Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌNH BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌNH BANCHUYENNUOC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG SÁNG TẠO, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Thực tiễn những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 95 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong 38 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phản ánh cả tầm tư tưởng, lý luận và thực tiễn, làm sáng rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong bài viết của mình, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra những lý lẽ sâu sắc, luận cứ thuyết phục về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, là giải pháp đúng đắn để mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Kết thúc bài viết đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học.”.

Qua thực tiễn lịch sử đã chứng minh, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính khoa học, sự kế thừa và phát triển không ngừng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được hiểu theo nghĩa chung nhất là học thuyết khoa học về quy luật  phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại mọi sự bất công, nô dịch, áp bức; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm triết học, kinh tế chính trị, xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong đời sống chính trị của nhân loại. Đây là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, điều kiện và phương pháp giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công và đói nghèo trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó hình thành nên một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và lãnh đạo Đảng ta, dân tộc ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giành nhiều thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp đổi mới. Tổng hợp tri thức văn hóa phương Đông và phương Tây, tư tưởng Hồ Chí Minh đạt tới tầm cao trí tuệ của thời đại, thấm đậm bản sắc văn hóa và bản lĩnh của dân tộc, có sức sống mạnh mẽ, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được hoàn thiện, phát triển cùng với những thắng lợi và những bước tiến lên của cách mạng nước ta, của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, cũng là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện toàn cầu hóa. Từ thành quả và kinh nghiệm trong tổ chức lãnh đạo cách mạng, Văn kiện trình đại hội XIII của Đảng, thống nhất quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [].

Nhìn lại lịch sử, từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời cho đến nay, luôn phải đương đầu với những cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các lập trường, tư tưởng đối lập nhau. Đặc biệt, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt.

Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 - 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp

với xu thế phát triển của lịch sử”.

Với Việt Nam, sự vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân cơ bản của thắng lợi vĩ đại trong 2 cuộc kháng chiến, cũng như những thành tựu to lớn trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Thành quả đó đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Sự nghiệp đổi mới của nước ta đến nay đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử cũng chính nhờ chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thực tiễn 38 năm thực hiện chính sách đổi mới vừa qua cho thấy, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới, lại đặt ra cho đất nước những cơ hội lớn và thách thức mới. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển và bảo vệ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và các điều kiện cụ thể trong nước hiện nay.

Tư tưởng của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh ngay từ khi xuất hiện đã bị các thế lực thù địch và phản động không ngừng xuyên tạc, phê phán, bác bỏ và chống phá quyết liệt. Các thế lực thù địch vẫn đang dùng “trăm phương nghìn kế” để bôi nhọ, phủ định sạch trơn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tuyên truyền rằng tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cách ngày nay đã quá xa, những tư tưởng này không còn phù hợp để lý giải một xã hội phát triển như hiện nay. Hơn nữa, họ còn cho rằng cả C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây, vì vậy, không thể hiểu và không thể giải quyết vấn đề của phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam. Lập luận này sai về cả lôgíc lẫn lịch sử. Thực tiễn cho thấy, không phải cứ thời gian càng trôi xa thì học thuyết, tư tưởng càng mất đi giá trị. Có những học thuyết, tư tưởng càng qua thời gian thì càng khẳng định giá trị của mình.

Thứ hai, tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh với hai thái cực khác nhau: một là, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ nhắc lại tư tưởng của C.Mác, PhĂnghen, V.I.Lênin và các nhà tư tưởng vĩ đại khác chứ không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống; hai là, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản. Cả hai quan niệm này đều sai, vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống dân tộc và các giá trị tinh hoa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh không phải là những luận điểm sáo rỗng, giáo điều mà đã chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, thực tiễn, trực tiếp chỉ đạo thành công của cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã hết vai trò lịch sử. Đảng cầm quyền là không chính đáng, vì không được bầu lên; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông Âu,... Chúng cố tình quên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành chính quyền từ tay ngoại xâm để xây dựng một nước Việt Nam mới độc lập, tự chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong xây dựng đất nước. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, đời sống của người dân được cải thiện và nâng cao… là minh chứng sinh động nhất cho việc Đảng là đại diện cho ý nguyện và lợi ích của nhân dân.

Thứ tư, phủ nhận mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cho rằng tất yếu phải đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản. Những luận điệu đó bắt nguồn từ việc vô tình hoặc cố ý lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất, giữa tính đặc thù với tính phổ biến, giữa cái riêng với cái chung. Họ đã rêu rao tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất để phát triển, cố tình biến những khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản thành ưu điểm, thần thánh hóa chủ nghĩa tư bản; khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội, quy kết thành bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Từ thực tiễn trên cho thấy, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới, lại đặt ra cho đất nước những cơ hội lớn và thách thức mới. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển và bảo vệ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và các điều kiện cụ thể trong nước hiện nay.

Phương pháp tốt nhất để phát triển, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là tiếp tục phát triển hệ thống các nguyên lý lý luận trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.

Trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề căn bản nhất trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, như: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; phát huy dân chủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới; phát triển văn hóa, con người và nguồn lực con người; đặc điểm nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0)...

Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính nguyên tắc, đây là yêu cầu chính trị hàng đầu đặt ra đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thể hiện tập trung nhất của giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường cách mạng mà Đảng ta, dân tộc ta đã lựa chọn. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc của đổi mới, đồng thời cũng là chủ trương, quan điểm của Đảng ta trong hội nhập quốc tế, mà thực chất là sự kiên định mục tiêu lý tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái, bảo vệ tính khoa học, trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm chung đến những luận điểm cụ thể, trên từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường hơn sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất cúa các cấp ủy đảng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; bảo đảm các hoạt động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng trong quan điểm chính trị, sâu sắc về tính khoa học, hiệu quả trong phương pháp đấu tranh. Cần huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông, báo chí ... tiến công chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình thức, để kịp thời định hướng đấu tranh. Quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, điều kiện, vật chất cho các hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Trong tiến trình lãnh đạo đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta, Nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó là một minh chứng sinh động, khẳng định Đảng ta đã tuyệt đối trung thành và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường mà chúng ta đang đi tới là không dễ dàng, bằng phẳng mà phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng chúng ta luôn tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được hiện thực hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận sẽ sớm bị vạch trần bởi tính chất phản khoa học, phản cách mạng của chúng./.

 

Âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch phủ nhận đường lối quốc phòng toàn dân

Đường lối quốc phòng toàn dân (QPTD) là sự nhận thức nhất quán của Đảng ta nhằm xây dựng nền QPTD vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, thời gian gần đây các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch tung ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD một cách lạc lõng. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD là nhiệm vụ cấp bách trong tình hình hiện nay.

Mục đích xuyên suốt của các thế lực thù địch là xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; phủ nhận tính chất “tự vệ chân chính” trong đường lối QPTD của Đảng ta; hướng lái Việt Nam theo quỹ đạo của chính sách quốc phòng tư sản. 

Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD trước hết xuất phát từ các thế lực thù địch, phản động nước ngoài. Chúng vừa trực tiếp tấn công, xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD bằng các cơ quan, tổ chức của mình, vừa gián tiếp nuôi dưỡng, ủng hộ, bảo kê các tổ chức, cá nhân phản động ở trong và ngoài nước.

Thứ hai là các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, chủ yếu là số ngụy quân, ngụy quyền. Chúng vừa tập hợp lực lượng, sử dụng chiêu bài tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD; vừa móc nối, kích động các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước cản trở, phá hoại các dự án kinh tế kết hợp quốc phòng. Thứ ba là đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị ở trong nước với bản chất “gió chiều nào xoay chiều ấy”, khi cách mạng gặp khó khăn, thử thách, họ quay sang chống Đảng và xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD.

Nội dung các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD thể hiện ở nhiều khía cạnh, màu sắc, tính chất, mức độ khác nhau. Chúng cho rằng, Đảng ta tuyệt đối hóa vị trí, vai trò nền QPTD và mâu thuẫn trong chính nhận thức của mình. Chúng đã viện dẫn Văn kiện Đại hội VIII trước đây: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”. Bên cạnh đó, chúng cắt cúp nhận định về xu thế trong quan hệ quốc tế theo Văn kiện Đại hội XIII: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn” là không phù hợp, cho nên không cần khẳng định vị trí của QPTD nữa (!)

Chúng xuyên tạc, phủ nhận các đặc trưng cơ bản nền QPTD, coi chủ trương xây dựng nền QPTD của Việt Nam là “đe dọa hòa bình các nước trong khu vực”. Ở thái cực khác, chúng “khuyên” Việt Nam từ bỏ “4 không” trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Chúng phủ nhận nền QPTD ở nước ta “không phải vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành”, “không đếm xỉa đến lợi ích chung của dân tộc”, mà “vì lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Nguy hiểm hơn, chúng phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD, tức là phủ nhận tính chính danh, chính pháp của hoạt động trọng yếu này.

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THIẾT KẾ LẠI THỂ CHẾ PHÂN QUYỀN


Để hiện thực hóa mô hình phân quyền bổ trợ, cần tái cấu trúc toàn diện hệ thống pháp luật và thiết kế thể chế đa cấp, theo ba định hướng lớn:

(1) Sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương theo hướng phân tầng rõ ràng giữa các cấp chiến lược – hành chính tổng hợp – phục vụ dân sinh. Luật cần khẳng định rõ nguyên tắc bổ trợ, quyền tự chủ và năng lực điều hành độc lập của địa phương trong giới hạn luật định, thay vì tổ chức đồng dạng theo đơn vị hành chính như hiện nay.

(2) Xây dựng Luật Phân quyền riêng biệt, nhằm xác lập hệ thống nguyên tắc, tiêu chí và cơ chế phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương. Luật này cần quy định cụ thể quyền tài chính địa phương, quản lý nhân sự, thẩm quyền tổ chức bộ máy, và đặc biệt là cơ chế điều phối đa cấp (multi-level governance), giúp tránh tình trạng xung đột ngành dọc – ngang hiện nay.

(3) Chuyển từ kiểm soát hành vi sang giám sát kết quả, thông qua việc áp dụng các chỉ số hiệu quả thực thi công vụ và năng lực điều hành địa phương, như: PAPI, SIPAS, DDCI… Trung ương cần chuyển từ vai trò “duyệt việc” sang đánh giá đầu ra, từ đó thiết lập cơ chế thưởng – phạt công bằng, minh bạch và theo hiệu suất công vụ.

OECD (2020) đã cảnh báo:“Tái cấu trúc tổ chức mà không đổi mới về quyền tự chủ và trách nhiệm sẽ chỉ dẫn đến tái sản xuất mô hình tập quyền truyền thống, dù trong vỏ bọc cải cách mới”10. Do đó, cải cách cần được tiến hành đồng bộ giữa thiết kế thể chế, luật hóa quyền hạn, và chuẩn hóa năng lực địa phương, thay vì tiếp tục chỉnh sửa rời rạc về mặt tổ chức hoặc địa giới hành chính.

Chính quyền địa phương là một cấu phần thiết yếu trong kiến trúc quyền lực nhà nước hiện đại, nơi mà quyền lực nhà nước được cụ thể hóa và thực thi sát nhất với đời sống công dân. Với vị thế là cấp gần dân nhất, chính quyền địa phương chính là nơi hội tụ giữa tính thống nhất quốc gia và tính đa dạng lãnh thổ, giữa quyền lực trung ương và bản sắc cộng đồng, giữa hiệu quả quản trị và chất lượng dân chủ.

Do mang tính chất lưỡng diện đặc trưng – vừa là thiết chế hành chính theo trục dọc, vừa là thiết chế dân chủ theo trục ngang – việc tổ chức chính quyền địa phương không thể chỉ dựa vào nguyên lý hành chính – mệnh lệnh, mà cần đặt trên nền tảng của phân quyền thực chất, với sự phân tầng rõ ràng về chức năng giữa các cấp. Nghiên cứu này khẳng định rằng, để chính quyền địa phương thực sự trở thành thiết chế đại diện – tự chủ – trách nhiệm, cần phải thiết kế lại hệ thống theo nguyên tắc bổ trợ (subsidiarity) – một nguyên lý nền tảng trong quản trị đa tầng hiện đại.

Theo đó, chính quyền trung ương giữ vai trò kiến tạo thể chế và giám sát chiến lược, còn chính quyền địa phương được trao quyền tự chủ tương ứng với năng lực và trách nhiệm giải trình rõ ràng. Đây chính là lối đi mà nhiều quốc gia tiên tiến đã lựa chọn thành công, như: Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và các nước thành viên EU. Ngược lại, mô hình tổ chức chính quyền địa phương hiện hành ở Việt Nam vẫn mang đậm tính tập quyền, song trùng và cào bằng, làm suy giảm hiệu quả quản trị, gia tăng gánh nặng bộ máy và hạn chế sự tham gia dân chủ thực chất. Do đó, cải cách chính quyền địa phương không thể dừng lại ở việc tinh giản hình thức tổ chức mà phải hướng đến cải cách thể chế toàn diện, được kiến tạo trên ba trụ cột cốt lõi:

(1) Phân quyền theo nguyên tắc bổ trợ, bảo đảm quyền lực được thực hiện ở cấp gần dân nhất, tránh dồn tích quyền lực không cần thiết tại trung ương.

(2) Bảo đảm quyền tự chủ về tài chính, tổ chức bộ máy và nhân sự, tạo điều kiện để chính quyền địa phương có đủ năng lực và động lực quản trị hiệu quả.

(3) Thiết lập cơ chế giải trình hai chiều hiệu quả, vừa từ địa phương lên trung ương, vừa từ chính quyền đến công dân, thúc đẩy dân chủ thực chất và kiểm soát quyền lực tại chỗ.

        Chỉ khi được thiết kế và vận hành trên nền tảng đó, chính quyền địa phương mới có thể phát huy vai trò như một thiết chế hiện đại, dân chủ và gần dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự hiệu lực, hiệu quả và phục vụ trong thế kỷ XXI.

PHÂN LOẠI MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG ĐỂ ÁP DỤNG PHÂN QUYỀN LINH HOẠT

 

Một nguyên tắc then chốt trong thực hiện phân quyền bổ trợ là không áp dụng mô hình tổ chức “đồng phục” mà thay vào đó, cần phân loại địa phương dựa trên chức năng, điều kiện và năng lực thể chế thực tế. Trên cơ sở đó, có thể xác lập ba nhóm chính quyền địa phương, tương ứng với các đặc trưng quản trị khác nhau:

(1) Chính quyền đô thị: cần cơ chế điều hành tập trung, linh hoạt và chuyên nghiệp hóa cao, có khả năng xử lý các vấn đề phức tạp của đô thị hóa và cung ứng dịch vụ công cường độ cao.

(2) Chính quyền nông thôn: ưu tiên ổn định tổ chức, tăng cường phân quyền dân sinh và phát triển bền vững, chú trọng đến nông nghiệp, bảo vệ môi trường và an sinh cơ sở.

(3) Chính quyền khu vực động lực (vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp – công nghệ cao, vùng biên giới…): cần áp dụng mô hình “bán tự trị” hoặc “khu vực đặc quyền quản trị”, với cơ chế đặc thù về ngân sách, tổ chức bộ máy và nhân sự.

Mô hình phân loại này chỉ hiệu quả khi được đặt trên nền tảng chuẩn hóa năng lực thể chế. Chỉ những địa phương đáp ứng được các chuẩn mực về năng lực điều hành, tài chính công và đội ngũ cán bộ, mới được trao quyền cao hơn – tương tự như mô hình “autonomy by qualification” đã áp dụng tại Indonesia 

CHUYỂN TỪ MÔ HÌNH TẬP TRUNG SANG PHÂN QUYỀN THỰC CHẤT THEO NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ

 

Trong bối cảnh yêu cầu cải cách thể chế ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt trước những giới hạn về hiệu quả vận hành, tính linh hoạt và trách nhiệm giải trình trong mô hình tổ chức chính quyền địa phương hiện nay, Việt Nam cần chuyển mạnh sang tiếp cận quản trị theo hướng phân quyền thực chất, dựa trên nguyên tắc bổ trợ (subsidiarity) – một nguyên lý đã chứng minh giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn tại nhiều quốc gia, như: Đức, Thụy Điển, Nhật Bản và đặc biệt là trong thiết kế quản trị đa tầng của EU.

Nguyên tắc bổ trợ, được định nghĩa tại Điều 5(3) của Hiệp ước Maastricht (EU, 1992), xác lập rằng:“Việc ra quyết định cần được thực hiện ở cấp gần dân nhất có thể, và cấp cao hơn chỉ can thiệp khi mục tiêu chính sách không thể đạt được một cách hiệu quả ở cấp thấp hơn”.

Nói cách khác, bổ trợ là nguyên tắc phân quyền theo chiều từ dưới lên, trong đó chính quyền trung ương chỉ can thiệp khi cấp địa phương không đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ công. Mô hình này giúp duy trì tính thống nhất quốc gia, nhưng đồng thời tối đa hóa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của địa phương, theo nguyên lý: “giao quyền đến nơi có năng lực thực hiện tốt nhất”.

Tư tưởng này hiện đã được khơi dậy mạnh mẽ trong định hướng lãnh đạo cao cấp, thể hiện qua phương châm của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Địa phương quyết – Địa phương làm – Địa phương chịu trách nhiệm”. Đây là chỉ dấu chính trị – thể chế rõ ràng, cho thấy Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển tiếp từ mô hình quản lý tập quyền sang mô hình quản trị phân quyền trách nhiệm. Trong mô hình mới, trung ương giữ vai trò kiến tạo thể chế, giám sát và đánh giá kết quả, trong khi địa phương là trung tâm thực thi, sáng tạo và chịu trách nhiệm chính trị – hành chính trước người dân và pháp luật.

HƯỚNG TỚI MỘT CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH THỂ CHẾ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

 


Trong bối cảnh yêu cầu quản trị hiện đại, minh bạch và dân chủ hóa đời sống công ngày càng tăng cao, mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam cần được thiết kế lại theo hướng toàn diện và hệ thống hơn. Trọng tâm là xây dựng một chiến lược cải cách thể chế chính quyền địa phương với ba trụ cột cốt lõi:

(1) Luật hóa rõ ràng nguyên tắc phân quyền và phân trách nhiệm giữa trung ương và địa phương, trong đó bảo đảm tính tự chủ thể chế của địa phương về tổ chức bộ máy, tài chính và nhân sự, tương xứng với chức năng được giao.

(2) Cải cách tài chính địa phương, chuyển từ mô hình phụ thuộc vào chuyển giao ngân sách sang mô hình quản lý tài chính dựa trên năng lực huy động – chi tiêu có trách nhiệm, mở rộng quyền định đoạt nguồn thu và cơ chế phân bổ chi tiêu tại địa phương.

(3) Xây dựng cơ chế giải trình hai chiều, bao gồm cả giải trình dọc (từ địa phương lên trung ương) và giải trình ngang (từ chính quyền tới công dân), qua đó, thúc đẩy dân chủ thực chất, tăng cường kiểm soát quyền lực và nâng cao chất lượng phục vụ công.

Chỉ khi tổ chức lại chính quyền địa phương trên nền tảng này, Việt Nam mới có thể hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện đại, hiệu lực, hiệu quả và gần dân, đồng thời, nâng cao năng lực quản trị đa tầng, khả năng thích ứng chính sách và tính cạnh tranh thể chế trong một thế giới đang chuyển động nhanh chóng.

MÔ HÌNH PHÂN CẤP – PHÂN QUYỀN BỔ TRỢ (SUBSIDIARITY)

 

Đây là mô hình lý tưởng, được nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia dân chủ hiện đại tôn vinh như một nguyên lý nền tảng của nhà nước phục vụ và dân chủ đa tầng. Theo nguyên tắc bổ trợ, mọi chức năng công quyền nên được giao cho cấp thấp nhất có đủ năng lực thực hiện và chỉ khi cấp đó không thể đáp ứng thì cấp cao hơn mới can thiệp. Nguyên tắc này là cơ sở của nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, nổi bật là Hiến chương châu Âu về tự trị địa phương và Hiệp ước Liên minh châu Âu (Treaty of Lisbon).

Theo Ủy ban Vùng (Committee of the Regions), nguyên tắc bổ trợ không chỉ là một kỹ thuật hành chính, mà là một quan điểm triết lý sâu sắc nhằm bảo vệ tính tự trị chính trị của chính quyền địa phương, thúc đẩy trách nhiệm, sự tham gia và hiệu quả chính sách công. Mô hình bổ trợ thể hiện một bước tiến lý luận vượt bậc, đặt niềm tin thể chế vào năng lực quản trị địa phương, coi địa phương là chủ thể đồng hành chứ không chỉ là cấp dưới hành chính. Mô hình này đang ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các hệ thống đa cấp hiện đại, đặc biệt là ở châu Âu và một số bang ở Hoa Kỳ, Canada, Australia…

Nhìn chung, các mô hình phân quyền – phân cấp phản ánh một chuỗi tiến hóa từ kiểm soát hành chính tập trung đến tự chủ chính trị – thể chế. Việc lựa chọn mô hình phù hợp không chỉ phụ thuộc vào năng lực thể chế hiện tại mà còn thể hiện tầm nhìn phát triển nhà nước, giữa một bên là quản lý thống nhất và bên kia là dân chủ hiệu quả, linh hoạt và gần dân.


MÔ HÌNH PHÂN CẤP – PHÂN QUYỀN ĐIỀU CHỈNH LINH HOẠT (REGULATORY DECENTRALISATION)

 


     Trong mô hình phân cấp phân quyền điều chỉnh linh hoạt (Regulatory Decentralisation)., chính quyền trung ương ban hành khung pháp lý, các chuẩn mực chính sách và mục tiêu vĩ mô, trong khi địa phương được quyền tự quyết về cách thức thực hiện, tổ chức bộ máy và huy động nguồn lực tùy theo điều kiện thực tiễn. Đây là hình thức phân quyền mềm, theo nguyên tắc “trung ương kiến tạo – địa phương linh hoạt”, thường thấy tại các quốc gia có truyền thống pháp quyền và năng lực thể chế cao như Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan.

            Ưu điểm nổi bật là tạo không gian sáng tạo, thích ứng cao cho địa phương mà vẫn bảo đảm kiểm soát chiến lược từ trung ương. Theo OECD (2017), việc thiết kế phân quyền theo mô hình điều chỉnh linh hoạt có thể tối ưu hóa hiệu quả thực thi chính sách công, đồng thời hạn chế nguy cơ phân tán quyền lực và mất kiểm soát trong điều hành quốc gia.

MÔ HÌNH PHÂN CẤP – PHÂN QUYỀN SONG TRÙNG GIÁM SÁT (DUAL ACCOUNTABILITY OR OVERSIGHT)

 


Mô hình này về cơ bản kế thừa cấu trúc song trùng nhưng điểm khác biệt cốt lõi nằm ở chỗ: chính quyền địa phương chịu sự giám sát đồng thời từ cả cơ quan dân cử địa phương (HĐND) và các cơ quan trung ương (Chính phủ, bộ, ngành). Đây là mô hình thường xuất hiện trong các quốc gia đang chuyển đổi thể chế, nơi mà quyền lực hành pháp địa phương chưa được xác lập rõ ràng.

Ưu điểm của mô hình là tăng cường kiểm soát quyền lực từ hai phía, tránh nguy cơ lạm quyền địa phương. Tuy nhiên, nếu không có ranh giới phân định rõ ràng, mô hình này dễ rơi vào tình trạng “trách nhiệm vòng tròn”, nơi không có thiết chế nào thực sự chịu trách nhiệm cuối cùng. Theo Loughlin, Hendriks và Lidström, đây là một mô hình chưa hoàn thiện về thể chế, dễ bị lạm dụng để né tránh trách nhiệm chính trị hoặc hành chính, đặc biệt trong các hệ thống có văn hóa quản lý mệnh lệnh – hành chính nặng nề.

MÔ HÌNH PHÂN CẤP – PHÂN QUYỀN SONG TRÙNG TRỰC THUỘC (DUAL SUBORDINATION)

 


Đây là mô hình phổ biến tại các quốc gia theo thể chế nhà nước đơnnhất và tập quyền cao, trong đó các cơ quan chuyên môn ở địa phương vừa chịu sự lãnh đạo của chính quyền địa phương gồm: Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), vừa chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của các bộ, ngành trung ương. Mô hình này được áp dụng tại nhiều nước Đông Á như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, nơi các sở, phòng, ban địa phương thường được ví như những “cánh tay nối dài” của bộ máy hành chính trung ương.

Ưu điểm của mô hình này là bảo đảm sự thống nhất chính sách và kiểm soát chuyên môn theo ngành dọc. Tuy nhiên, điểm yếu lớn là dễ phát sinh mâu thuẫn thẩm quyền, trách nhiệm phân tán và giảm mức độ chủ động của địa phương. Theo World Bank, nếu thiết kế không hợp lý, mô hình này có thể làm suy yếu hiệu lực thực hiện chính sách ở cấp địa phương và tạo ra cơ chế hành chính mang tính “xin – cho”, kìm hãm sáng tạo và khả năng thích ứng tại cơ sở.

CÁC MÔ HÌNH PHÂN CẤP, PHÂN QUYỀN ĐIỂN HÌNH

 


Phân cấp và phân quyền là nội dung cốt lõi trong thiết kế thể chế chính quyền địa phương. Tùy theo mức độ phát triển kinh tế – xã hội, đặc điểm thể chế và cấu trúc nhà nước, các quốc gia lựa chọn các mô hình phân quyền khác nhau để cân bằng giữa tính thống nhất của quyền lực nhà nước và tính linh hoạt, tự chủ của chính quyền địa phương.

Trong nghiên cứu chính sách so sánh, có thể nhận diện bốn mô hình phân cấp – phân quyền điển hình, bao gồm: Mô hình song trùng trực thuộc (Dual Subordination); Mô hình song trùng giám sát (Dual Accountability or Oversight); Mô hình điều chỉnh linh hoạt (Regulatory Decentralisation); Mô hình bổ trợ (Subsidiarity).

MÔ HÌNH KẾT HỢP (SHARED OR DUAL LEADERSHIP MODEL) TRONG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

 


Một trong ba mô hình tổ chức chính quyền địa phương phổ biến nhất trong hệ thống chính trị hiện đại, là mô hình kết hợp (Shared or Dual Leadership Model).

Mô hình này tìm cách cân bằng quyền lực giữa hội đồng dân cử và người đứng đầu hành pháp, trong đó cả hai thiết chế đều có vai trò tương đối độc lập và mang tính tương hỗ. Thị trưởng (hoặc tương đương) có thể được bầu trực tiếp hoặc do hội đồng lựa chọn, nhưng vẫn phải chịu sự giám sát của hội đồng, đồng thời chịu trách nhiệm điều hành chính quyền. Đây là mô hình phổ biến tại các nước có truyền thống phân quyền đối xứng và văn hóa hợp tác thể chế, như Pháp, Đức, Bỉ.

Ưu điểm nổi bật là tạo ra không gian đối thoại và kiểm soát hai chiều giữa chính trị và hành chính, giúp cân bằng giữa tính đại diện và tính hiệu quả điều hành. Tuy nhiên, nếu thiếu khung pháp lý rõ ràng, mô hình này cũng dễ rơi vào mâu thuẫn thẩm quyền và xung đột thiết chế. Theo Sharpe, mô hình kết hợp là một cấu trúc thể chế “pha trộn mềm”, kết hợp giữa dân chủ đại diện và hiệu quả hành chính. Tuy nhiên, thành công của mô hình phụ thuộc rất lớn vào năng lực thể chế và văn hóa chính trị địa phương – đặc biệt là mức độ hợp tác liên thiết chế và cam kết dân chủ trong thực tiễn vận hành.

Có thể nói, không có mô hình tổ chức chính quyền địa phương nào là “tối ưu tuyệt đối” mà mỗi mô hình đều mang theo những lựa chọn thể chế hàm chứa đánh đổi (trade-offs) giữa tính dân chủ, hiệu quả hành chính và khả năng kiểm soát quyền lực. Việc lựa chọn mô hình phù hợp cần căn cứ vào điều kiện lịch sử – chính trị, mức độ phát triển thể chế, trình độ hành chính và bản sắc văn hóa – xã hội của từng quốc gia hoặc địa phương cụ thể.

MÔ HÌNH HÀNH PHÁP MẠNH (EXECUTIVE-LED HOẶC MAYOR-LED MODEL) TRONG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

 


Trong hệ thống chính trị hiện đại, các mô hình tổ chức chính quyền địa phương rất phong phú, đa dạng, ba mô hình tổ chức phổ biến nhất gồm: Mô hình hội đồng mạnh (Council-led Model); Mô hình hành pháp mạnh (Executive-led hoặc Mayor-led Model); Mô hình kết hợp (Shared or Dual Leadership Model).

Trong mô hình hành pháp mạnh (Executive-led hoặc Mayor-led Model), người đứng đầu hành pháp cấp địa phương – thường là thị trưởng hoặc chủ tịch hành pháp – nắm quyền điều hành bộ máy hành chính và hoạch định chính sách địa phương. Thị trưởng có thể được dân trực tiếp bầu (như tại Hoa Kỳ, Hàn Quốc) hoặc do trung ương bổ nhiệm (một số nước châu Á). Hội đồng dân cử chủ yếu đóng vai trò giám sát và phê chuẩn chính sách, thay vì kiểm soát trực tiếp bộ máy hành pháp.

Mô hình hành pháp mạnh cho phép người đứng đầu có tầm nhìn và thẩm quyền hành động rõ ràng, rất phù hợp với bối cảnh các đô thị lớn, nơi yêu cầu năng lực điều hành nhanh, nhạy và quyết đoán. Tuy nhiên, rủi ro lớn của mô hình này là tập trung quyền lực quá mức vào cá nhân lãnh đạo, nếu không có cơ chế kiểm soát và trách nhiệm giải trình đủ mạnh. Theo Mouritzen và Svara, mô hình thị trưởng mạnh (strong mayor model) đặc biệt phổ biến ở Hoa Kỳ và một số đô thị lớn tại Mỹ Latinh, nơi mô hình này kết hợp tính đại diện trực tiếp với tính hiệu quả hành chính cao nhưng cũng đòi hỏi một nền văn hóa chính trị và pháp lý phát triển để kiểm soát quyền lực.

MÔ HÌNH HỘI ĐỒNG MẠNH (COUNCIL-LED MODEL) TRONG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

 


Trong hệ thống chính trị hiện đại, các mô hình tổ chức chính quyền địa phương rất phong phú, đa dạng, ba mô hình tổ chức phổ biến nhất gồm: Mô hình hội đồng mạnh (Council-led Model); Mô hình hành pháp mạnh (Executive-led hoặc Mayor-led Model); Mô hình kết hợp (Shared or Dual Leadership Model).

Mô hình hội đồng mạnh (Council-led Model) là mô hình, trong đó hội đồng địa phương – thường do dân trực tiếp bầu – giữ quyền lực quyết định tối cao và kiểm soát toàn bộ hoạt động hành pháp. Cơ quan hành pháp (có thể là ủy ban hoặc người đứng đầu chính quyền địa phương) do chính hội đồng bầu ra và chịu trách nhiệm trực tiếp trước hội đồng.

Mô hình này thể hiện rõ nguyên tắc: “quyền lực bắt nguồn từ đại diện dân cử” và thường được áp dụng ở các quốc gia có truyền thống dân chủ nghị viện vững mạnh, như: Đan Mạch, Thụy Điển, Hà Lan. Ưu điểm lớn nhất là tăng cường tính dân chủ và khả năng kiểm soát quyền lực từ phía đại diện dân cư. Tuy nhiên, trong bối cảnh quản trị ngày càng phức tạp và kỹ trị, mô hình này có thể gặp khó khăn nếu hội đồng thiếu chuyên môn, bị phân hóa đảng phái sâu sắc, hoặc vận hành kém hiệu lực – từ đó gây trì trệ trong việc ra quyết định hành chính, nhất là tại các đô thị lớn.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2025

MỘT SỐ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CHO THẾ HỆ TRẺ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY


 

Thế hệ trẻ trong quân đội là lực lượng xung kích, đi đầu trong thực hiện nhiệm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, góp phần to lớn vào sự nghiệp trưởng thành, chiến thắng của Quân đội. Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn tình trạng một bộ phận thế hệ trẻ trong quân đội có những dấu hiệu sa sút ý chí chiến đấu, suy giảm niềm tin, thoái hóa về đạo đức, lối sống,... làm ảnh hưởng đến bản chất cách mạng trong sáng và uy tín của “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong khi đó, ở một số đơn vị, có lúc, có nơi, việc chăm lo vun đắp bản chất, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ bị xem nhẹ hoặc thiếu tính hiệu quả. Vì vậy, việc chăm lo xây dựng, bồi dưỡng bản chất cách mạng cho thế hệ trẻ trong quân đội vừa là một yêu cầu mang tính thường xuyên, lâu dài, vừa là đòi hỏi bức thiết, trước mắt, mà tổ chức Đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đều phải hết sức quan tâm.

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2025

Một số giải pháp về phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta hiện nay

 


Để phòng chống “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta hiện nay, cần làm tốt những giải pháp cơ bản sau:

Một là: Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội và từng đơn vị; đồng thời, giữ vai trò định hướng thúc đẩy hành động và hành vi tích cực của bộ đội, V.I. Lênin đã từng khẳng định: “Thắng lợi hay thất bại của cuộc chiến tranh phụ thuộc vào tâm trạng của người cầm súng đang đổ máu trên chiến trường”. Do đó, sức mạnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta đều bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc với bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là niềm tin sắt đá vào con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, niềm tin tất thắng vào mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội đã tạo nên sức mạnh vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Quân đội và Nhân dân ta.

Hơn nữa, vấn đề cốt lõi của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là thực hiện “chiến thắng không cần chiến tranh”. Chúng đã tập trung phá hoại về chính trị, tư tưởng của Quân đội ta. Do đó,  phải nâng cao bản lĩnh chính trị cũng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ là tất yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Yêu cầu bản lĩnh chính trị của bộ đội hiện nay là kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, có niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Phải luôn nhạy bén về chính trị, ứng xử kịp thời và đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của quân đội và từng đơn vị. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm tư tưởng sai trái và phản động, các biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, hoài nghi, dao động, lơ là mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ.

Để nâng cao bản lĩnh chính trị, cũng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trong quân đội, trước hết phải tăng cường và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong mọi tình huống, đặc biệt trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị. Xây dựng bản lĩnh chính trị, cũng cố và giữ vững trận địa chính trị tư tưởng cho bộ đội phải triệt để quán triệt vào trong quá trình giáo dục huấn luyện để nâng cao tri thức và hiểu biết toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ; phải gắn chặt thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và các mặt công tác khác. Trong đó, nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị là vấn đề rất quan trọng. Giải quyết tốt giữa toàn diện và trọng điểm, hết sức coi trọng các khu trọng điểm.

Nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giáo dục, phải coi trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục lý luận chính trị, cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác những thông tin cho bộ đội. Đồng thời, quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng và các mối quan hệ xã hội của cán bộ, chiến sĩ trong từng đơn vị và giải quyết kịp thời đúng đắn, dứt điểm những diễn biến chính trị, tư tưởng phức tạp, những vấn đề mới nảy sinh, tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hai là: Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xây dựng mọi phương án chiến đấu, luyện tập thành thạo các phương án không để bị động, bất ngờ khi có tình huống xảy ra.

Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, luyện tập và thành thạo các phương án chiến đấu là một trong những nhân tố bảo đảm cho các đơn vị trong quân đội đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Đồng thời, đây còn là giải pháp trực tiếp đánh bại âm mưu thủ đoạn của kẻ thù hòng phá hoại quân đội về tổ chức, làm suy giảm khả năng chiến đấu, vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội ảnh hưởng trực tiếp đến yếu tố chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng tổ chức đảng là then chốt. Duy trì chặt chẽ đơn vị theo nền nếp chính quy và các chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm đơn vị luôn nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Ba là: Thường xuyên củng cố và phát huy vai trò các tổ chức, quản lý chặt chẽ đơn vị về mọi mặt thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình”.

Phòng chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị, trước hết là ở các đơn vị cơ sở trong quân đội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng địa bàn, trực tiếp tiếp xúc với các thành phần xã hội và tiến hành công tác vận động quần chúng, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của địch, đồng thời cán bộ, chiến sĩ cũng là những đối tượng mà địch chú ý tác động phá hoại; kẻ địch thường lợi dụng những kẽ hở, khâu yếu, điểm yếu của ta, những địa bàn, đơn vị có những vấn đề phức tạp, bộc lộ những yếu kém để chọn làm điểm đột phá, từ đó phát triển chống phá ta trên phạm vi rộng hơn.

Trước hết, đối với tổ chức đảng, cấp ủy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ, coi đây là yếu tố then chốt quyết định đến thắng lợi của nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình”. Phải thường xuyên quán triệt, giáo dục làm cho mọi tổ chức đảng, đảng viên nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, xây dựng tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch.

Thường xuyên kiện toàn cấp ủy, chi bộ, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tăng cường công tác kiểm tra, bảo đảm cho nghị quyết của tổ chức đảng được thực hiện thắng lợi. Chăm lo xây dựng và phát huy vai trò tính tiền phong của đội ngũ đảng viên, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp ở đơn vị cơ sở cả về số lượng và chất lượng, thể hiện ở các khâu từ lựa chọn, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí đúng người, đúng việc, phát huy vai trò tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt coi trọng bồi dưỡng nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường tư tưởng kiên định, kinh nghiệm tổ chức chỉ huy, nhất là trong lúc khó khăn, gian khổ, phức tạp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống.

          Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội đồng quân nhân là nơi tập trung mọi cán bộ, chiến sĩ trong các phong trào hành động cách mạng, thực hiện nhiệm vụ, phát huy dân chủ, tinh thần đoàn kết, tính chủ động trong việc ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch.

Bốn là: Phối hợp với địa phương và các đơn vị bạn xây dựng địa bàn vững mạnh, an toàn, kịp thời ngăn chặn và đập tan khi có tình huống bạo loạn xảy ra.

Xây dựng cơ sở vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong tình hình hiện nay, là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh là một nhiệm vụ của các đơn vị quân đội, là một nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phòng chống “Diễn biến hòa bình” và trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đối với Quân đội ta.

Để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống “Diễn biến hòa bình” của địch có hiệu quả, thì một trong những biện pháp quan trọng là phải không ngừng tăng cường đẩy mạnh các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nhằm tạo cơ sở chính trị, tinh thần cho quá trình thực hiện nhiệm vụ, phát huy sức mạnh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi người trong và ngoài đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hào bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đối với quân đội bằng nhiều thủ đoạn vô cùng tinh vi, xảo quyệt. Do đó, thực hiện đồng bộ những giải pháp trên sẽ góp phần phòng, chống và làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay./.

                   N1.

Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch ở Việt Nam hiện nay

 

 

1. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ là giải pháp đầu tiên, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong đó lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là rất quan trọng. Đây là giải pháp nền tảng chi phối, chỉ đạo các giải pháp khác trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nêu cao trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, người đứng đầu các cấp nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Kết hợp chặt chẽ công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền, xây dựng tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh.

2. Kết hợp chặt chẽ công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với lãnh đạo đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Kết hợp công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” với đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ luôn đòi hỏi Đảng phải có biện pháp, cơ chế kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo của hai công tác này. Trong lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, phải thấy rõ mối quan hệ của nó với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” và coi đó là yêu cầu, nội dung và biện pháp quan trọng hàng đầu để tìm ra giải pháp làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”. Và ngược lại, trong đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, phải thấy rõ mối quan hệ của nó với “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, cái này đan xen, bện chặt vào cái kia, tác động, chi phối lẫn nhau. Vì vậy, phải coi đó là yêu cầu có tính nguyên tắc để có biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

3. Tăng cường đổi mới mạnh mẽ công tác lãnh đạo của Đảng; thực hiện nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới

Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”; đồng thời, thực hiện nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, đủ hiệu lực của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, của cấp ủy các cấp đối với công tác này.

Duy trì nghiêm và phát huy hiệu quả cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, có tư duy mới và biện pháp lãnh đạo phù hợp. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy dân chủ, tạo động lực trong công tác đấu tranh. Tăng cường bồi dưỡng tri thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp, dân tộc; nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng; sắp xếp, kiện toàn Ban Chỉ đạo 94 các cấp tinh gọn, hiệu quả; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và phổ biến kinh nghiệm về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để họ không mắc mưu địch.

4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, của cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Đề xuất được giải pháp mới nhằm phát huy vai trò của tổ chức đảng, cấp ủy đảng các cấp, của cán bộ, đảng viên với việc chủ động lãnh đạo thực hiện chương trình, kế hoạch đấu tranh đã xác định. Tiếp tục thúc đẩy các Ban Chỉ đạo phòng, chống “diễn biến hoà bình” các cấp hoạt động có kế hoạch, “chuyên nghiệp” và thực thi hơn, tránh mắc “bệnh” thành tích. Có cơ chế phối hợp giữa các tổ chức, các lực lượng, khắc phục những bất cập, chồng chéo trong công tác lãnh đạo. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, phải tích cực, chủ động, tiên phong trong cuộc đấu tranh này.

5. Quan tâm chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; làm cho dân no, dân yên, dân tin yêu Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa

Đây là giải pháp hỗ trợ trực tiếp, rất hiệu quả; phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; là thực lực sức mạnh và ưu thế của chế độ ta. Vì vậy, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho nhân dân; xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm cho chế độ xã hội luôn luôn ổn định, được đổi mới và phát triển. Cùng với đó, thực hiện tốt giải pháp này là góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; không để “khoảng trống chính trị” để các thế lực thù địch lợi dụng, xâm nhập chống phá cách mạng Việt Nam.

Tóm lại, âm mưu cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của các thế lực thù địch là dùng “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” là yêu cầu khách quan - mệnh lệnh của cuộc sống.

Thực tiễn Đảng lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” thời gian qua đạt được nhiều kết quả quan trọng cả về nhận thức và thực tiễn lãnh đạo; song còn có hạn chế nhất định. Nhận diện đúng âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” và tính chất nguy hiểm, tác hại to lớn của nó để đề xuất các giải pháp “xây” và “chống” sao cho hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các thế lực thù địch sử dụng “trăm phương ngàn kế” để chống phá ta, đó là ý muốn chủ quan của chúng; còn chúng có thực hiện được mưu đồ đen tối ấy hay không quyền quyết định là của chúng ta./.

          N1.