Thứ Ba, 31 tháng 8, 2021

Xây dựng, phát huy sức mạnh “Thế trận lòng dân” trong xây dựng và phát triển đất nước

 

Xây dựng, phát huy sức mạnh “Thế trận lòng dân”  trong xây dựng và phát triển đất nước

Xây dựng "thế trận lòng dân", thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” là một nội dung quan trọng trong phần những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng. 

So với các kỳ đại hội trước, “thế trận lòng dân” được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Đó là sự khẳng định, bổ sung, thể hiện sự phát triển mới trong tư duy của Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Củng cố vững chắc “thế trận lòng dân” không chỉ tạo tiền đề cho nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đó còn là sự kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vào tình hình mới của đất nước.

Quân đội trong lòng dân

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “Trước các diễn biến phức tạp của tình hình, Quân đội luôn vững vàng, kiên định, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, bảo đảm môi trường 'trong ấm, ngoài êm' cho đất nước”. 

Phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, Quân đội luôn phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương chỉ đạo điều chỉnh thế bố trí chiến lược, huy động nguồn lực xây dựng khu vực phòng thủ, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Cán bộ, chiến sĩ gắn bó máu thịt với nhân dân; tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giúp dân xóa đói, giảm nghèo; phối hợp xử lý có hiệu quả các tình huống phức tạp, nhất là trên những địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh. 

Là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường, Quân đội luôn khẳng định vai trò của "Đội quân chiến đấu - Đội quân công tác - Đội quân lao động sản xuất". Đặc biệt, trong những nỗ lực phòng, chống đại dịch COVID-19, cán bộ, chiến sĩ toàn quân thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là Quân đội của nhân dân, Quân đội trong lòng dân.

Trước những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 tại các tỉnh, thành phía Nam, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã yêu cầu các đơn vị trong toàn quân phải chủ động tìm hiểu để hỗ trợ kịp thời những nhu cầu bức thiết của địa phương và người dân trong phòng, chống dịch, trên tinh thần bộ đội chủ động đến với dân, không chờ dân khó khăn phải tìm đến bộ đội. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng khẳng định: “Quân đội quyết tâm bằng mọi cách, bằng mọi biện pháp, sử dụng mọi lực lượng, với khả năng của mình và vượt cả khả năng của mình, quyết tâm cùng với nhân dân các địa bàn có dịch khắc phục dịch triệt để và đưa cuộc sống của người dân trở lại bình thường”.

Theo Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện đến nay, thực hiện Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự chỉ đạo của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ trong cả nước đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần yêu nước, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, vừa huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực, chủ động tham gia phòng, chống đại dịch COVID-19, hạn chế thấp nhất không để dịch bệnh lây lan trong cơ quan, đơn vị; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh tại nhiều nơi có ổ dịch lớn. 

Trước những diễn biến khó lường của dịch COVID-19, Quân đội là một trong những lực lượng trên tuyến đầu phòng, chống dịch, với hàng nghìn tổ, chốt Biên phòng duy trì những lá chắn nơi biên cương; với lực lượng quân y ngày đêm nỗ lực tham gia nghiên cứu sinh phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 và vaccine phòng COVID-19. Theo tiếng gọi từ trái tim, hàng ngàn cán bộ, y, bác sĩ, sinh viên quân y tình nguyện lên đường vào miền Nam tiếp sức cùng đồng bào chống dịch. Giữa tâm dịch, lực lượng Bộ đội Hóa học đã kịp thời có mặt, đảm bảo thực hiện công tác tiêu tẩy, khử trùng ở những ổ dịch, hạn chế mức thấp nhất sự lây lan của dịch bệnh trong cộng đồng. Trên khắp đất nước, các đơn vị của Quân đội được huy động trở thành những khu cách ly an toàn. Quân đội triển khai hàng trăm tổ cơ động phòng, chống dịch từ các bệnh xá quân y và đội y học dự phòng của các quân khu, quân đoàn...

Toàn quân đã triển khai hơn 1.900 tổ, chốt chống dịch với trên 13.000 lượt người, kiểm soát chặt chẽ tuyến biên giới trên đất liền và trên biển, ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép; phối hợp với địa phương tổ chức gần 5.000 tổ, chốt phòng dịch với sự tham gia của trên 22.000 cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ tại các địa bàn có dịch; triển khai 190 điểm cách ly phục vụ hơn 270.000 người; tổ chức 10 bệnh viện dã chiến truyền nhiễm, chuyển đổi công năng một bệnh viện đa khoa quân dân y thành bệnh viện điều trị bệnh nhân mắc COVID-19, thành lập một trung tâm điều trị bệnh nhân mắc COVID-19 vừa và nặng với hàng ngàn bác sĩ, nhân viên quân y.

Quân đội đã đóng góp 510 tỷ đồng ủng hộ Quỹ vaccine phòng COVID-19; điều động hàng ngàn xe ô tô vận chuyển vaccine đến các địa phương; khử khuẩn hàng ngàn khu vực, điểm có dịch. Nhiều đơn vị đã có cách làm sáng tạo, có các mô hình hay, thể hiện sâu sắc tình cảm tốt đẹp quân - dân "cá - nước" như: hiến máu tình nguyện, tổ chức các gian hàng 0 đồng, phối hợp giúp địa phương thu hoạch nông sản cho nông dân vùng có dịch...

Trước sự tàn phá khốc liệt của thiên tai, lũ lụt, gây nên thiệt hại lớn về tính mạng, tài sản của nhân dân, để lại hậu quả nặng nề đối với mọi mặt của đời sống xã hội, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không ngại gian khổ, kịp thời có mặt ở những nơi khó khăn nhất, hiểm nguy nhất để tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ. Tất cả những nỗ lực, đóng góp ấy một lần nữa khẳng định vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng - đội quân tuyệt đối trung thành, tin cậy, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần làm ngời sáng thêm phẩm chất cao đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", bộ đội của dân.

Cội nguồn sức mạnh đất nước 

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã cho thấy, khi toàn dân, toàn quân đồng lòng đều có thể chiến thắng mọi kẻ thù, từ giặc ngoại xâm cho đến “giặc đói, giặc dốt”. Ngay từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện và tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân và sự phát triển kinh tế - xã hội, sự đồng lòng ấy đã được hun đúc với quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, “chống dịch như chống giặc”. Cả hệ thống chính trị xác định việc tham gia phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ cấp bách, cần tập trung thực hiện một cách đồng bộ, với “mục tiêu kép”: vừa quyết liệt phòng, chống dịch hiệu quả, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Phát huy vai trò đại diện, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp từ Trung ương đến cơ sở cùng cả hệ thống chính trị đã và đang triển khai nhiều hoạt động tích cực, kịp thời, chung sức phòng, chống dịch. Trong những giai đoạn khó khăn vì ảnh hưởng của dịch bệnh, sự chung tay, đồng lòng của mỗi tổ chức, cá nhân đã cho thấy tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”, củng cố thêm sức mạnh, nguồn lực chống dịch của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, vẽ nên bức tranh đẹp về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về phòng, chống dịch COVID-19 và ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch, trong những ngày này, đồng bào cả nước đang hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch với tất cả sự sẻ chia, đồng cảm, dành những điều trân quý nhất cho đồng bào miền Nam. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có hướng dẫn và ra lời kêu gọi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố tăng cường tổ chức các cuộc vận động quyên góp, ủng hộ cho đồng bào ở vùng đang giãn cách xã hội, góp phần cùng chính quyền và các lực lượng chức năng đảm bảo an sinh xã hội. 

Bằng nhiều nghĩa cử cao đẹp, các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị, nhà hảo tâm đã quyên góp được lượng tài chính khá lớn ủng hộ công tác phòng, chống dịch và Quỹ vaccine phòng COVID-19, đến thời điểm này đạt khoảng 8.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tổng số tiền đã tiếp nhận và đăng ký ủng hộ qua Mặt trận các cấp từ ngày 1/5/2021 -15/8/2021 là 7.676 tỷ đồng. Như vậy, đã có trên 15.000 tỷ đồng được ủng hộ cho công tác phòng, chống dịch COVID-19. Các cấp Mặt trận đã sử dụng số kinh phí này để hỗ trợ mua trang thiết bị y tế, nhu yếu phẩm, trợ cấp an sinh, đảm bảo cho người dân ở những vùng giãn cách xã hội không thiếu ăn, thiếu nhu yếu phẩm. Rất nhiều người có hoàn cảnh khó khăn đã được trợ giúp tận nơi.

Để tiếp tục đồng lòng, chung sức cùng với cả nước phòng, chống đại dịch, ngày 25/8 vừa qua, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì hiệp thương, thống nhất với các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức triển khai thực hiện Chương trình "Triệu phần quà đại đoàn kết tiếp sức đồng bào miền Nam vượt qua đại dịch COVID-19". Ngay trong ngày đầu triển khai, Chương trình đã hỗ trợ cho TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đang thực hiện giãn cách xã hội tổng số 600.000 phần quà, tương đương 180 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, tại các địa phương chưa có dịch và ít bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhiều phong trào đã được phát động, đông đảo nhân dân đã tham gia ủng hộ lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Những đoàn xe với biểu ngữ, mang theo tình cảm hướng về miền Nam ruột thịt để tăng cường nhân lực, vật lực tiếp sức cho đồng bào chống dịch là hình ảnh thực sự rất xúc động về tinh thần đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, “lá lành đùm lá rách”.

Nhiều nhóm thiện nguyện, cá nhân chủ động đứng ra vận động quyên góp hoặc tự đóng góp nguồn lực của mình, trao tặng nhu yếu phẩm, trang bị vật tư y tế cho lực lượng đang làm nhiệm vụ ở tuyến đầu chống dịch; cũng như dành những phần quà giúp người nghèo, người lao động tự do vượt qua giai đoạn khó khăn của mùa dịch. Sự hỗ trợ về sức người, sức của của các tổ chức, cá nhân không những giúp chúng ta có thêm nguồn lực chống dịch, mà còn là biểu tượng sinh động cho tinh thần đại đoàn kết, tương thân tương ái đang lan tỏa rộng khắp trong toàn xã hội.

Khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của “lòng dân” và “thế trận lòng dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.

“Lòng dân” chính là cội nguồn sức mạnh của đất nước nói chung và sức mạnh quốc phòng nói riêng. “Thế trận lòng dân” chính là tinh thần yêu nước, tình đoàn kết gắn bó, khát vọng độc lập tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, nhân lên tạo thành nền tảng chính trị vững chắc, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, sẵn sàng được huy động nhằm thực hiện các mục tiêu trong từng giai đoạn của đất nước.

 

Chủ tịch nước trao Quyết định thăng quân hàm Thượng tướng cho Giám đốc Học viện Quốc phòng

 

Chủ tịch nước trao Quyết định thăng quân hàm Thượng tướng cho Giám đốc Học viện Quốc phòng

Sáng nay, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân đã trao Quyết định thăng quân hàm Thượng tướng đối với đồng chí Trần Việt Khoa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Giám đốc Học viện Quốc phòng.

Cùng dự buổi lễ có Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Đại tướng Phan Văn Giang; Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân.

Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc nước đánh giá, Thượng tướng Trần Việt Khoa là cán bộ quân đội có lập trường, quan điểm, tư tưởng kiên định, vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo cơ bản, chính quy; được rèn luyện, thử thách và trưởng thành từ cơ sở, qua chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ trên mọi cương vị công tác. Từ tháng 5/2016 đến nay, đồng chí Trần Việt Khoa là Giám đốc Học viện Quốc phòng.

Giao nhiệm vụ cho Thượng tướng Trần Việt Khoa, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu: “Trên cương vị Giám đốc Học viện Quốc phòng, đồng chí và tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện cần tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội, bảo đảm cán bộ không chỉ giỏi về quân sự mà còn am hiểu toàn diện các lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Cùng với đó là chủ động nắm chắc tình hình, nâng cao khả năng dự báo chiến lược, kịp thời tham mưu với Đảng, nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng những vấn đề Quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Chú trọng nghiên cứu các giải pháp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa, đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập của các thế lực thù địch, để phục vụ công tác đào tạo”.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học quốc phòng, quân sự, nghệ thuật quân sự và văn hóa quân sự Việt Nam; phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo, góp phần xây dựng, phát triển lý luận quốc phòng, quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam…

Chủ tịch nước tin tưởng và mong muốn Thượng tướng Trần Việt Khoa không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân; tiếp tục học tập, nghiên cứu, nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt, hoàn thành trọng trách quan trọng được Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó. Tiếp tục thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám đương đầu với khó khăn thử thách, dám hành động vì lợi ích chung và thực sự tiên phong, gương mẫu. Đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thật tốt mọi nhiệm vụ công tác của Học viện Quốc phòng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Quân đội và bồi dưỡng, giáo dục quốc phòng, an ninh của cả nước.

Với sự đoàn kết, thống nhất của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Quốc phòng, với phẩm chất năng lực của Thượng tướng Trần Việt Khoa, Chủ tịch nước tin tưởng đồng chí sẽ hoàn thành xuất sắc trọng trách được giao.

Nhân dịp này, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chuyển lời thăm hỏi của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến lực lượng quân đội, công an, y tế đang ngày đêm lăn xả để phòng chống đại dịch Covid-19. Trong đó, hàng vạn cán bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân của chúng ta đã lăn lộn cùng nhân dân, đi tận cùng đường, ngõ hẻm để lo cho dân. Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ lại một lần nữa tỏa sáng trong lúc hoạn nạn, dịch bệnh, được nhân dân tin tưởng, yêu mến./.

 

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP: SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN NHỮNG GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG TIẾN BỘ CỦA THỜI ĐẠI


Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại. Đó là văn kiện pháp lý thấm nhuần tư tưởng tiến bộ của thời đại, nêu cao nguyên tắc bình đẳng, dân chủ và các quyền cơ bản của con người, của dân tộc. Trân trọng những giá trị cao cả ấy, trong một thời đại mới và một cuộc cách mạng mới, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và hơn nữa phát triển các giá trị ấy ở hai nội dung cơ bản là quyền con người, quyền dân tộc và nguyên tắc chủ quyền nhân dân.


KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN DÂN TỘC


Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 được ra đời từ sau cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ Khai sáng, hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con người, quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân chủ, giá trị nhân văn cao cả về tự do, bình đẳng, bác ái.

Các bản Tuyên ngôn khẳng định những quyền con người cơ bản nhất đó là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền tư hữu tài sản. Đó là “quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi con người”(1).


Trong bản Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ, tác giả Thomas Jefferson khẳng định các nước thuộc địa phải có quyền là quốc gia tự do và độc lập và từ việc xóa bỏ quyền thống trị của thực dân Anh, cuộc đấu tranh vì nền độc lập của các bang thuộc địa ở Bắc Mỹ cũng nhằm tới tranh đấu cho các quyền tự nhiên của riêng mỗi con người. Với những giá trị to lớn như vậy hai bản Tuyên ngôn đánh mốc dấu son trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đó là bản Tuyên ngôn mang đậm giá trị nhân văn, nhân bản, là nền tảng để xây dựng các bản Hiến pháp dân chủ tiến bộ của nước Pháp, nước Mỹ sau đó.


Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nêu rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”(2).


Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam, từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những câu nổi tiếng nhất trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử đó với thái độ rất trân trọng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những giá trị nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở, mục tiêu cho cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng, thiêng liêng không ai có thể xâm phạm, là sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc, giải phóng con người mà các cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ đã giương cao.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và mở rộng, phát triển vượt bậc những giá trị của các bản Tuyên ngôn trước đó trong thời đại mới. Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, nguyên bản câu “tất cả mọi người” là “tất cả đàn ông” (All men). Nguyên bản của câu đó là đặt trong bối cảnh nước Mỹ những năm cuối thế kỉ XVIII khi chế độ nô lệ còn tồn tại, sự phân biệt và kỳ thị chủng tộc rất nặng nề, những người đàn ông có quyền mà Tuyên ngôn đề cập đến chỉ là những người đàn ông da trắng. Như vậy, các quyền cơ bản của con người, quyền vốn có ấy lại không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho đàn ông da trắng. Còn với Hồ Chí Minh, Người khẳng định một cách rõ ràng, quyền là dành cho “tất cả mọi người”, không phân biệt địa vị, thành phần, tôn giáo, giới tính, sắc tộc. Đó là sự mở rộng tuyệt đối, đem lại những giá trị to lớn và phù hợp với sự phát triển tiến bộ của nhân loại. 


Cũng từ việc khẳng định đạo lý và chính nghĩa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt giả dối, bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã khái quát một cách sâu sắc tội ác của thực dân Pháp trong gần 100 năm cai trị ở đất nước ta trên tất cả các mặt, đặc biệt là việc chà đạp, tước đoạt quyền các quyền tự nhiên của con người, của dân tộc. Và từ đó, Người khẳng định: trong thời đại mới, không chỉ chế độ phong kiến chuyên chế mà chủ nghĩa thực dân với bản chất tàn bạo của nó cần được xóa bỏ, để bảo vệ quyền và nhân phẩm của con người. Khi còn chủ nghĩa thực dân, còn tình trạng dân tộc này áp bức, nô dịch dân tộc khác thì chắc chắn quyền con người ở các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc bị chà đạp, không được ghi nhận và thực hiện.


Một điểm đáng chú ý nữa là từ quyền của con người, Hồ Chí Minh đã suy rộng ra quyền dân tộc “các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(3). Từ quyền con người, Người suy rộng ra quyền dân tộc cũng là quyền tự nhiên, thiêng liêng “là lẽ phải không ai chối cãi được”(4). Nếu như trong bản Tuyên ngôn của nước Mỹ đã đề cập đến cả quyền con người, quyền dân tộc, thì đến bản Tuyên ngôn của Việt Nam đã gắn kết hai phạm trù pháp lý cơ bản này trong mối liên hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người và ngược lại thực hiện quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Quyền con người cao nhất chính là được sống trong đất nước tự do, là công dân của một nước độc lập.


Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đã mở rộng nội hàm khái niệm quyền dân tộc cả chiều rộng và chiều sâu, mà các bản Tuyên ngôn trước chưa đề cập đến. Xuất phát từ hoàn cảnh nước Việt Nam thuộc địa vừa mới giành độc lập và bối cảnh lịch sử quốc tế bấy giờ, Hồ Chí Minh khẳng định: quyền dân tộc không chỉ là quyền dân tộc tự quyết, mà còn là quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Độc lập dân tộc đã gắn bó mật thiết với các nguyên tắc dân tộc bình đẳng và tự quyết, với quyền sống và quyền hạnh phúc của mỗi dân tộc. Hơn nữa, quyền độc lập, bình đẳng ở đây phải được xác lập trong mối quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt lớn nhỏ, mạnh yếu hay khác nhau về thể chế chính trị. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không còn chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà đó còn là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc nhỏ yếu đang chịu sự cai trị của chủ nghĩa thực dân.


Từ quyền con người suy rộng ra quyền dân tộc, Tuyên ngôn độc lập đã góp phần tạo lập và khẳng định một nền pháp lý và công lý mới của văn minh nhân loại, hướng tới công bằng, bình đẳng, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công trên bình diện quốc gia và quốc tế. Công lý ấy về sau không chỉ trở thành nguyên tắc lập hiến của Việt Nam, của nhiều quốc gia khác mà trở thành điều khoản pháp lý quốc tế khi nó đã được ghi vào Liên hợp quốc với các công ước quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia, về quyền độc lập dân tộc và quyền tự quyết.


Hai bản Tuyên ngôn nước Pháp, nước Mỹ đề cập đến quyền con người, quyền dân tộc là quyền thiêng liêng, là một tất yếu của tạo hóa. Nhưng là người dân của một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc rằng quyền thiêng liêng, vốn có ấy không phải tự nhiên mà có được, mà phải đổ máu, hy sinh, phải đấu tranh với quyết tâm “ thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(5). Đứng trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử, một dân tộc không biết đấu tranh cho độc lập, tự do thì cũng không xứng đáng được hưởng nền độc lập, tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(6). Dân tộc đó còn có quyết tâm sắt đá “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”(7).

Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập thực sự là một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, cũng như trong cuộc đấu giải phóng của các dân thuộc địa. Nếu hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người; thì Tuyên ngôn độc lập báo hiệu một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới; thời đại của các dân tộc bị áp bức, bóc lột giành lại quyền sống, quyền độc lập, tự do.


KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN NGUYÊN TẮC VỀ CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN


Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trong tác phẩm Khế ước xã hội của Jean Jacques Rousseau, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khẳng định chân lý: “Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân”(8). Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp đã chỉ ra “sự thiếu hiểu biết, hờ hững hoặc coi thường những quyền của con người chính là nguyên nhân duy nhất dẫn đến những tai họa của cộng đồng, và dẫn đến sự thối nát của các chính quyền... Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người”(9). Sự cần thiết của việc xây dựng chính quyền nhân dân, hoạt động vì mục tiêu cao nhất bảo vệ quyền con người, vì hạnh phúc con người đã được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử này. Hơn thế nữa “bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”(10).


Cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo không chỉ là cuộc cách mạng làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xóa bỏ xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp và của phát xít Nhật. Cuộc cách mạng ấy đồng thời thực hiện nhiệm vụ lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót gần 1.000 năm. Việt Nam từ một nước thuộc địa, phong kiến đã trở thành một nước độc lập, theo chế độ Dân chủ Cộng hòa.


Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ chủ thể của cuộc cách mạng chính là nhân dân, thành quả cách mạng đạt được do nhân dân làm ra và nhân dân là người bảo vệ thành quả đó: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”. Có thể nói, đến đây nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” với ý nghĩa nhân dân là chủ thể nước Việt Nam mới, của chế độ Dân chủ Cộng hòa đã được Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng. Hơn nữa, khái niệm nhân dân mà Hồ Chí Minh sử dụng không bó hẹp trong giai cấp, tầng lớp nào mà là mọi người dân Việt Nam yêu nước, không phân biệt giới tính, địa vị, tôn giáo, giai cấp.


Chế độ Dân chủ Cộng hòa được Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn là chế độ thực hành nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” một cách triệt để và thực chất. Đó là chế độ lập ra từ thành quả đấu tranh của nhân dân, được xây dựng theo ý nguyện của các tầng lớp nhân dân, hướng tới mục tiêu cao cả “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho nhân dân. Tư tưởng này của Người sau đó được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam do Người làm Trưởng ban soạn thảo: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 7 trong Hiến pháp ghi nhận quyền chính trị của công dân: Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình. Nhân dân có quyền quyết định những công việc trọng đại của đất nước cũng như bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra.


Có thể nói, ra đời sau hai bản Tuyên ngôn lịch sử của nhân loại hơn một trăm năm, trong bối cảnh lịch sử mới, bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam đã kế thừa, chắt lọc phát triển giá trị căn cốt, mang tính bền vững và phổ quát nhất của hai bản Tuyên ngôn trước đó. Với những giá trị đó, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ là lời tuyên bố độc lập, khai sinh cho một Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo đuổi mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mà còn đóng góp quan trong cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người và vì hạnh phúc của con người.


Hải Đăng ST

NHỮNG CHIÊU TRÒ NHÀM CHÁN CỦA CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN CỰC ĐOAN XUYÊN TẠC, BÔI NHỌ TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM

 


            Xuyên tạc tình hình, bôi nhọ tự do báo chí Việt Nam là một chiêu trò luôn được những tổ chức, cá nhân cực đoan, thiếu thiện chí, nhất là tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) thường xuyên sử dụng. Gần đây các trang mạng phi pháp hùa vào đăng tải, kèm theo “bình luận” của một số nhân vật “có uy tín” của RSF. Trong Bảng xếp hạng này, RSF đã xuyên tạc, bôi nhọ trắng trợn tình hình tự do báo chí ở Việt Nam, khi cho rằng Việt Nam là “một nhà tù lớn nhất trên thế giới dành cho các nhà báo và blogger”. Thực tế cho thấy, bất cứ tổ chức, cá nhân nào tôn trọng sự thật khách quan đều thấy rõ, ở Việt Nam tự do ngôn luận, tự do báo chí được Nhà nước bảo đảm ngày càng tốt hơn. Điều đó được thể hiện trên cả hai phương diện.

Về phương diện pháp lý, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng khung pháp luật về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế về quyền con người. Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin,…Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo đó, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật Báo chí, Luật An ninh mạng, Luật Tiếp cận thông tin và các luật, bộ luật có liên quan, quy định rõ về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo chí.

Trên thực tế, với khung pháp luật khoa học, phù hợp thực tiễn, rõ ràng, được Nhà nước ủng hộ, tạo điều kiện bảo đảm cho nền báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Đến tháng 01/2021, ở Việt Nam có đầy đủ các loại hình báo chí, với 779 cơ quan báo chí và hơn 21.000 người làm báo đã được cấp thẻ nhà báo. Các cơ quan báo chí thực sự là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, diễn đàn của nhân dân. Trong hành nghề, các cơ quan báo chí, nhà báo luôn tuân thủ đúng pháp luật, thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới, phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân.

Với tôn chỉ, mục đích của mình, các cơ quan báo chí không chỉ tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu trên mọi lĩnh vực của đất nước và thế giới, mà còn góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu thông tin, văn hóa lành mạnh của nhân dân; bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân; phát hiện, nêu gương “người tốt, việc tốt”, nhân tố mới, điển hình tiên tiến; phòng, chống những hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Không những vậy, báo chí còn góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam; mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc; tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, hợp tác, phát triển bền vững.

Hiện nay, một số hệ thống thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử đã được đưa vào vận hành, hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ đã thực hiện kết nối, liên thông gửi, nhận văn bản điện tử qua Trục liên thông văn bản quốc gia. Nhiều đơn vị đã áp dụng chữ ký số cá nhân trong gửi, nhận văn bản điện tử và xử lý công việc trên môi trường điện tử, như: Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Ủy ban Dân tộc,... tạo sự thay đổi về lề lối làm việc trong các cơ quan nhà nước cũng như việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.

Cùng với việc đảm bảo ngày càng tốt hơn về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, Nhà nước Việt Nam cũng kiên quyết trừng trị những tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề này để có những hành vi tung tin xấu độc, xuyên tạc, bôi nhọ, kéo bè, lập phái chống đối nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cơ quan chức năng Nhà nước Việt Nam đã điều tra, bắt giữ, truy tố một số đối tượng vi phạm pháp luật, tự xưng là “Nhà đấu tranh cho dân chủ”, “nhà báo tự do”,… dưới dạng là bloger chuyên viết bài, làm video clip,… với nội dung xuyên tạc sự thật, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,… hay là những lời “kêu gọi” lập đảng, lập hội… chống đối chế độ để tung lên mạng xã hội như (Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…).

Những việc làm đó đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, làm cho người dân vô cùng phẫn nộ. Vì thế, bắt giữ, điều tra, xét xử, truy tố những đối tượng như trên là việc làm cần thiết, vừa đúng quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế, vừa nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mọi tổ chức và cá nhân. Việc một số tổ chức, cá nhân cố tình xuyên tạc bóp méo sự thật và cho rằng Nhà nước Việt Nam điều tra, bắt giữ, truy tố những kẻ trên là “vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” và trở thành “một nhà tù lớn nhất trên thế giới dành cho các nhà báo và blogger” là hết sức phi lý, xuyên tạc trắng trợn tình hình tự do báo chí ở Việt Nam, chà đạp, bôi nhọ pháp luật Việt Nam, chuyên bảo kê cho tội phạm, không xứng với tôn chỉ mục đích, danh xưng mỹ miều “Phóng viên không biên giới”./.

X.THUY.T9

MỖI GIA ĐÌNH LÀ "PHÁO ĐÀI KIÊN CỐ" PHÒNG DỊCH

 


Giãn cách xã hội thời gian dài sẽ gây nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của người dân. Nhưng, để dịch bệnh được ngăn chặn thì mỗi gia đình phải tự ý thức, xây dựng thành “pháo đài, thành lũy kiên cố” trước dịch bệnh. Chỉ khi mỗi gia đình khỏe mạnh, vững chắc thì tổ dân phố, khu phố mới an toàn, khỏe mạnh và thành phố mới đẩy lùi được dịch bệnh.

Từ ngày 9-7, TPHCM thực hiện giãn cách lần thứ 2 theo Chỉ thị 16 để phòng chống dịch Covid-19 toàn thành phố. Đây là trận đánh quyết định để ngăn chặn dịch bệnh trước tình trạng số người nhiễm mỗi ngày lên 3 con số, 4 rồi 5 con số...

Chủ trương áp dụng Chỉ thị 16 trên 1 số tỉnh, thành phố lúc này là hết sức cần thiết nhưng thành công và ngăn chặn dịch bệnh đạt kết quả mức độ nào tùy thuộc vào ý thức chấp hành, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Trong đó, mỗi gia đình đóng vai trò quyết định.

Để Chỉ thị 16 đạt hiệu quả cao, mỗi thành viên trong gia đình phải tự giác tuân thủ 5K chứ không phải ra khỏi nhà mới áp dụng. Trong điều kiện tự do, khép kín hộ gia đình, việc thực hiện 5K tưởng chừng đơn giản nhưng rất khó thực hiện nếu thiếu ý thức tự giác. Sự cố gắng của mỗi người không chỉ giữ an toàn cho cá nhân mà còn bảo vệ “cộng đồng nhỏ” của mình tránh được nguy cơ lây lan chéo trong gia đình.

Thời gian thực hiện giãn cách kéo dài 15 ngày. Trong thời gian này, những nhu cầu thiết yếu về sinh hoạt, quan hệ cộng đồng vẫn diễn ra nhưng trong điều kiện tối thiểu. Mặc dù hiện nay các phương tiện thông tin hiện đại đã phổ biến trong mỗi gia đình nhưng nhu cầu ra ngoài để mua sắm vật dụng sinh hoạt, thăm hỏi người thân khi ốm đau, bệnh tật là khó tránh khỏi. Những lúc này, gia đình cần cân nhắc để phân công, bố trí người có ý thức, trách nhiệm cao mới được đi ra ngoài và nghiêm túc chấp hành phòng dịch.

Giãn cách xã hội thời gian dài sẽ gây nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của người dân. Nhưng, để dịch bệnh được ngăn chặn thì mỗi gia đình phải tự ý thức, xây dựng thành “pháo đài, thành lũy kiên cố” trước dịch bệnh. Chỉ khi mỗi gia đình khỏe mạnh, vững chắc thì tổ dân phố, khu phố mới an toàn, khỏe mạnh và thành phố mới đẩy lùi được dịch bệnh.

X.THUY.T9

 

VỮNG TIN VƯỢT KHÓ VÀ BỨT PHÁ

 


Hội nghị Trung ương lần thứ ba có vị trí hết sức quan trọng, được xem là hội nghị "đặt nền móng" cho các hoạt động toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) khóa XIII. Sở dĩ như vậy là vì Trung ương phát huy trí tuệ, đề cao trách nhiệm tập trung bàn thảo, ban hành thành công Quy chế làm việc của BCHTƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhiệm kỳ khóa XIII. Đây là việc làm cần thiết ngay đầu nhiệm kỳ mỗi khóa sau đại hội Đảng, nhằm cụ thể hóa Điều lệ Đảng; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, chế độ làm việc và phương pháp công tác của các cơ quan lãnh đạo Đảng; bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Với ý nghĩa đó, HNTƯ đã xác định quy định cụ thể, chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn; bảo đảm phát huy tốt hơn nữa dân chủ trong sinh hoạt Đảng, sinh hoạt của BCHTƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư;... đồng thời giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng; đổi mới, cải tiến chế độ, lề lối làm việc, phương pháp công tác của các cơ quan lãnh đạo của Đảng,... Đây là những cơ sở quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Đảng, tăng cường sức mạnh, kỷ luật, kỷ cương, phát huy dân chủ, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Hội nghị Trung ương lần này cũng dành nhiều thời gian, tâm huyết tập trung thảo luận, quyết nghị các vấn đề liên quan đến yếu tố tạo nên sức mạnh cho Đảng-đó là kỷ luật của Đảng. Trung ương không chỉ quyết định các hình thức kỷ luật xứng đáng, nghiêm khắc đối với những đảng viên cụ thể, mà tập trung góp ý, hoàn thiện Quy định thi hành Điều lệ Đảng và Quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng nhiệm kỳ khóa XIII. Để làm được điều đó, Trung ương đã nghiên cứu kỹ và có ý kiến, góp ý vào dự thảo các quy định về những nội dung mà qua thực tiễn thi hành kỷ luật còn có vướng mắc, bất cập, nhất là các vấn đề cụ thể phát sinh từ thực tiễn. Công việc này được xem như việc lắp đặt những viên gạch móng cho công trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng sắp tới; là căn cứ bất biến giúp thanh lọc, loại bỏ “sâu mọt” trong chính hàng ngũ của Đảng, giúp Đảng ta ngày càng mạnh hơn, trong sáng thêm. Cùng với đó, HNTƯ lần thứ ba cũng đã hoàn thành một phần việc đặc biệt hệ trọng, là tiếp tục kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo của các cơ quan nhà nước nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV sắp tới. Phần việc này được Trung ương tiến hành sâu kỹ với thái độ nghiêm túc, đề cao trách nhiệm chính trị của từng đống chí ủy viên Trung ương Đảng, trên cơ sở kế thừa kết quả công tác nhân sự được quyết nghị tại HNTƯ lần thứ hai khóa XIII.

Cần thấy rằng, HNTW lần này diễn ra trong điều kiện dịch Covid-19 bùng phát phức tạp ở nhiều địa phương. Vấn đề được Trung ương đặt ra trước mắt là tập trung lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục chung sức đồng lòng, vừa chủ động, tích cực phòng, chống dịch; vừa nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), cán đích các mục tiêu năm 2021, tạo đà cho bước bứt phá đổi mới. Trên tinh thần đó, Trung ương thảo luận sâu sắc, toàn diện các nội dung của Kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 5 năm (2021-2025) và Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm (2021-2030). Đây là những kế hoạch hết sức quan trọng, rộng lớn, có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH do Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Với tinh thần trách nhiệm cao, thành công của HNTƯ lần thứ ba đã tạo động lực và quyết tâm mới trong điều kiện đất nước đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Theo đó, dù đã gặt hái được một số thành quả trên nhiều lĩnh vực và Việt Nam được bạn bè quốc tế ca ngợi, đánh giá cao bởi thành công trong phòng, chống, kiểm soát dịch Covid-19... thế nhưng, 6 tháng đầu năm 2021, KT-XH đất nước vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra; dịch bệnh có thể còn tiếp tục kéo dài, thậm chí nguy hiểm, lan rộng nhanh hơn. Bởi thế, các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị nhất định không được thỏa mãn dừng lại, mà cấp thiết triển khai thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp của Trung ương với tinh thần khẩn trương, quyết liệt, trách nhiệm cao nhất.

Ngay sau hội nghị này, các cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tổ chức thực hiện thật tốt các nghị quyết, kết luận của HNTƯ và các nghị quyết khác của Trung ương, của Quốc hội, Chính phủ; nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra. Trong lĩnh vực kinh tế, các cấp cần tập trung quán triệt, tạo sự thống nhất cao về những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ chủ yếu, một số chỉ tiêu cơ bản; đặc biệt là các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể, sát hợp với thực tế, có tính đột phá, khả thi cao, bảo đảm thực hiện thành công các kế hoạch KT-XH 5 năm, 10 năm.

Với truyền thống vẻ vang, trách nhiệm chính trị cao cả, cán bộ, đảng viên trong toàn đảng nói chung và Đảng bộ Quân đội nguyện mang hết tài năng, trí tuệ, gương mẫu đi đầu trong triển khai thực hiện hiệu quả nghị quyết, kết luận của HNTƯ lần thứ ba, khóa XIII; ra sức giữ vững môi trường hòa bình, điều kiện an toàn để đất nước phát triển; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; góp phần tích cực và quan trọng vào cuộc chiến đẩy lùi dịch Covid-19... Đó chính là cách mà Quân đội nhân dân Việt Nam sớm đưa nghị quyết, kết luận của Trung ương vào cuộc sống.

 

X.THUY.T9

Những chiêu trò mới của Việt TâN, âm mưu "đấu tranh bất bạo động", thực hiện “cách mạng đường phố”

 


Một trong những phương thức, thủ đoạn hoạt động của Việt Tân là kích động biểu tình phá rối an ninh, tập dượt cho “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” ở Việt Nam.

Theo đó, Việt Tân triệt để lợi dụng tâm lý bất bình của quần chúng nhân dân về một số vụ việc tiêu cực trong nước, các sự kiện nóng liên quan chủ quyền lãnh thổ…, để kích động thanh niên, sinh viên tham gia các cuộc tuần hành, biểu tình. Chúng đưa người thâm nhập vào số đi khiếu kiện, thậm chí tài trợ tiền đề kích động họ tham gia các hoạt động do Việt Tân tổ chức, hòng biến những vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai thành các cuộc biểu tình quy mô lớn; xây dựng và tán phát kịch bản “lật đổ chế độ tại Việt Nam”. Đồng thời, chỉ đạo các đối tượng ở trong nước vẽ sơ đồ, quay phim, chụp ảnh các mục tiêu trọng điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội…, phục vụ cho các mưu đồ chống phá.

Gần đây, các vụ biểu tình, tụ tập đông người phá rối an ninh do Việt Tân kích động không chỉ gia tăng về số lượng mà còn phức tạp về tính chất và mức độ nguy hiểm. Số cầm đầu Việt Tân đánh giá “Dân chủ, nhân quyền, đối đầu bất bạo động là mũi tấn công trực diện Cộng sản; nhưng để tạo biến động, lôi kéo quần chúng vào cuộc thì buộc phải dùng vũ lực; các vụ cháy, nổ, sẽ phá vỡ bức tường sợ hãi trong quần chúng, đẩy chính quyền vào thế bị động”.

Một vài vụ điển hình đã được Báo Công an nhân dân đưa tin như: Vụ Nguyễn Hữu Thiên An (Khánh Hòa) âm mưu đặt bom đánh phá tại quận 1, TP Hồ Chí Minh; Trần Thị Nga (Hà Nam) tán phát hàng nghìn bài viết, hàng chục video clip trên internet tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng nhân dân biểu tình nhưng đã bị cơ quan Công an kịp thời phát hiện, đấu tranh, bắt giữ và xử lý.

Một vụ việc khác đã bị lực lượng an ninh phát hiện và xử lý xảy ra ngày 17-4-2012, Việt Tân chỉ đạo Nguyễn Quốc Quân, “Ủy viên Trung ương Việt Tân” sử dụng tên Nguyen Richard nhập cảnh vào Việt Nam mang theo máy tính xách tay, sử dụng nhiều tài liệu và tiền với ý đồ kích động biểu tình, tổ chức rải truyền đơn phá hoại dịp lễ 30-4, tổ chức thông tin ra bên ngoài để tuyên truyền, xuyên tạc chống Nhà nước Việt Nam như lần nhập cảnh vào Hà Nội tháng 7-2011.

Cũng vào dịp lễ kỷ niệm ngày thống nhất đất nước năm 2019, Việt Tân âm mưu cử các thành viên nhập cảnh vào Việt Nam, thực hiện rải truyền đơn phản động tại TP Hồ Chí Minh và khu vực chùa Ba Vàng, TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, nhưng toàn bộ hoạt động của chúng đều nằm trong tầm kiểm soát của cơ quan an ninh khiến số đối tượng bên ngoài không thể xâm nhập về nước, số cơ sở trong nước hoang mang không dám thực hiện.

Lập hội, nhóm trá hình, hậu thuẫn các phần tử chống đối trong nước

Không chỉ dừng lại ở đó, tổ chức này còn thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ cho số đối tượng chống đối trong nước hoạt động khủng bố, phá hoại.

Hằng năm, Việt Tân đã vận động và gửi về nước hàng triệu USD cùng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như: Máy tính xách tay, máy ảnh kỷ thuật số, điện thoại thông minh, máy ghi âm từ xa… cho các đối tượng trong nước tiến hành hoạt động kích động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do sự hậu thuẫn, hỗ trợ của Việt Tân nên số chống đối trong nước hoạt động chống phá ngày càng quyết liệt, nguy hiểm, thậm chí một số đối tượng coi hoạt động chống đối theo chỉ đạo của Việt Tân là một “nghề” kiếm sống.

Theo phản ánh của Báo Công an nhân dân, ăn theo Việt Tân, nhiều hội, nhóm trá hình đã được thành lập như: Hội cựu lao động Đài Loan do Trần Thị Nga thành lập theo chỉ đạo của Nguyễn Văn Hùng, thành viên Việt Tân ở Đài Loan; Hội nhóm dân oan Hà Nam do Trần Thị Nga thành lập tháng 12-2013; Công đoàn doanh nhân, trí thức Thái Hà do Lê Quốc Quân, Nguyễn Hữu Vinh và Trần Thị Hường và một số đối tượng khác cầm đầu; Văn phòng truyền thông Công giáo và Quỹ Trái tim yêu thương, thành lập năm 2014.

Để dễ bề chỉ đạo số đối tượng trong nước, Việt Tân đưa người tham gia, tài trợ tiền cho các hội, nhóm để chi phối hoạt động. Điển hình như “Hội anh em dân chủ” có Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Bắc Truyển thường xuyên nhận tài trợ của Việt Tân. Đồng thời, là đầu mối tuyển chọn người cho Việt Tân đưa ra nước ngoài đào tạo, huấn luyện. Trong số các thành viên được Việt Tân huấn luyện có thể kể đến như Lê Thu Hà, Hoàng Chí Hiếu.

Đầu năm 2015, được sự giúp đỡ của Việt Tân, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày) cùng một số đối tượng đã khôi phục “Câu lạc bộ nhà báo tự do” thành một tổ chức phi chính chủ để triển khai hoạt động chống phá Việt Nam với cơ cấu gồm Ban giám đốc, ban biên tập, bộ phận xây dựng website, truyền thông (do Phạm Đắc Hồng Thuận phụ trách), giao tiếp cộng đồng, thủ quỹ. Ngoài ra còn có “Phong trào chống tham nhũng” có Trần Thị Nga (Hà Nam), Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Anh Tuấn (Thái Bình)..., đều là cơ sở của Việt Tân.

Móc nối đưa người ra nước ngoài đào tạo, phát triển lực lượng

Lợi dụng nhu cầu muốn ra nước ngoài học tập của người dân, Việt Tân núp dưới danh nghĩa tài trợ học bổng, từ thiện, mời tham dự hội thảo, du lịch..., để móc nối, lôi kéo thanh niên, sinh viên, trí thức, luật sư, phóng viên, người khiếu kiện... ra nước ngoài. Sau đó, dùng thủ đoạn lừa mị, khống chế, bắt điền đơn gia nhập tổ chức, tiến hành huấn luyện kỹ năng hoạt động, bảo mật máy tính, cách chế tạo bom xăng..., rồi tung về nước rải truyền đơn, treo khẩu hiệu, gây cháy nổ tại các địa điểm công cộng, gây hoang mang trong nhân dân.

Năm 2019, dưới danh nghĩa từ thiện, một tổ chức ngoại vi của Việt Tân là VOICE (Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment) - “Sáng kiến vì lương tâm người Việt hải ngoại”, thông qua cái gọi là “Học bổng xã hội dân sự VOICE” mời gọi thanh niên tham gia và cam kết “giúp các học viên trở thành những công dân tích cực, giàu tinh thần cộng đồng, và được trang bị các kiến thức nền tảng để có thể tham gia vào các hoạt động xã hội”. Vậy nhưng đằng sau những lời tuyên bố đầy tốt đẹp lại là những hoạt động chống đối nguy hiểm.

Trong khoá đào tạo của mình, trước hết VOICE truyền bá những cách nhìn nhận sai lệch về tình hình chính trị, xã hội tại Việt Nam, hình thành tư tưởng chống đối chính quyền cho học viên. Sau đó, VOICE tiến hành tập huấn, trang bị, huấn luyện cho học viên các nội dung về đấu tranh bất bạo động đối với chính quyền, đặc biệt là việc sử dụng chiêu bài tự do, nhân quyền để tiến hành chống phá. Ngoài ra, VOICE còn tổ chức cho học viên tiếp xúc với các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị để học hỏi phương thức hoạt động, thậm chí là cả cách ứng phó với cơ quan chức năng. Các “sản phẩm” sau đào tạo được tung về nước, trở thành hạt nhân tập trung lực lượng tiến hành chống phá chính quyền.

Và cũng chính VOICE từng thông qua một số tổ chức phi chính phủ lấy danh nghĩa từ thiện để tài trợ 30 ngàn đô la Canada để mua 100 chiếc xe lăn trao tặng cho số thương, phế binh quân đội Việt Nam cộng hòa. Đáng chú ý, tổ chức này và “Hội đồng liên tôn” còn thành lập các “Chi hội thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” nhằm tập hợp số thương, phế binh thuộc chế độ ngụy quyền Sài Gòn vào các “Chi hội Tôn giáo”, chờ “cơ hội” để “xuống đường đấu tranh” chống chính quyền.

Một thủ đoạn nham hiểm khác của Việt Tân là sử dụng các đối tượng chống đối trong nước làm bằng chứng sống, cung cấp những thông tin sai lệch về tình hình Việt Nam cho chính giới một số nước; một số hãng thông tin quốc tế, xuyên tạc, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Qua đó, kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; đồng thời khuếch trương thanh thế, chứng tỏ thực lực của Việt Tân ở nước ngoài, gây dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống phá Việt Nam.

Những đối tượng thường được Việt Tân nhắm tới là số thân nhân đặc biệt như luật sư, trí thức, văn nghệ sĩ, giảng viên một số trường đại học trong nước, số cốt cán của các hội, nhóm chống đối trong nước; thân nhân đối tượng đang bị bắt; các blogger thường xuyên viết bài chống Đảng, Nhà nước và số chức sắc, tín đồ chống đối trong tôn giáo. Đồng thời, Việt Tân sử dụng danh nghĩa của một số tổ chức nước ngoài mời các đối tượng trong nước; chỉ đạo số trong nước xuất cảnh sang Campuchia hoặc Thái Lan bằng đường bộ, sau đó mới xin thị thực nhập cảnh vào nước thứ ba.

Phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và xã hội

Ông Nguyễn Thanh Tú là con trai của ký giả Ðạm Phong - một trong năm ký giả người Mỹ gốc Việt đã bị giết hại tại Mỹ trong những năm 80 của thế kỷ trước khi chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân đã khẳng định: Hồi nhỏ, tôi theo bố làm báo. Bố tôi bảo làm báo để "làm người", song tôi theo ông để học hỏi, và vì thương bố. Lúc đó tiếng Việt của tôi không tốt, ngồi bên bố và bạn bè, họ nói các vấn đề to tát quá, tôi càng không hiểu. Trước khi bố tôi bị giết hại, tôi đã chứng kiến nhiều việc lắm, có việc đến hôm nay tôi vẫn không đủ can đảm để nói ra. Trước khi chết, bố tôi có hướng dẫn tôi rất kỹ càng. Một trong những việc đó là ông nói về "băng đảng Việt Tân", ông bảo rồi đây họ sẽ "Việt Tân hóa truyền thông hải ngoại", họ sẽ biến truyền thông hải ngoại thành bộ máy tuyên truyền cho họ. Ðiều bố tôi lo nhất là đồng bào trong nước không có điều kiện tìm hiểu nên không biết mặt thật của "Việt Tân".

Việt Tân còn triệt để lợi dụng sự phát triển của Internet, nhất là mạng xã hội để tuyên truyền, công kích, lôi kéo người dân tham gia các hội, nhóm trá hình trên không gian mạng. Với chiêu bài “phản biện xã hội”, đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền”, xây dựng “xã hội dân sự”, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ… nhưng thực chất là để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng, thái độ thù địch của thanh niên, sinh viên với đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức.

Theo Báo Công an nhân dân, Việt Tân đã cho lập mới hơn 300 tài khoản và nhiều diễn đàn kín, kết hợp với những diễn đàn trước đó như “Canh Tân”, “Bạn của Việt Tân”, “Bạn của Nguyễn Quốc Quân”... duy trì gần 1.000 tài khoản mạng xã hội, đăng tải, chia sẻ những bài viết, thông tin tiêu cực trong xã hội để thổi phồng, phá hoại tư tưởng. Ý đồ của chúng là biến mỗi thành viên, cảm tình viên của tổ chức trở thành một tuyên truyền viên, một kênh thông tin hữu hiệu để tuyên truyền, lan tỏa những “thông điệp” của Việt Tân trong cộng đồng người thân và bạn bè của đối tượng. Từ đó, tác động tư tưởng, phát hiện đầu mối giới thiệu cho tổ chức thông qua các trang facebook.

Việt Tân đồng thời duy trì các trang web, đài phát thanh và lập bản tin..., cung cấp tài chính, phương tiện cho số đối tượng trong nội địa của chúng thu thập thông tin, viết bài công kích trực tiếp lãnh đạo Đảng Nhà nước; khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, tập trung khai thác những sự kiện được dư luận quan tâm như vụ cây xanh tại Hà Nội, vấn đề Biển Đông, sự kiện công nhân đình công..., lồng ghép thông tin xuyên tạc tình hình, bôi nhọ, vu cáo các cơ quan chức năng của ta.

Bằng cách liên kết với các đối tượng như Đoàn Viết Hoạt (cầm đầu Họp mặt dân chủ) và Nguyễn Văn Đài (cầm đầu Hội anh em dân chủ), từ tháng 10-2014 đến nay, Việt Tân đã tổ chức các khóa học với trên 55 đối tượng tham dự vào các tối thứ 4 và thứ 7 hằng tuần. Chúng lập ra nhóm học tập dân chủ online; tổ chức huấn luyện 15 nội dung liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân quyền như: Dân chủ là mục tiêu hàng đầu của đấu tranh; từ độc tài đến dân chủ trên thế giới..., điều hành nhóm là số cầm đầu “cốt cán” của Việt Tân như Hoàng Cơ Định, Nguyễn Quốc Quân, Đỗ Đăng Liêu, Nguyễn Đỗ Thanh Phong đều là “ủy viên trung ương”.

Không dừng lại ở đó, chúng liên kết, tài trợ cho Dòng chúa cứu thế mở các văn phòng truyền thông công giáo tại ba miền Bắc, Trung, Nam để tuyên truyền chống chế độ; mở chiến dịch tiếp cận internet tại các vùng ở Tây Nguyên, Tây Bắc nhằm trang bị kiến thức, huấn luyện cách thức sử dụng Internet cho đồng bào dân tộc để dễ dàng tuyên truyền, phát triển lực lượng và kích động họ tham gia các hoạt động tụ tập, gây rối an ninh trật tự tại địa phương, tạo ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ bên ngoài, năm 2015, đúng dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, các đối tượng đã soạn thảo và tán phát vào trong nước “bản tuyên bố” có tựa đề “40 năm đã qua” và bộ phim tài liệu “Những ngày cuối cùng ở Việt Nam” với nội dung xuyên tạc, phủ nhận vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đồng thời kêu gọi số chống đối tham gia ký tên và tán phát rộng rãi trong cả nước.

Ngang nhiên và liều lĩnh hơn, các đối tượng còn phát động trên mạng Internet phong trào “Tôi không thích Đảng Cộng sản Việt Nam”; cuộc thi “Cộng sản và tôi”; tổ chức các buổi “hội luận” trên mạng Internet với sự tham gia của số cầm đầu như Lý Thái Hùng, Đỗ Hoàng Điềm và số đối tượng trong nước. Việt Tân còn chỉ đạo các đối tượng trong nước vận động mọi người trong nước tham gia các buổi “tưởng niệm”, xuyên tạc lịch sử năm 1975.

Hiện nay, Việt Tân đang ráo riêng kích động các hoạt động chống phá bầu cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV, hậu thuẫn các đối tượng phản động, cơ hội chính trị tự ứng cử để phá hoại bầu cử.

Các vị trí chủ chốt của Việt Tân đều có nguồn gốc liên quan đến dòng họ của Hoàng Cơ Minh. Sau khi Hoàng Cơ Minh chết tại Lào, cái gọi là “Mặt trận” giải tán, Hoàng Cơ Định chính là người nắm quỹ tài chính, điều hành hoạt động của Việt Tân từ đó đến nay. Hoàng Tứ Duy – kẻ xưng là người phát ngôn chính thức của Việt Tân lại chính là con trai của Hoàng Cơ Định. Đỗ Hoàng Điềm - kẻ tự xưng là Chủ tịch Việt Tân là cháu vợ của Hoàng Cơ Định...

Anh Nguyễn Thanh Tú cho biết: Nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đã phải đóng góp biết bao nhiêu tiền, nhưng băng đảng "Việt Tân" lấy cả chục triệu USD của chung để biến thành của riêng. Tôi muốn tuổi trẻ ở Việt Nam - trong đó có những người rất dễ trở thành “con mồi” của băng đảng Việt Tân, thấy rằng đó là một tổ chức băng đảng chứ không phải đảng phái chính trị gì cả.

Mặc dù Việt Tân và các thế lực thù địch luôn tìm cách chối bỏ bản chất khủng bố, chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nhưng theo các quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế, đủ cơ sở khẳng định Việt Tân chính là tổ chức khủng bố. Bộ Công an khẳng định: Việt Tân là tổ chức khủng bố, do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của Việt Tân; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do Việt Tân tổ chức; hoạt động theo sự chỉ đạo của Việt Tân… sẽ đồng phạm tội khủng bố, tài trợ khủng bố và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam./.

X.THUY.T9