Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt trong việc xác định nguyên tắc
cũng như chính sách của Đảng ta về vấn đề dân tộc. Đại hội Đảng lần thứ IV xác
định: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có
tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các
văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định vị trí của vấn đề dân tộc trên
hành trình đổi mới của đất nước. Đó là vấn đề “có vị trí chiến lược lớn’’3,
“luôn luôn có vị trí chiến lược’’4, “có vị trí chiến lược lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng nước ta’’5.
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX đã ra nghị quyết chuyên đề
về công tác dân tộc. Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng ta về vấn đề
này trong kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết chỉ rõ: Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc,
với nội dung cơ bản là: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển’’.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác dân tộc đã đạt được những thành tựu to
lớn góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Trên cơ sở
đánh giá toàn diện vấn đề dân tộc và xuất phát từ yêu cầu của tình hình mới,
Nghị quyết khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ
bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên, vấn đề dân tộc
được xác định là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài có tính xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình phát triển của
cách mạng nước ta, đồng thời Đảng ta còn xác định đây là vấn đề
cấp bách. Đây là luận điểm rất quan trọng thể hiện tầm nhìn chiến lược và
tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi
mới.
Việc xác định vị trí của vấn đề dân tộc của Đảng trên chính là xuất
phát từ đặc điểm của cộng đồng quốc gia dân tộc ở nước ta và coi đó là bộ phận
hợp thành của chiến lược phát triển đất nước. Đây là cơ sở rất quan trọng để từ
đó định ra các nguyên tắc cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Lênin đã từng chỉ rõ:
“những sai biệt về mặt dân tộc và quốc gia giữa các dân tộc và các nước, những
sai biệt này sẽ còn tồn tại lâu dài ngay cả sau khi nền chuyên chính vô sản được
thiết lập trong phạm vi toàn thế giới’’6. Điều đó cho thấy chừng nào
còn có sự khác biệt về dân tộc thì dân tộc vẫn tồn tại và vẫn còn cơ sở xã hội
và thực tiễn cũng như nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn dân tộc và xung đột dân tộc, do
đó, vấn đề dân tộc vẫn tiếp tục đặt ra.
Đối với nước ta, vấn đề dân tộc thiểu số vừa là vấn đề giai cấp, vừa
là vấn đề miền núi, vừa là vấn đề biên cương, vấn đề an ninh quốc gia và chủ
quyền lãnh thổ, đồng thời đây cũng là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
mà Đảng ta đã đề ra. Bài học của nhiều quốc gia trên thế giới những năm cuối thế
kỷ XX cho thấy nếu coi nhẹ vấn đề dân tộc và không xác định đúng vị trí vấn đề
dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia thì tất yếu dẫn đến xung đột dân tộc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến sự tồn vong quốc
gia7.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét