Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Tình hình lây nhiễm COVID-19 trong cộng đồng người Việt tại Nhật Bản

Theo Tổng Lãnh sự quán (TLSQ) Việt Nam tại Fukuoka (Nhật Bản), trong số khoảng 40.000 người Việt Nam đang sinh sống tại 8 tỉnh phía Tây Nam Nhật Bản, có một gia đình 5 người dương tính với virus SARS-Cov-2. Đây là những trường hợp nhiễm bệnh đầu tiên tại khu vực do TLSQ Việt Nam tại Fukuoka quản lý.

Những thách thức của kinh tế Việt Nam sau đại dịch

Ngày 28/4, tờ Nikkei Asia Review của Nhật Bản đăng bài phân tích tình hình Việt Nam trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ XIII, trong đó nhấn mạnh những thách thức về khía cạnh kinh tế.

Tác động của dịch COVID-19 đối với ngành dệt may Việt Nam

Trang mạng texnet.com.cn của Trung Quốc ngày 27/4 đưa tin nếu dịch COVID-19 vẫn tiếp diễn, nhiều công ty dệt may Việt Nam sẽ gặp khó khăn và điều này không chỉ đe dọa nền kinh tế trong nước, mà còn ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng hàng may mặc toàn cầu, bao gồm cả những thương hiệu tham gia sâu vào chuỗi cung ứng Việt Nam, như Zara và H&M.

Vị thế Việt Nam được khẳng định trong ASEAN nhờ thành công chống COVID-19

Trang tin Yahoo Japan ngày 27/4 phân tích nguyên nhân Việt Nam có thành tích ấn tượng trong công tác phòng chống dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19, và cho rằng cũng nhờ thành tích này, Việt Nam đã tạo dựng được uy tín trên cương vị Chủ tịch ASEAN.

Việt Nam đã ngăn chặn dịch COVID-19 như thế nào

Ngày 28/4, trang mạng Times of India đăng bài viết “Ý chí sắt đá: Việt Nam đã ngăn chặn virút SARS-CoV-2 như thế nào” của nhà báo Rudroneel Ghosh, nội dung như sau:
Một quốc gia châu Á đã đạt được thành công đáng tin cậy trong việc ngăn chặn dịch COVID-19, đó là Việt Nam.

Khi nào Việt Nam hết dịch COVID-19?

(Theo báo Sputnik) Việt Nam đã qua “đỉnh dịch” COVID-19 hay chưa? Khi nào Việt Nam có thể công bố hết dịch? PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng của Bộ Y tế, cố vấn cấp cao Trung tâm đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam, cho rằng Việt Nam khó có làn sóng thứ hai bùng phát dịch COVID-19, nhưng nếu chủ quan thì có nguy cơ vỡ trận, dịch bệnh sẽ lại bùng phát.

Việt Nam làm gì để ngăn COVID-19 bùng phát trở lại?

Tờ Wall Street Journal của Mỹ ngày 27/4 chú ý đến những động thái của Việt Nam trong cuộc chiến chống COVID-19 sau khi lệnh giãn cách xã hội được nới lỏng.

Yếu tố chính trị trong cuộc chiến chống đại dịch ở Việt Nam

Theo trang tin thediplomat.com (Rome) vừa đăng bài viết có tiêu đề “Chính trị nội bộ trong cuộc chiến chống dịch ở Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Việt Phương, nhà nghiên cứu về các vấn đề an ninh, phi hạt nhân hóa tại Hà Nội, từng là nghiên cứu viên Trung tâm Belfer, trường Kennedy thuộc Đại học Harvard (Mỹ),

Việt Nam là quốc gia chống COVID-19 hiệu quả nhất

Theo báo The Nation, tạp chí hàng đầu của Mỹ, vừa đăng bài cho rằng Việt Nam có lẽ là quốc gia ứng phó với đại dịch COVID-19 hiệu quả nhất. Thành tích này có được nhờ khả năng huy động trên quy mô lớn hệ thống y tế, công chức cũng như các lực lượng an ninh, kết hợp với chiến dịch tuyên truyền giáo dục người dân hiệu quả và sáng tạo.

Chiến lược 12 điểm giúp Việt Nam chiến thắng đại dịch COVID-19

Báo Suara Mahardika vừa đăng bài của nhà văn, nhà báo nổi tiếng Agus Marwan, hiện là Tổng Thư ký Diễn đàn văn chương Indonesia,  phân tích 12 chiến lược thành công của “Đất nước rồng xanh” trong cuộc chiến chống sự lây lan của virus SARS-CoV-2.

Việt Nam: hệ thống quản lý hiệu quả giúp đánh bại COVID-19


Tính đến sáng 27/4, tổng số ca nhiễm virus corona của Việt Nam là 270. Làm thế nào một quốc gia có gần 100 triệu dân với diện tích lãnh thổ nhỏ, đường biên giới dài với Trung Quốc và các mối liên hệ quốc tế sôi động, có thu nhập bình quân không phải cao nhất và hệ thống y tế chưa phát triển cao lại có thể đạt được kết quả này? Cả thế giới muốn biết câu trả lời.

Cách chống dịch quyết liệt và hy vọng phục hồi kinh tế của Việt Nam

Theo hãng tin Bloomberg News ngày 25/4 đăng bài cho rằng Việt Nam đã dùng “búa tạ” để làm phẳng đường cong đại dịch COVID-19, và sau khi đạt được thành công, Việt Nam đang bắt đầu mở cửa trở lại nền kinh tế.
ĐẤT NƯỚC TRỌN NIỀM VUI


Những ngày tháng không thể quên


VANG MÃI KHÚC KHẢI HOÀN


Hôm nay toàn Đảng, toàn dân và toàn Quân ta hân hoan kỷ niệm 45 năm Ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước-Ngày chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam.
45 năm trôi qua, quãng thời gian đủ để mỗi người thấy rõ được giá trị, ý nghĩa của Ngày chiến thắng. Đó là ngày đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới. 30-4-1975 cũng là ngày mở tung cánh cửa độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam; ngày hiện thực hóa khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam: “Tiến lên chiến sĩ đồng bào/ Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn”. Đại thắng mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Chiến thắng 30-4 đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi, mở ra kỷ nguyên mới-kỷ nguyên của hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
45 năm qua đất nước thanh bình, non sông liền một dải nhưng chưa phải đã hết những buồn tủi, khổ đau do chiến tranh để lại. Vẫn còn đó hàng vạn người mẹ, người vợ, người con chưa tìm được người thân yêu nhất của mình; chưa biết các anh, các chị, những anh hùng liệt sĩ đang yên nghỉ nơi đâu. Vẫn còn đó những con người một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” mang trên mình thương tích do chiến tranh gây ra; những thế hệ con, cháu đang hằng ngày, hằng giờ vật lộn với những cơn đau do di chứng chất độc da cam để lại. Vẫn còn đó những khu đất, mảnh vườn ẩn chứa, rình rập hiểm nguy do pháo, đạn của quân thù còn găm... Bởi vậy, trong niềm vui, hạnh phúc thanh bình của ngày hôm nay, mỗi chúng ta vẫn còn nhiều trăn trở và luôn ghi lòng tạc dạ những đóng góp, sự hy sinh của biết bao con người đã cống hiến cuộc đời, vượt qua mưa bom bão đạn, vất vả, hiểm nguy, chấp nhận về mình những hy sinh, đau khổ để “đất nước nở hoa độc lập, dân tộc kết trái tự do”.
45 năm qua đã khẳng định: Trí tuệ Việt Nam; ý chí Việt Nam, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nên những kỳ tích không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn trở thành hình mẫu với nhân loại tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Một dân tộc với khát vọng được tự do, được độc lập, nguyện một lòng vững bước dưới cờ Đảng quang vinh, đạp bằng chông gai, thử thách tiến về phía trước để mang lại hạnh phúc, bình yên, thịnh vượng cho dân tộc, cho nhân dân. Chiến thắng 30-4 của dân tộc Việt Nam tạo niềm cảm hứng cho nhiều dân tộc trên thế giới vùng lên đấu tranh giành lại quyền sống, quyền tự do, độc lập cho dân tộc mình. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà tờ New York Times số ra ngày 1-5-1975 với hàng tít lớn trên trang nhất nhận định rằng, chiến thắng 30-4-1975 của Việt Nam là "Ngày lịch sử của thế giới".
Đất nước thanh bình 45 năm qua cho thấy: Con đường mà dân tộc Việt Nam đã đi và đang đi là hết sức đúng đắn. Sự lựa chọn con đường cách mạng của nhân dân Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Không còn chiến tranh, đói nghèo bị đẩy lùi, nhiều thành tựu về quyền con người được thế giới ghi nhận. Vị thế của Việt Nam trên thế giới và khu vực ngày càng được khẳng định vững chắc. Việt Nam không chỉ chủ động tham gia mà còn thể hiện rõ sự đóng góp đầy trách nhiệm của mình trong giải quyết nhiều vấn đề đặt ra đối với cộng đồng quốc tế và khu vực. Việt Nam không chỉ trở thành hình mẫu trong mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế-xã hội mà còn là điểm đến an toàn, hấp dẫn đối với thế giới trên mọi lĩnh vực.
Đại dịch Covid-19 xảy ra tác động lớn đến đời sống kinh tế-xã hội toàn thế giới. Trước sự nguy nan của đất nước, sự an toàn của người dân, phát huy tinh thần “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài” trong kháng chiến, Việt Nam đã chủ động, bình tĩnh nhưng quyết liệt triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống đại dịch rất hiệu quả. Cả hệ thống chính trị vào cuộc với sự ủng hộ, đồng lòng của mọi người dân. Giữ thế chủ động, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là bài học chưa bao giờ cũ được rút ra từ các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố quyết định để dân tộc ta, đất nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử.
Đã 45 mùa xuân non sông liền một dải, mọi người dân được sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Dẫu cuộc sống thường ngày vẫn còn những khó khăn, vất vả, nhưng với tất cả những gì đã có được trong suốt 45 năm qua, được nhân dân ghi nhận và dư luận quốc tế đánh giá cao, mỗi chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng rằng: Bằng trí tuệ, tài năng, sức sáng tạo và bản lĩnh của người Việt Nam; bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta sẽ tiếp tục thu hái được những thành tựu vĩ đại hơn nữa, đưa đất nước Việt Nam phát triển ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Ngày 30/4/1975


10h00' sáng, 30/4/1975, đồng chí Nguyễn Thanh - Trưởng phòng 70 thuộc Cục Tình báo (phòng 70 là phòng chuyên theo dõi tin địch bằng phương tiện kỹ thuật, bám máy từng phút, từng giờ) chạy vào báo cáo Tổng hành dinh: "Đài Phát thanh Nhật Bản loan tin Quân Giải phóng có xe tăng dẫn đầu đang tiến vào Sài Gòn". Tin về dồn dập. Đến 10h50', Cục Tình báo báo cáo Tổng hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng thống ngụy,"....11h30': "Ta đã giải phóng Sài Gòn, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng”. Khu vực nhà D67 và “Nhà con rồng” rộn lên những tiếng hô vang mừng chiến thắng. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương vui mừng, phấn khởi, nghẹn ngào và xúc động ôm chầm lấy nhau.

Xe tăng của Quân ta tiến vào dinh Độc Lập ngày 30/4/1075

Trước đó vài phút thôi, Sở chỉ huy tiền phương Chiến dịch Hồ Chí Minh reo mừng trong niềm vui chiến thắng. Không còn là chuyện bất ngờ mà ai nấy đều giàn giụa nước mắt, siết chặt tay nhau, phấn khởi, tự hào. Các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng xúc động ôm hôn mọi người. Đồng chí Đinh Đức Thiện, vui tính là thế, mà giờ lại là người khóc ra tiếng to nhất. Đồng chí Trần Văn Trà, đôi mắt đỏ hoe, nghẹn ngào sung sướng. Riêng đồng chí Phạm Hùng, mở phanh chiếc áo bà ba, vừa cười to vừa bình luận sảng khoái, vừa ra lệnh chuẩn bị tiếp quản Sài Gòn.
Trích hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

VIỆT NAM ĐÃ LÀM ĐƯỢC NHỮNG GÌ SAU 45 NĂM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC?

VIỆT NAM ĐÃ LÀM ĐƯỢC NHỮNG GÌ SAU 45 NĂM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC?
------------------------
Nhiều người hay so sánh nước ta với Tây với tàu, với Hàn, Nhật, Thái Lan…để rồi chém gió, để rồi chê bai, chỉ trích đủ các kiểu. Đồng ý là mình lấy các nước phát triển ra để làm cái đích ngắm, để nỗ lực phấn đấu mạnh giàu được như họ, âu cũng là chuyện thường tình nhưng nói đi thì cũng phải nói lại cho minh tường sự việc. Chẳng lấy đâu xa, chỉ lấy khu vực Đông Nam Á với nhau để thấy được bản chất của mọi vấn đề. Bớt tự ti, tự nhục để cho đời nở hoa và vạn nhà vui vẻ. Mấy anh, chị hay chê Việt Nam nghèo, lạc hậu, phát triển chậm thì cứ bình tĩnh mà xem, lão chăn bò nói cho mà nghe nhé:
Sau khi thống nhất, nước ta kiệt quệ về kinh tế, cơ sở vật chất, hạ tàng đổ nát, đói nghèo triền miền, thù trong, giặc ngoài. Giai đoạn 1975-1986, nước ta vẫn duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung, vị Mỹ và đồng minh bao vây, cô lập, cấm vận kinh tế. Một đất nước vừa khắc phục hậu quả chiến tranh nặng nề lại bị bao vây tứ phía; chúng ta không ngóc đầu lên được. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm: Năm 1977, tăng 2,8%; năm 1978, tăng 2,3%; năm 1979, giảm 2%; năm 1980, giảm 1,4%, bình quân 1977–1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%. GDP bình quân đầu người là 80 USD năm 1980 thấp hơn Lào (94 USD), và Campuchia (191 USD). Lúc này Thái Lan và một số nước trong khu vực dân đã chạy ô tô, kinh tế khá giả. Ta thì chạy ăn từng bữa. Đến năm 1990, nghĩa là sau đổi mới được 4 năm, GDP bình quân đầu người mới đạt mức 98 USD (Lào là 186 USD, và Campuchia là 191 USD).
Đảng và nước một mặt đổi mới theo nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một mặt chủ động làm hòa với những anh trước đây bị ta đánh cho không còn manh giáp; trước hết là bình thường hóa quan hệ với tàu năm 1991 (bại quốc của ta năm 1979 - 1989). Đến 1995 thì bắt tay với người Mỹ (kẻ thua cuộc từ 1954-1975). Việt Nam xác định rõ là anh nào hung hăng, láo lếu mang quân xâm lược thì sẽ bị đánh cho phiến giáp bất hoàn nhưng chẳng có kẻ thù nào là vĩnh viễn mà chỉ có lợi ích dân tộc là mãi mãi trường tồn. Khép lại quá khứ, bắt tay hướng về tương lai. Chúng ta khôn ngoan là thế, vậy nên từ đó trở đi nước ta tạm yên ổn để phát triển kinh tài và kết quả thu về trên cả tuyệt với:
+ Giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 4,4%/năm, giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 GDP bình quân tăng 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005 GDP tăng bình quân 7,34%/năm; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Giai đoạn 2011-2015, GDP của Việt Nam tăng chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, giai đoạn 2015-2020 là 6,8%. GDP bình quân đầu người năm 1991 chỉ là 188 USD/năm. Đến năm 2003, GDP bình quân đầu người đạt 471 USD/năm và đến nay GDP đầu người đạt gần 3.000 USD/năm.
+ Tỷ lệ nghèo đói giảm từ 58% năm 1992 xuống còn 3,9% cuối năm 2019.
+ Năm 1991 xuất khẩu là 2.087,1 triệu USD, đến năm 2019 thì hơn cả Thái Lan, đạt trên 500 tỉ USD.
+ Trong hơn 30 năm, Việt Nam thu hút được hơn 500 tỷ USD của các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này đã góp phần lớn làm tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam.
+ Quy mô nền kinh tế tương đương với Phillipines, kém Singapore tý xíu, bằng 2/3 Thái Lan, bằng 1/3 Indonesia. Nếu Biết rằng ngày mới giải phóng xong thì quy mô nên kinh tế nước ta thua các nước trên hàng chục lần.
Đến nay, đường bộ thì có ô tô, đường thủy thì tàu bè, du thuyền hạng sang, trên không thì máy bay lượn lờ cả ngày. Đừng nói phét là có người vẫn chết vì đói rét, vì hộ nghèo và cận nghèo được nhà nước hỗ trợ; không có nhà thì xây cho nhà tình nghĩa; già thì có tiền tuổi già; neo đơn, bệnh tật thì có trung tâm bảo trợ xã hội, đi viện thì có thể bảo hiểm hộ nghèo. Có sức khỏe thì lao động tay chân ngày kiếm đôi trăm là vô tư, rượu bia thì không thiếu, ăn uống thì no đủ. Mấy anh hay ôn nghèo kể khổ, kể thiếu ăn lại là những anh béo phì. Không lan man nữa, kết luận luôn là: cứ đà nay thì chỉ 15-20 năm nữa ta sẽ là anh cả của Đông Nam Á về kinh tế, quân sự thì đương nhiên đã nằm vào hạng đại ca từ mấy chục năm nay. Anh, chị nào còn có thói quen tự nhục thì về mua con gà với cả lít rượu, buông màn mà uống rồi hẳng chê bai./.
-----------------------
Mai Năm Mới (ST)

Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng

Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng


 


Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện chính trị, một dấu mốc rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Hai nội dung quan trọng nhất của mỗi kỳ Đại hội Đảng là công tác văn kiện và công tác nhân sự, đặc biệt việc chuẩn bị nhân sự Đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm thành công của Đại hội và triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội. 
Để chuẩn bị thật tốt công tác đặc biệt quan trọng này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII của Đảng có bài viết: “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶC BIỆT QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG”. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC ĐẶC BIỆT QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
1. Vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội
Như chúng ta đã biết, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, ở bất kỳ lĩnh vực, địa phương nào, cán bộ bao giờ cũng đóng vai trò quyết định; công tác cán bộ không chỉ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng mà còn là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà Bác Hồ bắt đầu chuẩn bị thành lập Đảng bằng việc đào tạo và huấn luyện cán bộ. Bác khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"; "Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng".
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định công tác cán bộ chịu sự quy định của đường lối chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị; cho nên đồng thời với chuẩn bị đường lối chính trị phải tích cực chuẩn bị và tiến hành đường lối tổ chức và chiến lược cán bộ. Hiện nay, cùng với việc chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, Đảng ta đang chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, dự kiến tổ chức vào quý I-2021. Tại Hội nghị lần thứ tám (tháng 10-2018), Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập 5 tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng (Tiểu ban Văn kiện, Tiểu ban Kinh tế - Xã hội, Tiểu ban Điều lệ Đảng, Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội). Ngày 30-5-2019, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35 về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hai nội dung quan trọng nhất của mỗi kỳ Đại hội Đảng là việc thảo luận, quyết định đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng (gọi tắt là thông qua các văn kiện) và bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Đảng (gọi tắt là công tác nhân sự). Hai nội dung này liên quan chặt chẽ với nhau, đều phải chuẩn bị thật tốt, đặc biệt việc chuẩn bị nhân sự Đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của Đại hội và triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội.
Nói đến chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng là nói đến chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhân sự lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội Đảng, là bộ tham mưu chiến đấu, hạt nhân lãnh đạo chính trị và là trung tâm đoàn kết, thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đây là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ. Thực tế cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm quyết định hoặc có tính bước ngoặt lịch sử, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. (Lênin đã từng nói: "Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga"). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là lựa chọn, bố trí sai một số cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, nhất là cấp cao nhất. Cần phải khẳng định và thấm nhuần sâu sắc vị trí, ý nghĩa của công việc cực kỳ quan trọng này không chỉ đơn thuần đối với việc tổ chức một Đại hội Đảng mà đây là công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước.
Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta đã có bước trưởng thành, phát triển nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; cơ cấu, độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn quy hoạch cán bộ ngày càng đáp ứng yêu cầu, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp và kế tục giữa các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nước ta có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện; trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập, tổ chức sản xuất, kinh doanh ngày càng có hiệu quả.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, đội ngũ cán bộ của ta hiện nay đông nhưng chưa thật mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt chỉ tiêu mong muốn. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa toàn diện, có mặt còn hạn chế, yếu kém; không ít cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, thậm chí có người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, vi phạm nguyên tắc và quy chế làm việc, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, luật pháp, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát lớn vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phải thi hành kỷ luật gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý; một số cán bộ đã bị xử lý hình sự. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cấp cao, tuy đã được ngăn chặn nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị đẩy lùi. Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự.
Cần khẳng định rằng, sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ trong mấy chục năm qua là nhân tố hàng đầu quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay, nhất là cán bộ cấp chiến lược, như đã nói ở trên, có ảnh hưởng nhất định đến việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIII của Đảng.
2. Yêu cầu đặt ra cho công tác nhân sự của Đại hội XIII
Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện chính trị rất quan trọng. Đại hội được tiến hành vào thời điểm đất nước ta trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng vào năm 2030 và kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước vào năm 2045. Đại hội XIII sẽ là một dấu mốc rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; tuy nhiên các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, kinh tế số và xu hướng quốc tế hoá nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nước ta. Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hòa bình") mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông toàn cầu, chiến tranh mạng,... Đây cũng là thời điểm chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau.
Tình hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng trong nhân dân, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngại. Nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức mới chỉ bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình hình trên cho thấy nhiệm vụ của toàn Đảng sắp tới là rất nặng nề. Để giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước trong thời gian tới, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương phải chuẩn bị thật tốt để trình Đại hội thảo luận và quyết định nhân sự Trung ương khóa XIII, bảo đảm thành công của Đại hội và thắng lợi trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội. Đây là công việc vô cùng quan trọng. Đây cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm sâu sắc, chính đáng của toàn Đảng, toàn dân. Gần như đi đến đâu, ở chỗ nào, cũng thấy cán bộ, đảng viên và nhân dân tỏ ra quan tâm theo dõi và có phần băn khoăn, lo lắng, đặt câu hỏi: Đảng ta sắp tới dự định lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là cán bộ chủ chốt) thế nào để đủ sức gánh vác nhiệm vụ cách mạng to lớn mà lịch sử giao phó? Các phần tử xấu, cơ hội, thù địch cũng nhân dịp này tìm mọi cách xuyên tạc, tung tin, tác động, chia rẽ nội bộ ta hòng phá hoại công tác nhân sự nói riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung của chúng ta, rất thâm độc và nguy hiểm. Rõ ràng, công tác nhân sự Đại hội là vô cùng quan trọng nhưng cũng hết sức phức tạp, khó khăn, nặng nề, đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cả hệ thống chính trị phải làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao, với quyết tâm, nỗ lực rất lớn, có cách làm thật sự công tâm, khách quan, khoa học, đặt lợi ích của quốc gia-dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
3. Nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành
Để chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xác định đúng yêu cầu xây dựng Ban Chấp hành Trung ương mà hạt nhân là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt của Đảng. Phải chăng việc xây dựng Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII phải là một tập thể thật sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, thống nhất cao ý chí và hành động, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tầm nhìn chiến lược; có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo; tiêu biểu cho toàn Đảng về tính chiến đấu, tính kỷ luật; gắn bó mật thiết với nhân dân, quy tụ được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân; đủ uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
- Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII cần có số lượng và cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tăng cường số lượng Ủy viên Trung ương Đảng ở các vị trí, địa bàn, lĩnh vực công tác trọng yếu. Bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển liên tục.
- Việc giới thiệu nhân sự, nói chung phải trên cơ sở quy hoạch; giữ vững nguyên tắc, quy chế, quy định, phát huy trách nhiệm, dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan trong đánh giá, giới thiệu, lựa chọn nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ tới. Lấy phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ các mặt, uy tín và hiệu quả công tác làm căn cứ và tiêu chí cơ bản để đánh giá, lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp với công việc. Chống các biểu hiện cơ hội, tham vọng quyền lực, vận động cá nhân, cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm...; cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn phá hoại, gây rối nội bộ của các thế lực thù địch.
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII phải thật sự là những đồng chí tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; bảo đảm tiêu chuẩn chung của cán bộ, đặc biệt chú trọng các vấn đề sau:
+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của quốc gia - dân tộc. Có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động.
+ Có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, tận tụy với công việc; bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi. Có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ.
+ Có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy chiến lược và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương. Có năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới tại lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công; qua thực tiễn tỏ rõ là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có năng lực sáng tạo, nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có "sản phẩm" cụ thể, rõ rệt; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công. Có ý thức, trách nhiệm và khả năng tham gia thảo luận, đóng góp vào các quyết định chung của Ban Chấp hành Trung ương; đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
Nói tóm lại là phải vừa có Đức vừa có Tài, trong đó Đức là gốc ("chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài").
Kiên quyết không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài, đủ tiêu chuẩn; đồng thời không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những người có một trong các khuyết điểm sau: (1) Bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; (2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán; không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; (3) Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị; (4) Không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút; (5) Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; (6) Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.
Cùng với việc xác định rõ và nắm vững yêu cầu, tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, phải tính toán, quy định rõ cơ cấu, số lượng Ban Chấp hành Trung ương, giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Đây cũng là vấn đề luôn được quan tâm trong quá trình chuẩn bị nhân sự ở mỗi kỳ Đại hội. Quan điểm chung và nhất quán ở các kỳ Đại hội là: Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương cần có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tính kế thừa và phát triển; nhưng không nhất thiết lĩnh vực nào, ngành nào cũng phải có người tham gia Ban Chấp hành Trung ương nếu không đủ tiêu chuẩn; không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn. Giới thiệu để bầu làm Ủy viên Trung ương chính thức đối với các đồng chí có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để phân công phụ trách các lĩnh vực công tác Đảng, công tác chính quyền, công tác Mặt trận, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan trọng yếu của Nhà nước ở Trung ương, địa phương và lực lượng vũ trang. Các ban đảng ở Trung ương và một số bộ, ngành, địa phương thuộc vị trí, địa bàn, lĩnh vực quan trọng cần tăng cường số lượng Ủy viên Trung ương Đảng.
Trong cơ cấu của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII cần chú ý bảo đảm tỉ lệ hợp lý đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số; một số nhà khoa học, văn nghệ sĩ, lãnh đạo một số tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Rút kinh nghiệm từ các khóa trước, việc xác định số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII cần căn cứ chủ yếu vào yêu cầu, nhiệm vụ và đòi hỏi của tình hình, căn cứ vào yêu cầu lãnh đạo toàn diện đối với các địa bàn, lĩnh vực công tác, đặc biệt là phải bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn, không thuần túy chạy theo số lượng.
4. Trách nhiệm của chúng ta
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (tháng 10-2018), Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Tổ Giúp việc của Tiểu ban Nhân sự. Tiểu ban Nhân sự đã ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc, chế độ và lề lối làm việc của Tiểu ban Nhân sự và Tổ Giúp việc. Tuy nhiên, để làm tốt công việc hệ trọng này, về tư tưởng, phương châm chỉ đạo, phương pháp và cách làm, cần phải chú trọng một số vấn đề sau đây:
- Công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng không chỉ là nhiệm vụ của Tiểu ban Nhân sự, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Ban Chấp hành Trung ương mà là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, của các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị và các địa phương. Phải làm tốt công tác nhân sự từ đại hội đảng bộ các cấp để góp phần chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội XIII của Đảng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu và ở những nơi có cán bộ tham gia quy hoạch cán bộ cấp chiến lược được giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII phải chịu trách nhiệm trước Tiểu ban Nhân sự, trước Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương về nhân sự do mình đề xuất, giới thiệu.
- Các cơ quan, tổ chức có liên quan, mà trước hết là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, phải dày công chuẩn bị, phải xác định đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ "then chốt" của "then chốt", có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển, vững mạnh của đất nước. Từng cơ quan, địa phương, từng cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác chuẩn bị phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc trách nhiệm của mình, toàn tâm, toàn ý lo cho công việc chung, phải đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm, chỉ ra những ưu điểm, kết quả cũng như những khuyết điểm, hạn chế của các khoá trước, nhất là của khoá XII gần đây, để có thêm cơ sở đề ra phương hướng, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của khoá XIII này.
- Công tác cán bộ nói chung và công tác nhân sự đại hội nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như trên đã nói nhưng cũng cực kỳ phức tạp, khó khăn, vì nó liên quan đến con người, là "công tác con người". Mà đã là con người thì như nhà văn Nga Mắc-xim Goóc-ky đã nói: "Con người, hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao!". Nhưng con người cũng có đủ thứ chứng tật không lành mạnh, nói ra rất tế nhị, nhạy cảm (nhận xét, đánh giá nhau thế nào? nhất là nói về nhược điểm, khuyết điểm của nhau; bố trí, sắp xếp vào đâu? liên quan đến danh dự, chế độ, chính sách hưởng thụ, chức vụ cao, thấp, lợi ích, bổng lộc... so sánh với người khác thế nào?... ("Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly", "Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng thì lộn gan lên đầu"!) vô cùng phức tạp, nhạy cảm, rất dễ phát sinh vấn đề, tâm tư day dứt), gây mất đoàn kết. Vì vậy, công tác nhân sự Đại hội phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự công tâm, thật sự trong sáng, khách quan, đặc biệt phải "có con mắt tinh đời" trong việc đánh giá, giới thiệu, lựa chọn; lấy tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và hiệu quả công tác, uy tín của bản thân và gia đình làm thước đo chủ yếu ("Khen cho con mắt tinh đời, anh hùng đoán giữa trần ai mới già!"). Phải trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ, tạo ra một ê-kíp, một tập thể thật sự "ăn ý", đoàn kết, thống nhất, có sức mạnh. Muốn thế, phải thật sự phát huy dân chủ trong việc phát hiện, giới thiệu nhân sự đi đôi với xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu. Chống tư tưởng cục bộ, địa phương, thân quen, "cánh hẩu", "lợi ích nhóm"; tránh cách làm giản đơn, tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã phạm sai lầm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên, nạt dưới, bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Để những người đó lọt được vào cương vị lãnh đạo là tai hoạ cho Đảng, là tạo điều kiện cho họ càng hại nước, hại dân nhiều hơn.
Phải kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên. Cách làm là phải thận trọng, làm dứt điểm từng khâu, từng công đoạn, theo một quy trình chặt chẽ; làm đến đâu chắc đến đó, làm nhân sự Ban Chấp hành Trung ương trước, sau đó mới đến nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cuối cùng mới đến nhân sự lãnh đạo chủ chốt. Nếu có những công đoạn cần làm đồng thời thì cũng phải xem xét một cách chặt chẽ, chắc chắn, bảo đảm sự đồng bộ, khoa học. Phải chuẩn bị rất kỹ, rất chu đáo, cẩn thận, tránh tối đa những sai sót.
- Các đồng chí thành viên Tiểu ban Nhân sự và Tổ Giúp việc của Tiểu ban, hơn ai hết, phải nắm chắc, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc, chế độ, quy chế và lề lối làm việc. Trong quá trình tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự, tổng hợp kết quả giới thiệu nhân sự và thực hiện các công việc khác theo chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, các đồng chí thành viên của Tiểu ban và Tổ Giúp việc phải là những cán bộ thật sự tin cậy, tuyệt đối trung thành, trung thực, trong sáng, công tâm, khách quan, đặc biệt là phải rất tỉnh táo, tinh tường, ("đừng nhìn gà hoá cuốc", "đừng thấy đỏ tưởng là chín", đừng chỉ thấy "cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong")...; tuyệt đối giữ nguyên tắc, quan hệ công tác, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cá nhân có liên quan; chống các biểu hiện tiêu cực chính ngay trong các cán bộ có trách nhiệm, các đại biểu Đại hội và các thành viên của Tiểu ban và Tổ Giúp việc. Đặc biệt, phải có quy chế, quy định chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công tâm dưới sự lãnh đạo của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đoàn Chủ tịch Đại hội).
- Cũng cần phải nói thêm rằng, trong quá trình lựa chọn, bố trí, sắp xếp nhân sự cụ thể, cần thống nhất quan điểm là không quá cầu toàn, không quá tuyệt đối hoá. Các cụ ta đã có câu: "Nhân vô thập toàn", con người ta ai cũng có điểm mạnh, điểm yếu ("Ngọc còn có vết nữa mình với ta"). Điều quan trọng là phải biết phân biệt, đánh giá chính xác bản chất, mức độ các điểm mạnh, điểm yếu đó để không chọn nhầm người và phải có cách bố trí, sắp xếp nhân sự sao cho phù hợp để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của mỗi thành viên, bổ sung cho nhau, tạo ra một ê-kíp mạnh, một tập thể lãnh đạo tương đối hoàn chỉnh, không gây tổn thương cho lợi ích của Đảng, của quốc gia, của tập thể. Nguyên tắc của chúng ta là "tập thể lãnh đạo", "lãnh đạo tập thể", "lãnh tụ tập thể". Chúng ta phải chăm lo xây dựng, vun xới, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để mỗi người tự hoàn thiện mình, phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu; để khi mỗi cá nhân đứng trong cùng một tập thể thì tập thể đó trở nên hoàn thiện hơn, toàn diện, vững mạnh hơn; và mỗi cá nhân cũng trở nên tốt hơn, phát huy được nhiều hơn phẩm chất và năng lực của mình. Tránh tình trạng "cua cậy càng, cá cậy vây", tự cao tự đại, coi thường người khác, không phối hợp, hợp tác tốt. Mục đích của chúng ta, trách nhiệm của chúng ta là phải xây dựng được một Ban Chấp hành Trung ương mạnh, một Bộ Chính trị mạnh, một Ban Bí thư mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao xung quanh người đứng đầu để đủ sức gánh vác trọng trách vinh quang nhưng rất nặng nề của mình là lãnh đạo hoàn thành sứ mạng lịch sử, nhiệm vụ chính trị của mình, tổ chức toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng với niềm tin yêu và sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân./.

Mặt trận ngoại giao góp phần vào chiến thắng lịch sử 30-4


Mặt trận ngoại giao góp phần vào chiến thắng lịch sử 30-4

 

Ngày 28-4, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao đã tổ chức tọa đàm trực tuyến “Từ Hiệp định Paris về Việt Nam đến Đại thắng Mùa xuân năm 1975: Vai trò của Mặt trận Ngoại giao góp phần vào thắng lợi lịch sử 30-4” dưới sự chủ trì của đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao.

Tham dự tọa đàm có các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tham gia trực tiếp vào quá trình đấu tranh ngoại giao đi đến Hiệp định Paris (27-01-1973), các nhân chứng lịch sử và các nhà nghiên cứu về chính trị, quân sự và ngoại giao. Phát biểu khai mạc tọa đàm, Thứ trưởng Thường trực Bùi Thanh Sơn khẳng định Hội nghị và Hiệp định Paris là đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, thể hiện vai trò quan trọng, tích cực và chủ động của mặt trận ngoại giao trong sự phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự và chính trị, trên cơ sở đề cao nguyên tắc hòa bình, độc lập, tự chủ, đồng thời kết hợp sức mạnh dân tộc với sự ủng hộ đoàn kết của nhân dân thế giới, góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975. 

Tại tọa đàm, nhiều tham luận và ý kiến phát biểu đã đi sâu phân tích một số vấn đề lịch sử trong giai đoạn đàm phán Hiệp định Paris, chia sẻ thông tin làm rõ hơn giai đoạn thực thi Hiệp định Paris từ năm 1973 đến ngày Đại thắng 30-4-1975. Đặc biệt, tọa đàm đã tập trung trao đổi về việc triển khai mặt trận ngoại giao giai đoạn 1973-1975, cho đến nay còn là một khoảng trống ít được giới nghiên cứu nhắc đến. Các học giả và các nhân chứng lịch sử cũng đã làm sống lại những ký ức sinh động về quá trình đàm phán và thi hành Hiệp định Paris; từ chủ trương chiến lược sáng suốt của Trung ương Đảng về việc mở ra mặt trận tấn công ngoại giao từ cuối những năm 1960; bài học về ứng xử ngoại giao tài tình của Bác Hồ và các nhà ngoại giao lão thành của ta, đến những nỗ lực nghiên cứu chiến lược của Bộ Ngoại giao với việc thành lập Nhóm CP80, quy tụ nhiều cán bộ ngoại giao tài năng nhằm đánh giá chính xác chính trị nội bộ và khả năng can dự của các nước lớn trước những biến chuyển rất nhanh chóng và mạnh mẽ của tình hình cách mạng miền Nam; những ký ức và cảm xúc sống động của các nhà ngoại giao “mặc áo lính” gợi nhớ lại không khí hào hùng nhưng quyết liệt của những ngày đấu tranh chính trị, pháp lý ngay trong lòng địch.
Các ý kiến tại tọa đàm nhất trí cho rằng, quá trình đàm phán và đấu tranh ngoại giao thực thi Hiệp định Paris đã để lại nhiều bài học quý báu, còn nguyên giá trị cho công tác đối ngoại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong công tác đối ngoại; giương cao tư tưởng độc lập, tự chủ trong hoạch định chính sách đặc biệt là trên vấn đề đối ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự thống nhất đoàn kết và sự phối hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, đã góp phần tạo nên thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975.

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2020

Cảnh giác với chiêu trò tung hô nhảm nhí về nhân sự trước thềm đại hội đảng


Cảnh giác với chiêu trò tung hô nhảm nhí về nhân sự trước thềm đại hội đảng

 

Thời gian này, đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, khó lường, là mối nguy hại ảnh hưởng đến các mặt đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Thay vì chung tay phòng, chống dịch bệnh, nhiều tài khoản ở các trang mạng xã hội, một số website của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đăng tải, chia sẻ dưới nhiều hình thức những thông tin xấu độc, bịa đặt về công tác nhân sự (CTNS) đại hội đảng các cấp, nhân sự Đại hội XIII của Đảng.
Những phần tử này đã dựng chuyện về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành phố, Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa XIII, "bố trí, quy hoạch" cán bộ vào những chức danh lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ... Họ bịa đặt trắng trợn, tung hỏa mù, gây rối không khí và tâm trạng xã hội, kích động tâm lý tiêu cực, gây hoang mang trong dư luận, nhằm làm tổn hại đến niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ XHCN, làm suy giảm uy tín của một số cán bộ lãnh đạo cấp cao, tác động đến vai trò giám sát của quần chúng đối với CTNS đại hội đảng.
Phải khẳng định, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Việt Nam không lạ gì những chiêu trò chống phá trước thềm đại hội đảng của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Dù thủ đoạn có tinh vi, xảo quyệt tới đâu, ngụy trang kiểu gì cũng không đủ để tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Bởi mỗi người dân Việt Nam luôn mang trong mình truyền thống yêu nước, một lòng kiên trung theo Đảng, theo cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào công tác lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy các cấp.
Nhân dân tin Đảng, tin cán bộ của Đảng, bởi quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước, dù gặp nhiều khó khăn, thử thách trong chiến tranh cũng như thời bình, Đảng luôn tiếp thu nghiêm túc, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cách mạng Việt Nam, một lòng một dạ gắn bó máu thịt với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh. Nhiều cán bộ, đảng viên đã anh dũng chiến đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định trong Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-2020): “Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân”.
Qua khảo sát, tìm hiểu về công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng cấp cơ sở ở các địa phương: Tuyên Quang, Phú Thọ, Hải Dương, Điện Biên, Cao Bằng, Hậu Giang, Đồng Nai... cho thấy: Đa số người dân vững tin rằng, CTNS đại hội đảng bộ cơ sở đúng với ý chí, nguyện vọng của dân, nên rất phấn khởi, tự hào. Qua chuyến khảo sát đó, chúng tôi còn được biết thêm những hành động, việc làm tuy không lớn, nhưng hết sức ý nghĩa của quần chúng nhân dân dành cho Đảng và cán bộ của Đảng. Ở đó, nhiều nông dân dù chưa một ngày được đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng nhớ rất rõ tên, tuổi, những cống hiến của các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; nhiều người còn chép lại những sự kiện lịch sử trong 90 năm Đảng lãnh đạo đất nước để làm tài liệu tuyên truyền. Như trường hợp ông Phạm Quốc Đạt, 73 tuổi, ở tổ 3, phường Nông Tiến, TP Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang rất cẩn thận ghi danh sách các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương qua 12 nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và thành tựu của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới vào cuốn sổ rất dày. Ông Đạt cập nhật liên tục những kết quả nổi bật của đất nước về chính trị, kinh tế-xã hội theo từng tháng để phổ biến cho các thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, đã có thời điểm, một bộ phận nhân dân bị giảm sút niềm tin với Đảng, vì rằng ở một số cấp ủy, việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ vào các chức vụ lãnh đạo vẫn chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân xảy ra ở một số nơi. Biết được những suy tư, trăn trở của dân, lắng nghe dân, để giữ vững niềm tin của dân, Đảng ta đã kịp thời ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng, qua đó siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, xử lý nghiêm khắc các đảng viên vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật theo tinh thần "không có vùng cấm". Chính vì thế, có một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý, không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng đã phải chịu hình phạt thích đáng. Cùng với đó, BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo các cấp ủy đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong công tác quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. 
Liên quan đến các vấn đề thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội đang ráo riết rêu rao, kích động, tung hô nhảm nhí về CTNS đại hội đảng các cấp và nhân sự Đại hội XIII của Đảng, nhiều người dân ở mọi miền Tổ quốc đã phản hồi về Báo Quân đội nhân dân đề nghị quý báo cần có những bài viết vạch mặt; kiến nghị với Đảng, Nhà nước có những hình thức xử lý thích đáng những kẻ nói xấu, bôi nhọ uy tín của cán bộ lãnh đạo, cơ cấu nhân sự của Đảng một cách bịa đặt, tùy tiện, vô căn cứ. Ông Đỗ Thế Trà, 80 tuổi, ở phường Đội Cấn, TP Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang bức xúc: “Tôi đề nghị Đảng, Nhà nước cần có những giải pháp mạnh về công nghệ thông tin để cho những trang mạng tuyên truyền nhảm nhí về nhân sự đại hội đảng dừng hoạt động”. Cựu chiến binh Đặng Văn Lệch, ở xã Tứ Xuyên (Tứ Kỳ, Hải Dương) cho rằng: “Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chẳng thể làm ảnh hưởng đến công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng, vì thực tiễn đã chứng minh, dù khó khăn, gian khổ, dù các thế lực thù địch, phản động chống phá quyết liệt, Đảng ta vẫn tổ chức thành công 12 kỳ đại hội, sáng suốt lựa chọn được một bộ tham mưu chiến lược tài, trí của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam”. Ông Trần Sỹ Phong, xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ, đề xuất: “Các cơ quan báo chí cần tuyên truyền nhiều về những tấm gương cán bộ của Đảng luôn vì dân, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, để những trang mạng phản động có thủ đoạn nham hiểm, thích nhảy vào bàn công việc của người khác tự tiêu tan”.
Với quan điểm đấu tranh kiên quyết, mềm dẻo, linh hoạt, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần đề cao cảnh giác, nhận diện, đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội đang ngày đêm bịa đặt về CTNS đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Công tác đấu tranh theo đúng tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt đối với những cán bộ tạo nguồn cấp ủy, cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt phải thực hiện tốt Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của BCH Trung ương quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, để cán bộ của Đảng thực sự là tấm gương tiêu biểu về “dĩ công vi thượng”, tự miễn dịch với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, được quần chúng nhân dân tin tưởng, yêu mến.
Thời điểm này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung chống lại đại dịch Covid-19 nhưng vẫn không lơ là công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Nhiều đảng bộ (chi bộ) đã tổ chức đại hội thành công, đạt kết quả tốt, các đồng chí trúng cử BCH đảng bộ (chi bộ) đạt số phiếu tín nhiệm cao, tiêu biểu về phẩm chất và năng lực. Các đảng bộ trực thuộc Trung ương đã quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, làm tốt CTNS cấp ủy khóa mới bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm, công khai, minh bạch; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển với quyết tâm xây dựng cấp ủy có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đặc biệt, CTNS Đại hội XIII của Đảng đã được BCH Trung ương Đảng khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu, bảo đảm đúng nguyên tắc, quy định.
Đáp lại niềm tin, kỳ vọng của nhân dân với Đảng, tin tưởng rằng các cấp bộ đảng sẽ lựa chọn được đội ngũ cán bộ, cấp ủy “vừa hồng”, “vừa chuyên”, có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang… Những âm mưu, ý đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc về công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng các cấp, nhân sự Đại hội XIII của Đảng sẽ không thể làm lung lay được ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên bước đường phát triển, xây dựng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN.

Tiếp tục “diễn trò” xuyên tạc tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam


Tiếp tục “diễn trò” xuyên tạc tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam


Thời gian qua, trong khi nhân dân Việt Nam đoàn kết trên dưới một lòng để đẩy lùi dịch bệnh COVID-19 thì một số cá nhân, tổ chức, các trung tâm phát thanh thiếu thiện chí với Việt Nam đã đăng tải những thông tin bịa đặt, sai sự thật về tình hình dịch bệnh.
Họ triệt để khai thác các ứng dụng trên không gian mạng để chuyển tải những thông tin thiếu khách quan, trung thực, bóp méo sự thật, “đổi trắng thay đen” về tình hình dịch bệnh nhằm gây ảnh hưởng, xáo trộn tình hình chính trị - xã hội ở trong nước.
Rõ ràng, với tinh thần đoàn kết hưởng ứng nhiệt tình Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; tinh thần “chống dịch như chống giặc” mà Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đề ra, cho đến thời điểm này, chúng ta trải qua 3 giai đoạn chống dịch, và thực tế, dịch bệnh vẫn đang trong tầm kiểm soát. Đó là kết quả bước đầu đáng ghi nhận.
Thế nhưng, với chiêu trò “truyền thông bẩn”, một số cá nhân, tổ chức thù địch trong, ngoài nước, các trung tâm truyền thông thiếu thiện chí vẫn luôn tìm cách tung tin đồn thất thiệt, gây ra sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận về tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam.
Điển hình, Đài RFI (Đài phát thanh quốc tế Pháp) hôm 12-4 với những thông tin hàm chứa sự hoài nghi về công tác phòng, chống dịch COVID-19 tại Việt Nam rằng: “Chính sách xét nghiệm hiện nay có cung cấp một bức tranh trung thực?...Việt Nam đang ở đâu trong dịch COVID-19: Giai đoạn dịch đã lây nhiễm rộng rãi trong cộng đồng hay giai đoạn vẫn còn có khả năng cô lập một số đối tượng, một số ổ dịch”.
Trên trang fanpage facebook, website của tổ chức khủng bố Việt Tân vào ngày 13-4 tung tin thất thiệt với nội dung: “Thủ tướng Phúc kêu gào xin tiền dân trong nước và hải ngoại để chống dịch. Dân nghèo, trẻ em, thanh niên bòn từng đồng từng cắc để hỗ trợ ngân quỹ chống dịch. Đảng thu tiền của dân xong đem tặng cho nước bạn để nâng cao uy tín của Đảng”.
Trung tâm phát thanh BBC tiếng Việt lợi dụng tình hình dịch COVID-19 để đăng tải thông tin hôm 4-4 với nội dung: “Đại dịch COVID-19 đang gây nhiều tác động mạnh tới sức khỏe cộng đồng và nhiều người dân, nhiều giới ở Việt Nam, trong đó có cả tác động và nguy cơ lây lan trong các nhà tù, trại giam, trại tạm giam trong cả nước. Đây là lúc chính quyền và nhà nước Việt Nam nên cân nhắc và ra quyết định tha hoặc tạm tha tù với nhiều người đang thi hành án vì sức khỏe của họ...”.
Như vậy, các luận điệu tuyên truyền mà họ đưa ra chủ yếu thông qua việc cắt ghép từ nhiều nguồn tin khác nhau, nhận các nguồn tin từ các đối tượng phản động, chống đối để bịa đặt, gán ghép theo hình thức “gắp lửa bỏ tay người”, “nói không thành có”. Nói cách khác, họ không thông qua nguồn tin chính thống, mà chủ yếu qua các kênh phản động, chống đối. Vậy, thông tin của họ có đáng tin cậy không?
Các nội dung tuyên truyền của các đối tượng chủ yếu tập trung vào 2 nhóm chính: Nhóm thứ nhất, đưa tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh COVID-19 để gây ra sự hoài nghi về công tác phòng, chống dịch của Chính phủ Việt Nam, tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng để có điều kiện gây bất ổn về chính trị - xã hội. Nhóm thứ hai, các nội dung thông tin chủ yếu lấy lý do về đại dịch COVID-19 để yêu cầu Việt Nam phải trả tự do cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị” do họ tự thêu dệt nên.
Có thể nói rằng, những thông tin sai lệch, thiếu căn cứ khoa học được các đối tượng tung ra trong tình hình dịch COVID-19 đã để lại những hậu quả xấu đối với xã hội. Về mặt khách quan, những thông tin bịa đặt sẽ gây hoang mang, dao động trong nhân dân về công tác phòng, chống dịch của Chính phủ; gây ra sự kỳ thị, xói mòn uy tín của các cơ quan chức năng đang làm nhiệm vụ, đặc biệt những thông tin xuyên tạc đó có ảnh hưởng lớn đến danh dự, nhân phẩm của một số cá nhân hoặc tổ chức đang làm nhiệm vụ phòng chống dịch...
Trước những thông tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật như vậy, mỗi người dân chúng ta nên:
Thứ nhất: cảnh giác trước các thông tin tuyên truyền sai sự thật về tình hình COVID-19. Ngoài ý thức chấp hành các quy định của Chính phủ về công tác phòng, chống dịch, sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn về việc: Tránh tụ tập nơi đông người; hạn chế tối đa ra ngoài; luôn luôn đeo khẩu trang và giữ khoảng cách tiếp xúc tốt nhất là 2m; thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và dung dịch sát khuẩn; thường xuyên vệ sinh nhà cửa; thực hiện khai báo y tế, cập nhật tình hình sức khỏe theo đúng quy định của Bộ Y tế thì người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác trước những thông tin bịa đặt, không đúng về tình hình dịch bệnh. Kịp thời báo với lực lượng Công an khi phát hiện thông tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh đăng tải trên không gian mạng.
Thứ hai: Tiếp nhận thông tin một cách khoa học, có chọn lọc, việc tiếp cận nguồn thông tin ở những trang không chính thống, thiếu cơ sở khoa học có thể gây nên tình trạng “ngộ nhận”, hiểu sai lệch về tình hình dịch COVID-19.
Thứ ba: Mỗi công dân cần nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, đặc biệt là Luật An ninh mạng có hiệu lực từ ngày 1-1-2019. Bởi lẽ, nếu như không tuân thủ các quy định pháp luật về sử dụng Internet có thể dẫn đến việc bị xem xét xử phạt vi phạm hành chính hoặc nặng hơn là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Dịch COVID-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, không chỉ Việt Nam mà cả thế giới cần đoàn kết, đồng lòng để đẩy lùi dịch bệnh, đẩy lùi những thông tin sai sự thật về dịch bệnh. Đó là trách nhiễm mà mỗi người dân cần phải thực hiện trong thời điểm này.

Xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ ANTT, góp phần giải phóng miền Nam


Xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ ANTT,

góp phần giải phóng miền Nam


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng CAND đã thực hiện tốt công tác xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ ANTT. Đặc biệt, những phong trào “Bảo vệ trị an” ở miền Bắc và “Bảo mật phòng gian” ở miền Nam đã thực sự phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sức mạnh của toàn dân trong công tác bảo vệ ANTT, góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN), đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
          Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1954) đưa cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới. Nhiệm vụ to lớn lúc này là: Xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN, tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên CNXH. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra một số nghị quyết, chỉ thị nhấn mạnh về công tác quần chúng, trong đó xác định: “Đảng lãnh đạo, dựa vào quần chúng, kết hợp tính cách mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn”.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chỉ thị của Ban Bí thư Thư Trung ương Đảng, Bộ Công an đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ ANTT. Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 8 xác định: “Kết hợp chặt chẽ phát động quần chúng với trấn áp hoạt động phá hoại của bọn gián điện cường hào gian ác và bọn phản cách mạng khác để đảm bảo cho cuộc cải cách ruộng đất tiến hành một cách thuận lợi”.
Theo đó, lực lượng Công an đã tăng cường cán bộ xuống cơ sở tham gia các đoàn, đội phát động quần chúng đấu tranh thực hiện “3 cùng” với nhân dân, dựa vào nhân dân kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, phát hiện, trấn áp kịp thời các hoạt động chống phá của giai cấp địa chủ phản cách mạng, kết hợp chỉnh đốn tổ chức, xây dựng đội ngũ cốt cán ở cơ sở như Công an xã, lực lượng Bảo vệ cơ quan, xí nghiệp nhà nước...
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 12 (tháng 4-1958) đã nhấn mạnh: “Bảo vệ Tổ quốc phải là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, cho nên phải không ngừng củng cố và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao cảnh giác cách mạng của cán bộ, công nhân và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân tham gia bảo vệ miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối quần chúng trong công tác Công an để đấu tranh có hiệu quả với địch...”.
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 14 (tháng 1-1960) nhấn mạnh công tác vận động quần chúng: “Phong trào bảo vệ trị an là cuộc vận động quần chúng rộng rãi, nhằm giáo dục quần chúng đảm nhiệm lấy sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng và bảo vệ an toàn cho đời sống hàng ngày, cần phải làm mạnh và mở rộng phong trào bảo vệ trị an đưa lên thành phong trào thường xuyên của quần chúng làm cơ sở chắc chắn để đẩy mạnh công tác đánh địch...”.
Để nâng cao hiệu quả công tác vận động, lực lượng Công an tăng cường tuyên truyền để quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn về âm mưu của địch, củng cố lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc; vận động nhân dân phát hiện, tố cáo, lên án các đối tượng phản động. Đối với bà con theo đạo Thiên chúa, lực lượng Công an đã tranh thủ vận động đồng bào công giáo đứng vào hàng ngũ kháng chiến, lôi kéo hàng ngũ giáo phẩm, dựa vào lực lượng quần chúng để trừng trị bọn ngoan cố làm tay sai cho địch; đồng thời phối hợp cùng các ngành, đoàn thể vận động được nhiều giáo dân không mắc mưu, trở về quê làm ăn sinh sống, trấn áp kịp thời các vụ bạo loạn vũ trang do các đối tượng phản động lợi dụng đạo Thiên chúa cầm đầu. Điển hình như vụ Tràng Nưa (Nghệ An), Hương Sơn (Hà Tĩnh), phá tổ chức gián điệp Hòn Mê câu kết với bọn phản động lợi dụng đạo Thiên chúa ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá)…
Lực lượng Công an là nòng cốt tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền, phối hợp với các ngành, đoàn thể vận động quần chúng củng cố vùng xung yếu, trấn áp bọn phản cách mạng ở những địa bàn phức tạp. Kết hợp biện pháp quần chúng với các biện pháp nghiệp vụ, vận dụng đấu tranh chính trị của nhân dân hỗ trợ lực lượng vũ trang, kịp thời phát hiện, trừng trị bọn gây rối ANTT ở nhiều nơi như: Ba Làng (Thanh Hoá), Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), Quỳnh Lưu (Nghệ An)... Đã khoanh vùng trấn áp phản cách mạng ở hàng trăm điểm, bắt tập trung cải tạo và đưa vào diện cải tạo tại chỗ hàng nghìn phần tử chống phá.
Quán triệt quan điểm của Đảng, vấn đề thổ phỉ không đơn thuần là vấn đề địch - ta, mà là vấn đề có tính dân tộc, tính quần chúng nên khi giải quyết vấn đề này, lực lượng Công an đã thực hiện kết hợp vận động chính trị với chính sách dân tộc, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, trên cơ sở đó vận động, tổ chức nhân dân trực tiếp tham gia giải quyết vấn đề thổ phỉ. Việc sử dụng biện pháp vũ trang là cần thiết nhưng phải trên cơ sở thực hiện tốt vận động chính trị trong nhân dân. Với biện pháp đó, đến giữa những năm 60 vấn đề thổ phỉ ở các tỉnh miền núi phía Bắc cơ bản đã được giải quyết.
Lực lượng Công an đã gắn kết phong trào “Bảo vệ trị an”, “Bảo mật phòng gian với phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Từ kinh nghiệm phong trào “3 phòng” (phòng gian, phòng hoả, phòng tai nạn), giữa năm 1957, Bộ Công an đã  sơ kết rút kinh nghiệm, phát động phong trào “Bảo vệ trị an để bảo vệ ANTT trong tình hình mới. Cùng với các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua lao động sản xuất như “Gió đại phong” trong nông nghiệp, “Sóng duyên hải” trong ngư nghiệp, “Có ba nhất” trong Quân đội, phong trào “Bảo vệ trị an” đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến đuổi kịp và vượt lá cờ đầu xã Yên Phong (Ninh Bình) như: Xã Hưng Khánh (Hưng Yên), Thanh Bình (Lào Cai), Quảng Chiều (Thanh Hoá), khối 30 (Hà Nội)...
Ở miền Nam, lực lượng an ninh tăng cường bám đất bán dân xây dựng cách mạng, hướng dẫn hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, trừng trị bằng ôn. Phong trào “Bảo mật phòng gian” xây dựng xã, ấp chiến đấu, chống địch càn quét, bảo vệ cán bộ của Đảng và phong trào “Đồng khởi” chống Mỹ - Diệm, phát triển trên khắp các vùng chiến lược, góp phần làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy.
Phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, nhất là từ sau cuộc tổng tấn công nổi dậy toàn miền Nam năm 1968 làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ - ngụy. Ngày 18-12-1974, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng, phân tích tình hình mọi mặt, ban hành nghị quyết lịch sử, động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, gấp rút chuẩn bị mọi mặt tổng công kích quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ ANTT, Bộ Công an đã ban hành Quyết định 426 ngày 16-6-1967, thành lập “Phòng theo dõi phong trào bảo vệ trị an và xây dựng lực lượng Công an xã” trực thuộc Bộ trưởng, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng chỉ đạo công tác vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào “Bảo vệ trị an” và chỉ đạo việc xây dựng lực lượng Công an xã, nhằm đẩy mạnh xây dựng xã vững mạnh về ANTT. Từ đây phong trào “Bảo vệ trị an” và xây dựng lực lượng Công an xã có một tổ chức chuyên trách chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng CAND đã thực hiện tốt công tác xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ ANTT, phong trào “Bảo vệ trị an” ở miền Bắc và “Bảo mật phòng gian” ở miền Nam đã thực sự phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sức mạnh của toàn dân trong công tác bảo vệ ANTT, góp phần bảo vệ miền Bắc XHCN, đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

QUÂN ĐỘI TRONG NHIỆM VỤ CHỐNG DỊCH


Theo đúng tinh thần của Thủ tướng “chống dịch như chống giặc”, trong suốt thời gian qua, Quân đội đã hoàn hành xuất sắc nhiệm vụ chống giặc Covid-19, được nhân dân ngày càng tin yêu.
Nhiệm vụ đầu tiên mà Quân đội đã hoàn thành xuất sắc đó là điều hành việc cách ly. Quân đội chủ động chỉ huy, điều hành các khu cách ly theo sự chỉ đạo của chính phủ.  Hàng trăm chuyến bay từ nước ngoài, chở theo hàng vạn người từ các vùng dịch trên thế giới về nước. Dù có là thương nhân, sinh viên, hay những người lao động phổ thông có nhu cầu về nước lánh dịch đều được đất nước đón nhận. Được tiếp đón và phục vụ đầy đủ, tử tế trong các khu cách ly của Quân đội. Người cách ly được cácc chiến sỹ nhường cơm xẻ áo, cho mượn giường chiếu. Mọi yêu cầu về phòng, chống bệnh luôn theo đúng yêu cầu của Bộ Y tế, từ khoảng cách kê giường an toàn, vệ sinh, đến khử trùng khử khuẩn. Tiêu chuẩn ăn của công dân cách ly đã hơn tiêu chuẩn bộ binh. Chính vì vậy, nhân dân không phải lo gì cả, trong “cuộc chiến” này, đất nước sẽ không để ai ở lại phía sau. Người cách ly chỉ cách ly 14 ngày, người phục vụ phải tiếp tục cách ly sau đó và tiếp tục phục vụ những người cách ly đến sau. Sức người thì có hạn, từ sáng sớm đã phải chuẩn bị cơm nước đủ ba bữa cho nhân dân, rồi phục vụ từng nhu cầu của người dân từ việc nhỏ như đi mua hộ sim điện thoại hay tìm sữa nóng cho trẻ vào ban đêm. Các chiến sĩ phục vụ trong khu vực cách ly thật sự đang cống hiến một cách âm thầm, lặng lẽ, tận tuỵ và đầy trách nhiệm.
Vai trò của quân đội thể hiện hơn nữa ở việc ngăn chặn, chốt chặn các đường mòn, lối mở, các điểm chốt, các tuyến biên giới. Quân đội đã ngăn chặn, kiểm soát được tuyệt đối những người đi qua biên giới, những người vào Việt Nam bằng đường bộ, thực hiện công tác quân-dân y kết hợp rất hiệu quả, thể hiện ý chí của cả hệ thống chính trị trong cuộc chiến đấu và quyết tâm chiến thắng đại dịch, bảo đảm an toàn sức khỏe của nhân dân. Hình ảnh của bác sĩ trong quân đội, cán bộ quân đội trong những vùng tâm dịch đã mang niềm tin rất lớn, sự vững vàng tâm lý cho người dân.
Bên cạnh đó, quân đội còn thực hiện nhiệm vụ tiêu độc, khử trùng cho nhân dân. Binh chủng Hoá học hiện nay công nghệ hiện đại, trách nhiệm cao, lực lượng chính quy, chuyên nghiệp và đã có kinh nghiệm trong tiêu tẩy vụ cháy Công ty Rạng Đông. Vừa rồi, Binh chủng Hoá học tiếp tục làm rất tốt công tác phun hóa chất, tiêu tẩy, khử khuẩn khu vực các ổ dịch. Không những hiệu quả trong tiêu tẩy mà còn có hiệu quả trấn an lòng dân, giữ bình yên cho nhân dân.
Ngoài ra, các lực lượng của quân đội đã làm tốt công tác tuyên truyền cũng như đấu tranh chống thông tin xấu độc trên mạng internet. Còn trong quân đội chưa có một trường hợp nào chia sẻ hoặc xuyên tạc sai phạm trên không gian mạng bởi các chiến sĩ quân đội luôn xác định vai trò nòng cốt, lúc nào cũng gương mẫu đi đầu. Qua thời gian chống dịch, Quân đội ngày càng thể hiện vai trò vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước và sự an lành cho Nhân dân./.