước có độc lập thì dân mới thực sự tự do tín ngưỡng. Nước không độc lập thì tôn giáo không được tự do nên chúng ta phải làm cho nước được độc lập đã. Và “Nước có độc lập, thì đạo phật mới dễ mở mang”1[1]
Tôn giáo tồn tại cùng dân tộc và còn tồn tại lâu dài. Tuy nhiên tôn giáo chỉ có thể phát huy những giá trị tốt đẹp của mình khi đồng hành cùng dân tộc, do đó trên con đường phát triển của dân tộc phải biết khai thác, chắt lọc những giá trị tích cực của tôn giáo. Phương châm “Kính chúa yêu nước” của Công giáo, “Nước vinh, đạo sáng” của đạo Tin Lành, hay “Đạo pháp dân tộc - chủ nghĩa xã hội” của Phật Giáo…đã được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần khi nói về mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo, đồng thời là nguyên tắc để Đảng và Nhà nước ta giải quyết hài hòa, biện chứng mối quan hệ dân tộc và tôn giáo trong các thời kỳ cách mạng của đất nước.
Tuy nhiên trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam không phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió”. Khi chủ nghĩa thực dân, đế quốc lợi dụng tôn giáo như một “phương tiện” để áp bức dân tộc Việt Nam, hay khi một số tín đồ, chức sắc tôn giáo không đồng hành cùng dân tộc, những xung đột mâu thuẫn giữa dân tộc và tôn giáo nảy sinh.
Mâu thuẫn này chỉ từng bước được giải quyết khi dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân tộc đã được thực hiện, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo được tôn trọng.
Đảng và Nhà nước nhất quán lấy nguyên tắc đoàn kết toàn dân tộc trong hoạch định, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Mọi chính sách pháp luật về tôn giáo phải quán triệt nguyên tắc đoàn kết và xuất phát từ lợi ích chung của cả dân tộc, trong đó lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích vật chất và tinh thần của toàn dân làm mẫu số chung.
Bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH và nhất là hơn 30 năm đổi mới, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở nước ta nhìn chung được phát triển theo chiều hướng tích cực và về cơ bản không dẫn đến “xung đột” như ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Trên cơ sở khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta chỉ rõ, đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào không theo tôn giáo và đồng bào theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên có nơi, có lúc, do nhận thức hoặc do thực hiện chưa đúng, các chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo nên vẫn còn những mâu thuẫn phát sinh. Các mâu thuẫn này cần được nhận diện để tiếp tục giải quyết nhằm: một mặt phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo; mặt khác giữ vững sự ổn định chính trị và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân để phát triển đất nước bền vững theo định hướng XHCN.


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, t5, tr 228