Tôn giáo là những nội dung liên quan trực tiếp đến sự ổn định chính trị - xã hội của một đất nước, đến cuộc sống của nhân dân. Đặc biệt, hiện nay các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo đề chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội nơi có đồng bào các tôn giáo sinh sống, bên cạnh đó một số đối tượng lợi dụng tin ngưỡng, tôn giáo để trục lợi... Vì vậy, giải quyết vấn đề tôn giáo là một trong những nội dung cơ bản trong quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo,
trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc thực
hiện chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược đại đoàn kết dân tộc. Quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng, Nhà nước luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách
mạng. Nhận thức sâu sắc và nắm vững quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
sẽ giúp cho mỗi chúng ta có cơ sở khoa học và pháp lý đúng đắn, vững chắc để
giải quyết khi tham gia hoặc đóng quân ở vùng đồng bào tôn giáo, tuyên truyền
vận động nhân dân thực hiện đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước,
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân ngày càng
vững chắc, dấu tranh với những âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo gây mất ổn
định chính trị - xã hội, chống phá sự nghiệp cách mạng.
Việt
Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Nhân dân Việt Nam có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhân dân Việt Nam từ
ngàn xưa đến nay luôn coi trọng truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc, yêu
nước thương nòi, tuy có đức tin khác nhau, nhưng không vì thế mà sinh ra hằn
thù, chia rẽ. Tín đồ thuộc các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau luôn chung sống
hòa hợp, cùng toàn dân đoàn kết trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trong thời kỳ đất nước bị thực dân đế quốc đô hộ, các tôn
giáo bị phân biệt đối xử, một số tôn giáo bị đàn áp. Chúng ngăn cản, khủng bố
rất khốc liệt tinh thần yêu nước của đồng bào, nhiều vị chân tu bị bắt bớ, tù
đày, thậm chí bị thủ tiêu vì yêu nước. Cũng như toàn dân tộc, tín đồ các tôn
giáo sống trong cảnh lầm than, khổ nhục. Các tổ chức giáo hội bị đế quốc khống
chế và thao túng. Chúng chia rẽ nội bộ từng tôn giáo, kích động bộ phận này
chống bộ phận kia, tôn giáo này chống tôn giáo khác, người theo tôn giáo chống
người không theo tôn giáo. Ai theo chúng thì được ưu đãi, dung dưỡng, ai không
theo thì bị cấm đoán, thậm chí bị bức hại. Chúng lợi dụng tôn giáo để chia rẽ
dân tộc, biến mâu thuẫn của cả dân tộc Việt Nam với bọn xâm lược thành mâu
thuẫn giữa những người hữu thần với những người vô thần, giữa những người cộng
sản với các tôn giáo. Trong chế độ cai trị của đế quốc thực dân, nhân dân ta
không hề có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có chăng chỉ là “tự do” cho một
số ít người “ôm chân, nấp bóng” quân xâm lược.
Thực
tiễn giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo của các triều đại phong kiến Việt
Nam. Với tư duy mềm dẻo, lại luôn luôn phải lãnh đạo nhân dân chống các thế lực
xâm lược hùng mạnh, nên phần lớn các nhà nước phong kiến Việt Nam đều nhận thức
sâu sắc rằng, vấn đề bức xúc của dân tộc này, đất nước này không phải là vấn đề
tôn giáo, mà là vấn đề bảo vệ nền độc lập dân tộc; và tôn giáo không đơn thuần
là vấn đề tư tưởng, tâm linh của mỗi cá nhân, mà là vấn đề lực lượng, vấn đề
đoàn kết dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược. Vì thế, về cơ bản các nhà nước
phong kiến Việt Nam đều giải quyết đúng đắn vấn đề tôn giáo, góp phần quan
trọng giữ cho đất nước vững bền và phát triển.
Tuy
nhiên, lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận sai lầm của các triều đại nhà Nguyễn
trong nhận thức, giải quyết vấn đề tôn giáo nói chung và vấn đề Công giáo nói
riêng. Vì nhiều lý do, có thời điểm nhà Nguyễn đã đồng nhất giáo dân với kẻ thù
dân tộc. Chủ trương “giết dân theo đạo Thiên Chúa để trừ bè đảng của Pháp…”,
nhà Nguyễn không những không thể “dồn quân Pháp, buộc chúng về giữ tàu thuyền,
sau đó dùng hoả công để tiêu diệt ” , mà còn vô tình đẩy hàng triệu người dân
vô tội vào thế đối lập với triều đình, đẩy nhiều nhà tu hành, linh mục, tín đồ
tôn giáo tham gia các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình” , tạo thêm cả thế
và lực cho thực dân Pháp tăng cường chiến tranh xâm lược nước ta, đưa cả dân
tộc ta lâm vào cảnh nước mất, nhà tan, sống nô lệ lầm than.
Nhưng
ngay sau khi đất nước được độc lập, và trong suốt tiến trình lãnh đạo đất nước,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đời sống đồng bào tôn
giáo, đến việc bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 03 tháng 9 năm 1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, tôn trọng tự do tín ngưỡng là một trong vấn
đề quan trọng của Nhà nước mới thành lập. Người nói: “Thực dân phong kiến thi
hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo với đồng bào lương để thống trị. Tôi đề
nghị Chính phủ ta tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”[1]. Người
yêu cầu cán bộ phải quan tâm tới nguyện vọng của tín đồ, làm cho đồng bào tôn
giáo được “phần xác ấm no, phần hồn thong dong”. Người dặn dò các giáo sĩ cần
làm cho tổ chức tôn giáo thể hiện được vai trò tôn giáo của một nước độc lập,
tránh cho thiên hạ có cảm tưởng rằng đồng bào tôn giáo còn chịu ách nô lệ của
người nước ngoài trong lúc toàn dân ta đã thành công đòi lại được nền độc lập
cho dân tộc. Người chỉ ra những ưu điểm của các tôn giáo, coi đó là điểm tương
đồng với mục đích của toàn dân để động viên đồng bào các tôn giáo tham gia vào
sự nghiệp chung của đất nước. Trong Sắc lệnh số 234/SL ngày 14 tháng 6 năm 1955
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, đã xác định rõ tự do tín ngưỡng, tôn giáo
là một quyền lợi của nhân dân; khẳng định Chính phủ luôn luôn tôn trọng quyền lợi
ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện, không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo; giáo
dân và các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ
chức khác của nhân dân.
Ngay trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thực dân và phong
kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để dễ bề thống
trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO, Lương - Giáo đoàn
kết”[2]. Đại hội lần thứ III của Đảng
(1960) tiếp tục khẳng định: “Tôn trọng tự do tín ngưỡng, đoàn kết tất cả những
người yêu nước và tiến bộ trong các tôn giáo, đoàn kết đồng bào lương và đồng
bào các tôn giáo để cùng nhau phục vụ sự nghiệp giải phóng hoàn toàn đất nước”[3.].
Như vậy, quan điểm, chính sách tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng ta luôn được bổ sung, phát triển gắn với từng giai
đoạn cách mạng. Đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình thực tiễn Việt Nam; là kết quả nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Hệ thống quan điểm, chính
sách đó chính là cơ sở để xác định nguyên tắc, phương châm giải quyết các vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống hiện thực; ngăn chặn, đẩy lùi các hành
vi vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như việc lợi dụng vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo để thực hiện mục đích cá nhân hay phá hoại cách mạng.
Qua
các thời kỳ cách mạng, tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chủ trương nhất quán của Đảng, được Nhà
nước thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật. Nhà nước luôn tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo hộ các nơi thờ tự của các tín ngưỡng,
tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục, đào tạo, ấn loát kinh
sách, các văn hóa phẩm tôn giáo được nhập từ nước ngoài hoặc xuất bản trong
nước. Các tôn giáo được đi tham dự các hội nghị quốc tế của tôn giáo; được mời,
đón các đoàn tôn giáo nước ngoài vào thăm và làm việc; được khuyến khích tham
gia hoạt động từ thiện xã hội như cứu trợ thiên tai, chăm sóc người tàn tật,
người già cô đơn, người mắc các bệnh hiểm nghèo. Các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật; tín đồ, giáo dân và các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Nhà nước
luôn chủ trương đấu tranh và xử lý nghiêm mọi hành động vi phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích Tổ
quốc và nhân dân.
Hệ
thống chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo đã đi vào cuộc sống, được
các giáo hội, tu sĩ, chức sắc và tín đồ tôn giáo hoan nghênh. Hiện nay đã có
hàng ngàn nơi thờ tự của các tôn giáo có hệ thống tổ chức đang sinh hoạt thường
xuyên bình thường, nhiều nơi được sửa chữa hoặc xây mới. Nhiều ngôi chùa, nhà
thờ Thiên chúa giáo, thánh thất Cao đài, thánh đường Hồi giáo, v.v. cùng hàng
ngàn nơi thờ tự của các tín ngưỡng truyền thống trong nhân dân được tu bổ, tôn
tạo. Đó là những biểu hiện rõ ràng nhất về quyền tự do sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo ở nước ta; là thực tế không ai có thể phủ nhận được. Thực tiễn giải
quyết tốt vấn đề tôn giáo dưỡi sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều thành tựu: “Tình hình tôn giáo ổn
định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu
tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự
do tôn giáo”
Nhưng
gần đây, các thế lực thù địch Việt Nam và những kẻ phản bội lưu vong liên tục
tuyên truyền, vu khống, xuyên tạc tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Ở
trong nước, một số người bất đồng chính kiến, một số kẻ cơ hội chính trị cũng a
dua theo luận điệu của bọn phản động, đã tung tin, viết bài phản ánh sai sự
thật về tình hình đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Họ, tất cả cùng một
giuộc, đã cố tình phớt lờ những thực tế đời sống tín ngưỡng, tôn giáo đã đề cập
trên đây; rõ ràng dã tâm của họ không hề thay đổi, họ tìm mọi cớ, mọi cách để
chống phá công cuộc đổi mới của đất nước ta, nhân dân ta đến cùng.
Đối
chiếu những luận điệu “cáo buộc” của họ với sự thật lịch sử Việt Nam, chúng ta
dễ nhận thấy đó là những lời vu khống trắng trợn! Họ cố tình quên những tội ác
mà các thế lực ngoại bang đã gây ra cho dân tộc, cho đất nước, cho đồng bào các
tôn giáo ở Việt Nam. Rõ ràng, từ khi đất nước dược thống nhất, đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã có biết bao đổi thay, khởi sắc. Từ tình cảnh nội
bộ các tôn giáo chia năm xẻ bảy, đồng đạo ly tán, có khi hận thù xô xát, có lúc
khai trừ, ra vạ tuyệt thông với nhau, đến nay đa số các tôn giáo thống nhất và
đang có những bước phát triển mới, có nơi gọi là thời kỳ hoàng kim trong tôn
giáo của họ. Từ những nơi thờ tự đổ nát, hoặc bị cô lập trong vòng kẽm gai của
binh sĩ, cảnh sát Mỹ nguỵ trước đây, đến những chỗ sinh hoạt tôn giáo trang
nghiêm hiện nay; từ những đội ngũ chức sắc tôn giáo pha tạp lúc trước, có người
mặc áo lính, có địa phận còn bị cai quản bởi giáo sĩ người nước ngoài... đến
những đội ngũ chức sắc trong sáng, thuần khiết ngày càng nhiều,... Thử hỏi
rằng, thời gian qua, những tôn giáo ở Việt Nam được hay mất quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo?
Vậy ai là người đích thực vi phạm tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam?
Ai
đã biến nơi thờ tự thành đồn bốt, tháp canh, cưỡng ép giáo dân làm thành “hàng
rào thịt” bao quanh các căn cứ quân sự, đẩy thanh niên tôn giáo ra làm bia đỡ
đạn? Ai đã dội bom lên các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất... nhằm biến miền
Nam Việt Nam thành vùng oanh kích tự do và âm mưu đưa miền Bắc trở về thời kỳ
đồ đá. Trách nhiệm về hàng vạn nơi thờ tự bị hủy diệt trong các cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam thuộc về ai?
Ai
đã tác động tâm lý, tung tin thất thiệt, xô đẩy hàng chục vạn đồng bào công
giáo bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại ruộng vườn để theo “Chúa vào Nam”, gây ra cảnh
gia đình ly tán, đàn chiên không có chủ chăn, các nơi thờ tự hương lạnh khói
tàn? Ai đã khôi phục lại ruộng vườn, phục hồi sản xuất, cải thiện và nâng cao
đời sống nhân dân, sửa chữa các nơi thờ tự, đảm bảo kinh nguyện bình thường,
giúp cho nền đạo lành ngày càng phát triển?
Ai
đã lên tiếng khi máu đổ sân chùa và các nơi thờ tự khác bị làm ô uế ở miền Nam
trước đây, khi hàng loạt chức sắc, tín đồ các tôn giáo bị chế độ cũ bắt bớ giam
cầm vì họ là người yêu nước? Khi hàng loạt các nhà sư, linh mục bị bắt đày ra
Côn Đảo sao không thấy các tổ chức nhân quyền, các nhà nhân quyền nào lên tiếng
phản đối? Rồi cho đến nay, vẫn xuất phát từ dã tâm xấu xa, một số thế lực thù
địch Việt Nam, đã dung dưỡng, kích động cho những kẻ quá khích đem vũ khí, chất
nổ, đô-la, tiền bạc, tài liệu kích động quần chúng hoạt động bất hợp pháp và
đem sách báo xuyên tạc chế độ mới, kể cả máy in tiền giả vào những chốn trang
nghiêm, tạo điều kiện cho số người xấu nấp sau nơi thờ phụng để phá hoại trật
tự an ninh và ổn định xã hội,… Thử hỏi, đó là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hay sao?
Bất
cứ nhà nước nào cũng có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ sự ổn
định và trật tự an toàn xã hội. Bất cứ sinh hoạt chính trị, xã hội nào trong
một xã hội tự do và dân chủ cũng cần diễn ra trong khuôn khổ luật pháp. Theo
đó, việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi công dân không được
làm ảnh hưởng đến các tín ngưỡng, tôn giáo khác; không ảnh hưởng đến quyền tự
do, dân chủ của công dân khác và không được ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.
Nước ta cũng như bất cứ quốc gia nào khác, có kỷ cương pháp luật, mọi công dân
phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, mọi hành động vi phạm luật
pháp đều bị xét xử, nghiêm trị.
Trong các nơi lưu giữ phạm nhân hiện nay, có người là dân
thường và cũng có người nguyên là cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước. Họ bị
kết án không phải vì họ là dân thường, là cán bộ, đảng viên hay công chức nhà
nước, mà vì họ đã vi phạm pháp luật. Thời gian qua, có người nguyên là tu sĩ,
cũng có người vốn không phải là tu sĩ hay tín đồ một tôn giáo nào, đã có những
hành vi xâm phạm trật tự an ninh xã hội, tán phát các tài liệu xuyên tạc để
chống chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, có trường hợp gây rối
chống người thi hành công vụ. Họ bị xử lý theo luật pháp vì họ có hành vi phạm
pháp, chứ không phải vì họ không tín ngưỡng, tôn giáo, lại càng không phải vì
họ theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào.
Những thế lực thù địch ở nước ngoài luôn tìm cách kích
động số ít người xấu trong các tôn giáo để gây rối, gây mất trật tự trị an,
nhằm phá hoại sự ổn định xã hội, nhưng khi pháp luật trừng trị thì chúng mượn
cớ kêu la hò hét, vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền và tự
do tín ngưỡng. Đó là sự xuyên tạc thô bạo nhằm đổi trắng thay đen, che giấu âm
mưu phản động mà sự thật đó là những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam. Cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước những âm mưu,
thủ đoạn đó để cùng chung tay bảo vệ đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ổn định,
tiến bộ của đất nước ta hiện nay.
Sau khi đất nước thống nhất (4/1975),
Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo công tác tín ngưỡng,
tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ
Chính trị khóa VI là mốc thể hiện bước phát triển mới của Đảng về vấn đề tôn
giáo, trong đó khẳng định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”[5].
Ngày 12 tháng 3 năm 2003, Ban Chấp hành
Trung ương 7 khóa IX ra nghị quyết chuyên đề về công tác tín ngưỡng, tôn giáo.
Đây là sự phát triển mới cả về nhận thức, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX khẳng định: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[6]. Đồng
thời, nhấn mạnh mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh là điểm tương đồng đoàn kết, gắn bó đồng bào các tôn giáo và đồng bào
theo, không theo tôn giáo. Nghị quyết còn phân biệt rõ tín ngưỡng với tôn giáo,
chỉ rõ nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và
xác định công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Đặc biệt vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), XI (2011), XII (2016) và
Văn kiện ĐHXIII (2021) của Đảng, đươc khẳng định cụ thể là: Một
là, tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng bào các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ba là, nội dung cốt lõi của công tác TG
là công tác vận động quần chúng. Bốn là,
công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Năm là, mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Trong Báo cáo
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII
của Đảng, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực
hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải
quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo,
đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”[7]. Đồng
thời, Đảng khẳng định: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhub cầu
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng; đồng thời chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng , tôn
giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước về công tác tôn giáo” [8].
Với
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, nắm chắc quan điểm, chính sách tôn
giáo là một góp phần quyết định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và
quản lý cán bộ, chiến sĩ khi tham gia giải quyết những điểm nóng về an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi đóng quân...
Do đó, cần tích cực tuyên truyền, vận động đồng bào nắm và thực hiện
tốt chủ chương, chính sách của Đảng; xây dựng khối đại đoàn kết, động viên đồng
bào thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; đổi mới nội
dung, hình thức công tác dân vận cho phù hợp với đặc điểm của từng địa phương,
vùng, miền và đặc thù của mỗi tôn giáo; đẩy mạnh công tác vận động quần chúng
tham gia xây dựng cơ sở địa phương xã, thôn, bản vững mạnh; góp phần củng cố và
nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức
chính trị-xã hội ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo;
phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực hiện quan điểm chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước về tôn giáo./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét