Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 9 NĂM 1959!
CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI VỮNG NIỀM TIN VÀO ĐẢNG!
TƯỢNG ĐÀI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRÊN THẾ GIỚI
XÂY DỰNG BẢN LĨNH VŨNG VÀNG, KHÔNG ĐỂ SA VÀO CẠM BẪY TỆ NẠN XÃ HỘI
Có thể
nói, thời gian gần đây một trong những vấn đề dư luận xã hội bày tỏ sự quan
ngại là một bộ phận cán bộ, đảng viên có những biểu hiện vi phạm chuẩn mực đạo
đức, vướng vào tệ nạn xã hội. Nếu không có những giải pháp ngăn chặn kịp thời
thực trạng này thì không chỉ làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
chế độ mà còn tác động tiêu cực đến việc xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam.
Tệ nạn
xã hội là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, nó thường được biểu hiện dưới những
hành vi vi phạm đạo đức, pháp luật, gây hậu quả xấu đối với đời sống xã hội. Tệ
nạn xã hội không những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tinh thần, đạo đức của
con người, mà còn làm rạn nứt hạnh phúc gia đình, làm mọt ruỗng văn hóa và gây
mất trật tự an toàn xã hội. Không ai phủ nhận những giá trị tích cực mà nền
kinh tế thị trường đã mang lại cho xã hội và con người. Tuy nhiên, những mặt
trái của cơ chế thị trường “cộng sinh” với lối sống lai căng, văn hóa độc hại
du nhập từ bên ngoài vào khiến tệ nạn xã hội có nguy cơ trỗi dậy và làm băng
hoại đạo đức xã hội. Cán bộ, đảng viên cũng là con người nên khó tránh khỏi
những ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội ở cả mặt tốt và mặt xấu, ở cả
chiều hướng tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, trước sự “cám dỗ, mê hoặc”
của những “chiếu bài, ván bạc” hay lời “mời gọi quyến rũ” từ vũ trường, nhà
hàng, khách sạn, thậm chí chiêu bài “mỹ nhân kế” làm chao đảo cả một triều
chính xưa kia cũng có thể tái diễn để trở thành “cái dây thòng lọng” đối với
bất cứ cán bộ, đảng viên nào thiếu bản lĩnh, thiếu tỉnh táo, thiếu nghiêm khắc
với chính mình.Nếu như những năm tháng chiến tranh, cán bộ, đảng viên có mục
tiêu lớn nhất là cùng nhân dân, bộ đội kề vai sát cánh bên nhau để đánh đuổi kẻ
thù ra khỏi giang sơn bờ cõi, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; hay
trong thời bao cấp còn nhiều khó khăn, nhà nhà, người người phải lo toan cái
ăn, cái mặc hằng ngày thì cán bộ, đảng viên ít nhiều vẫn giữ được sự trong trẻo
của tâm hồn, sự trong sáng của lương tâm, sự lành lặn của đạo đức, do đó ít bị
tha hóa, biến chất. Còn thời nay, điều kiện kinh tế, cuộc sống vật chất đã đầy
đủ, sung túc hơn xưa; môi trường xã hội thông thoáng, cởi mở hơn; các phương
tiện nghe nhìn, truyền thông, văn hóa giải trí, mạng xã hội đã làm cho con
người được tận hưởng tiện ích, thoải mái gấp nhiều lần… nhưng cũng làm người ta
dễ trở nên “lóa mắt” trước những “cạm bẫy” từ sự hào nhoáng, giả tạo và lệch
chuẩn xã hội mà không phải ai cũng dễ nhận diện, phát hiện để tránh xa. Thế
nên, có người ví von rằng, thời đại công nghệ có thể tạo bàn đạp, bệ đỡ cho con
người vươn tới chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học, nhưng cũng có thể là chiếc xe
“không phanh” lót đường cho sự sa ngã, xuống cấp đạo đức nếu con người buông
lơi, thỏa thích với những ham hố tầm thường của mình. Không ngẫu nhiên mà từ
Đại hội XII đến nay, Đảng ta không chỉ coi đạo đức là một trong 4 trụ cột trong
công tác xây dựng Đảng, mà còn đề ra nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định nhằm
siết chặt kỷ cương, củng cố văn hóa, chấn chỉnh đạo đức trong Đảng. Bởi sự
thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên khiến nhân dân suy giảm
niềm tin vào Đảng và chế độ, đồng thời làm cho nền tảng văn hóa, đạo đức xã hội
có nguy cơ lung lay từ gốc rễ.
Chính
vì vậy, việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay đồi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên
phải nhân đôi trách nhiệm trong việc xây dựng nền tảng đạo đức xã hội lành mạnh.Với
tư cách là lực lượng dẫn dắt xã hội phát triển văn minh, tiến bộ, đội ngũ cán
bộ, đảng viên không chỉ có trách nhiệm xây dựng nền tảng tinh thần đạo đức xã
hội lành mạnh mà còn phải là lực lượng tiên phong trong đấu tranh, phòng ngừa,
đẩy lùi, ngăn chặn các tệ nạn xã hội, các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức xã
hội.Muốn làm tốt việc này, trước hết đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần chú
trọng học tập lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh , thấm nhuần những giá trị văn hóa truyền thống, đạo đức tốt đẹp của
dân tộc; tự giác tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách
mạng, không bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội như mại dâm, dâm ô, cờ bạc, mê tín
dị đoan; gương mẫu chấp hành nội quy, quy ước, hương ước về nếp sống văn hóa
tại cộng đồng nơi cư trú; vận động gia đình, người thân và nhân dân tích cực
hưởng ứng tham gia phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa,
phường, xã văn minh...Để tệ nạn xã hội xâm nhập vào một bộ phận cán bộ, đảng
viên, cấp ủy và chính quyền các cấp không thể vô can. Vì vậy, đi đôi với việc
đề cao vai trò tự giác, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các cấp ủy
đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, cơ quan, đơn vị cần quan tâm chăm lo xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa
bổ ích nhằm tạo ra không gian sống tích cực cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Cùng với đó, cần làm tốt công tác giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên ở mọi
lúc, mọi nơi; phối hợp với chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa phương tăng
cường giám sát cán bộ, đảng viên nơi cư trú; tránh để buông lỏng quản lý khiến
cán bộ, đảng viên vi phạm tệ nạn xã hội mà không biết. Thường xuyên chú trọng,
quan tâm xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức lành mạnh cho xã hội, bảo đảm sự
phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời
sống chính trị, vào mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, mỗi gia đình và cá nhân, việc
giữ gìn và phát huy các chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc sẽ góp phần bảo đảm cho xã hội nói chung, mỗi người nói riêng được phát triển
tiến bộ, cân bằng, bền vững.Đây là “bức tường thành” có thể phòng ngừa hiệu quả
các tệ nạn xã hội, nhất là trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động hiện
nay.
TẦM CAO TƯ TƯỞNG, NIỀM TIN SON SẮT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Bản Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về tổng kết lý
luận-thực tiễn mang tầm tư tưởng chiến lược của bậc vĩ nhân. Là Chủ
tịch Đảng và Chủ tịch nước, 24 năm liên tục là nguyên thủ quốc gia,
Hồ Chí Minh đã thể hiện trong Di chúc - một đại tổng kết lý luận và
thực tiễn cách mạng Việt Nam gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp
của Người, với những chặng đường trong cuộc hành trình lịch sử của
dân tộc và của Đảng, vì lý tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, vì độc lập - tự do - hạnh phúc của nhân
dân.
Thực
hiện Di chúc của Người, chúng ta đã vượt qua bao thử thách cam go, chiến
đấu gian lao và anh dũng “đánh thắng hai đế quốc to”; toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân một ý chí, một niềm tin son sắt, hành động với sức
mạnh đoàn kết muôn triệu người để giành thắng lợi, hướng tới tương lai.
Trong
Di chúc, trên bình diện tư tưởng, Người đã đề cập toàn diện các vấn
đề cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, về cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, về Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền thực sự
trong sạch, vững mạnh, về Nhà nước và thực hành dân chủ, thực sự
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Di chúc trù tính việc trước
mắt và việc lâu dài, về dân tộc và quốc tế; về công việc tương lai,
tái thiết đất nước sau chiến tranh, xây dựng đất nước đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn, làm tất cả mọi việc vì hạnh phúc của nhân dân.
Niềm tin tưởng mãnh liệt của Người vào thắng lợi hoàn toàn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong hoàn cảnh chiến tranh đang
diễn ra hết sức ác liệt, đồng bào, chiến sĩ cả nước đang chịu đựng
nhiều gian khổ, hy sinh, vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn và tình
hình quốc tế cũng đang diễn biến phức tạp… cho thấy tầm nhìn xa
trông rộng của Người. Đó là niềm tin khoa học, nhìn thấu xu thế phát
triển của tình hình, tính tất yếu thắng lợi của chính nghĩa cách
mạng và sự thất bại không thể nào tránh khỏi của chiến tranh xâm
lược phi nghĩa, trái đạo lý và phản nhân văn mà đế quốc, thực dân
gây ra. Người tin tưởng, khẳng định và nhấn mạnh: “Cuộc chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn
nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc
chắn”.
Với
Hồ Chí Minh, niềm tin thúc đẩy hành động. Người hình dung “cuộc
kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải
hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh
giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn". Và hành động lại góp phần
củng cố niềm tin: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất
định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi
nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà".
Từng
lời, từng chữ của Người trong Di chúc đều toát lên sự kiên định,
nhất quán của tư tưởng, sự vĩ đại của niềm tin không gì lay chuyển
được.Động lực sâu xa thúc đẩy Người tin tưởng mãnh liệt như thế và
thức tỉnh đồng bào, chiến sĩ hành động dũng cảm, quyết liệt như
thế, không có gì khác đó là tình yêu và tình cảm của Người với Tổ
quốc và nhân dân mà cả cuộc đời mình, Người đã tự nguyện dấn thân
và dâng hiến cho dân, cho nước. Nó lắng đọng, bền bỉ, thường trực
trong suy tư và cảm xúc, trong trái tim và trí óc của Người.
Cũng trong bối cảnh của Di chúc, Người đã từng kêu gọi đồng bào,
chiến sĩ ta “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải
tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”, phải “đánh cho Mỹ cút, đánh cho
ngụy nhào”, “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”, để cho “Bắc-Nam sum họp,
xuân nào vui hơn!”… Người đã thực sự truyền cảm hứng tới toàn dân
tộc. Trong giờ phút thử thách ác liệt, cam go của cuộc chiến đấu,
cũng như trong suốt cuộc hành trình lịch sử không ngừng không nghỉ
của dân tộc để bảo vệ quyền sống, quyền tự do, giữ gìn và nâng cao
phẩm giá con người, Hồ Chí Minh luôn là ngọn cờ dẫn dắt toàn dân
tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân mình, cuộc đời Người ở trong sự
sống và số phận của nhân dân, dân tộc mình.
Nhớ lại
những sự kiện tiêu biểu in dấu ấn của Người trong mỗi bước ngoặt
của cách mạng. Bên thềm của Cách mạng Tháng Tám giải phóng dân tộc,
Người từng căn dặn chúng ta với quyết tâm sắt đá “dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Giữa
khói lửa của cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp,
ngày 19-12-1946, Người ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước
“thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ”. Đó là lời thề thiêng liêng đối với Tổ quốc mà nguyên thủ quốc
gia Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể quốc dân đồng bào nói lên ý
chí của toàn dân tộc.
Hai
mươi năm sau, vào lúc 76 tuổi, khi đã khởi thảo xong lần đầu bản Di
chúc, ngày 17-7-1966, Người ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả
nước. Trong lời kêu gọi ấy, nổi bật một tư tưởng lớn, một sự lựa
chọn giá trị được khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Đó là chân lý của muôn đời, rọi sáng nhận thức, giúp chúng ta hiểu
rõ vì sao niềm tin vào thắng lợi và ý chí chiến đấu vì thắng lợi
hoàn toàn của Người mãnh liệt đến như vậy.
Trong Di chúc, Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đây là nhân tố làm nên sức sống, sức chiến đấu của một Đảng cách mạng mà lẽ
sống, sự tồn tại của Đảng chỉ vì nhân dân. Đoàn kết trong Đảng, muôn người như
một còn là sức mạnh của trí tuệ khoa học và đạo đức cách mạng của toàn Đảng,
của từng tổ chức Đảng đến mỗi một đảng viên.
Theo Hồ
Chí Minh, đoàn kết trong Đảng còn là động lực và sự nêu gương, thúc đẩy đoàn
kết toàn dân tộc, gắn liền với đoàn kết quốc tế. Với Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối
cao của Đảng và của dân tộc, đoàn kết là nỗ lực phấn đấu, là mẫu mực thực hành
trong suốt cuộc đời của Người. Trước tình trạng xảy ra mất đoàn kết, sự bất hòa
giữa các đảng anh em, Người dằn vặt, lo âu đến mức đau đớn.
Là
người chiến sĩ cách mạng, luôn tin tưởng, lạc quan vào sự nghiệp cách mạng,
luôn tự hào về sự lớn mạnh của phong trào cộng sản thế giới mà Người phải nói
đến “sự đau lòng” về tình trạng bất hòa giữa các đảng anh em thì nỗi đau ấy của
Người thấm thía biết chừng nào. Với nghị lực phi thường, với tấm lòng cao cả,
Người thường nén chặt nỗi đau nhân thế ở trong lòng. Ngay trong ngôn từ, hiếm
khi Người nói tới sự đau buồn, vậy mà trong Di chúc, Người phải nói đến “tự hào
bao nhiêu” thì cũng “đau lòng bấy nhiêu” trước những sóng gió âm ỉ trong phong
trào cộng sản quốc tế mà Người cảm nhận sâu sắc hơn ai hết, thì nỗi đau của
Người là tất cả tinh thần trách nhiệm không chỉ đối với Đảng, với dân tộc mà
còn đối với quốc tế và nhân loại. Thêm một lần nữa, ta nhận ra sự cao thượng vĩ
đại của Người.
Người
căn dặn Đảng ta “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối
đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Đây cũng chính là một trong những phương diện
xây dựng Đảng của Đảng ta, là trách nhiệm cao cả của Đảng ta đối với phong trào
cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới theo Di chúc của Người.
Phê phán luận điệu đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh
Luận điệu đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là một thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch
nhằm xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Vạch trần sự sai trái, phi
khoa học này là việc làm hết sức cần thiết.
Các thế lực thù địch tung ra
luận điệu: Chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu
tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và
thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ
nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh.
Luận điệu trên của các thế lực
thù địch chính là muốn hướng lái dư luận hoài nghi về bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gây hoang mang, dao động,
chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút
niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng. Thực chất là chúng muốn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng và
vai trò lãnh đạo của Đảng, muốn Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, thực hiện
đa nguyên, đa đảng, từ bỏ mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cần khẳng định rõ, luận điệu
đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng thể hiện
rõ quan điểm thù địch, đi ngược lại lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp
công nhân và của cách mạng, dân tộc Việt Nam. Mưu đồ thâm hiểm mà chúng nhằm
tới là xuyên tạc, phủ nhận và hạ bệ cả chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Xem xét dưới góc độ phương
pháp, việc tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh là sự nhận
thức phiến diện, siêu hình, phi lôgic và lịch sử, không khoa học. Bởi, tư tưởng
Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin ở bản chất khoa học và cách
mạng, ở lý tưởng và mục tiêu nhân văn vì con người, vì giải phóng giai cấp, dân
tộc và nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin là khoa học về những quy luật phát
triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống mọi sự áp bức, bất công; về xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời trên mảnh đất hiện thực là
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân - lực lượng xã hội đại
biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của lịch sử phát triển nền sản
xuất vật chất của nhân loại. Đồng thời, là sự tổng hòa từ nhiều nguồn tri thức
của loài người, thu nhận tinh túy từ các tư tưởng tiến bộ và không ngừng được
bổ sung, hoàn bị bằng những kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử được khái quát lên
tầm lý luận. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin không nhằm
tự thân mà nhằm đấu tranh để cải tạo thế giới, hướng đến giá trị nhân văn cao
cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác
– Lênin lấy giai cấp công nhân làm vũ khí “vật chất”, còn giai cấp công nhân
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm vũ khí “tinh thần”.
Dưới góc độ khoa học về lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân
loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc
lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Về lôgic, tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa, phát
triển, làm phong phú, sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin; vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Đồng thời, là toàn bộ chiến
lược từng bước đưa cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa; là ngọn cờ tư tưởng và kim chỉ nam dẫn dắt sự
nghiệp giải phóng dân tộc trước kia, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Năm
1927, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, viết ở trang đầu tiên, Hồ Chí Minh đã
trích lời của V.I. Lê-nin: Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh
vận động,… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong Đảng cách mệnh mới làm nổi
trách nhiệm cách mệnh tiên phong. Hồ Chí Minh đã nêu bật tầm quan trọng của chủ
nghĩa Mác – Lênin đối với Đảng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin”1.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác
– Lênin là “cái cẩm nang thần kỳ”, “cái la bàn”, “trí khôn” của Đảng ta. Nó là
“vũ khí tinh thần” của giai cấp công nhân, là kim chỉ nam cho hành động cách
mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” là sự khái
quát cô đọng, súc tích và đặc sắc của Hồ Chí Minh về giá trị, sức sống của chủ
nghĩa Mác – Lênin với vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng.
Như vậy, về bản chất, lịch sử
và lôgic, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin, chứ không
hề có sự khác biệt, đối trọng nhau như các thế lực thù địch vẫn rêu rao. Bởi
vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Nền tảng tư tưởng
vững chắc, khoa học và cách mạng đó chỉ đạo nhận thức, tư duy và phương hướng
hành động đúng cho Đảng ta, trang bị cho Đảng vũ khí tư tưởng để làm tròn vai
trò tiên phong lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, đường lối chính trị. Đó là hệ
thống những chủ trương, chính sách mang tầm chiến lược, sách lược, được khái
quát từ thực tiễn, trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể qua các thời kỳ cách mạng, đáp
ứng yêu cầu và soi sáng cho thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử cách mạng
Việt Nam đã chứng minh, từ khi được soi sáng, dẫn đường bởi chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh
đạo, cách mạng Việt Nam mới khắc phục được cuộc khủng hoảng về đường lối và lực
lượng lãnh đạo cách mạng, đưa đất nước phát triển phù hợp xu hướng thời đại;
giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh không những là cơ sở tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng, mà còn
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt
Nam. Là nền tảng tư tưởng, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo
tư duy, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn trong hoạt động của Đảng ta. Thành công
của sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua trước hết là thành công của đổi mới tư duy
với nguyên tắc xuất phát từ thực tiễn, trung thành và sáng tạo. Là kim chỉ nam,
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo phương hướng hành động,
giúp cho Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, lấy dân làm gốc, kiên định mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, nhân loại đang phát triển trong thời đại của cuộc Cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi cơ bản cách tiếp cận, tư duy, lối
sống, phong cách làm việc. Trước sự tác động đó, những lý thuyết phát triển mới
sẽ lan rộng và ảnh hưởng đến Việt Nam, làm cho những hạn chế, bất cập trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng như ở nước ta
càng bộc lộ rõ, ngày càng thách thức đối với hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch càng
ra sức công kích nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình
thời cuộc và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần
kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và
phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nếu không kiên định lập trường,
quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ
không thể thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Nếu không nắm được bản chất
khoa học và cách mạng, không nắm chắc nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì khó lý giải đúng, trúng, thuyết phục những
vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Do đó, cũng không có cơ sở khoa học chắc
chắn nhất để đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch đòi tách rời chủ
nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trên cơ sở nắm vững bản chất
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên mới có phương pháp luận sắc bén để vận dụng đúng đắn,
sáng tạo vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra đối với đất nước và ở từng
cấp, ngành, địa phương. Do vậy, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng luôn giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ
nghĩa Mác – Lênin là ở chỗ nó được thâm nhập vào quảng đại quần chúng nhân dân,
được quần chúng hiểu, tin và làm theo lý luận đó. Tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho cán bộ, đảng viên nắm chắc lập
trường, quan điểm, phương pháp để xử trí đúng với mọi việc, với mọi người và
với bản thân mỗi người; biết vận dụng sáng tạo vào công tác; học đi đôi với
hành, lý luận gắn với thực tiễn. Cần tạo ra sự chuyển biến mới về chất lượng,
hiệu quả việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05
của Bộ Chính trị (khóa XII); khắc phục các biểu hiện hình thức, giản đơn và
thái độ thờ ơ, xem nhẹ việc học tập lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên,
đoàn viên.
Các thế lực thù địch tung ra
luận điệu đòi tách rời chủ nghĩa Mác – Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm
tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Vì vậy, việc kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là quan điểm có tính nguyên tắc để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao phẩm chất, trình độ, năng
lực của mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần làm thất bại mọi mưu đồ chống phá cách
mạng Việt Nam.
Kiên quyết phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”
Phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” vốn là công việc rất khó khăn, phức tạp, vì nó liên quan tới vấn đề tư tưởng, biểu hiện âm thầm, gặm nhấm dần lòng tin, xói mòn dần phẩm chất đạo đức của cá nhân, tổ chức. Trong thực tế thì hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng liên quan cả gián tiếp và trực tiếp tới công tác xây dựng tổ chức, xây dựng con người, công tác cán bộ v.v..
Hơn nữa, khi thực hiện
nhiệm vụ này rất dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của mỗi con người.
Tuy khó nhưng không thể không làm, vì vấn đề này có liên quan đến sinh mệnh
chính trị, uy tín của Đảng và sự tồn vong chế độ. Bởi thế, ngoài quan điểm tích
cực và chủ động thì việc kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là rất quan trọng. Nếu
không kiên quyết trong phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" thì việc thực hiện sẽ trở nên “nửa vời” và không đạt được mục tiêu, yêu
cầu đề ra.
Để thể hiện tính kiên quyết trong phòng, chống "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" thì trong quá trình thực hiện phải
nắm vững nguyên tắc kỷ luật tự giác, nghiêm minh của Đảng, chống phải đi đôi
với xây và phải lấy xây làm chính. Cần phải tiến hành đồng bộ, toàn diện đối
với mọi tổ chức, cá nhân, gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh, phê bình với các
biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế.
Việc tạo ra phong trào và hành động cụ thể, thiết thực
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khi đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là rất cần thiết.
Có một số vấn đề cần tập trung, đó là: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp, vấn đề này
đã được Đảng ta chú trọng thực hiện trong thời gian qua và đã thu được những
kết quả nhất định; kiên quyết sử dụng nhiều biện pháp để đấu tranh phòng, chống
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; kiên quyết thực hiện phê
bình, tự phê bình. Khi có dấu hiệu vi phạm thì dù cán bộ ở cương vị nào cũng
cần phải được kiểm điểm, phê bình, xử lý kịp thời, mạnh mẽ, không "dĩ hòa
vi quý", không nể nang, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, không có vùng cấm,
không loại trừ cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp cao tự coi mình là "bề
trên", đứng ngoài tổ chức. Những biểu hiện, những đối tượng như thế càng
phải kiên quyết trong đấu tranh, khắc phục, loại trừ, bởi đó thực sự là
"mầm họa" của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", là
nguyên nhân sâu xa nhưng trực tiếp dẫn tới làm ảnh hưởng đến uy tín, vai trò
lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc xây dựng nền tảng đạo đức xã hội lành mạnh
Với tư cách là lực
lượng dẫn dắt xã hội phát triển văn minh, tiến bộ, đội ngũ cán bộ, đảng viên
không chỉ có trách nhiệm xây dựng nền tảng tinh thần đạo đức xã hội lành mạnh
mà còn phải là lực lượng tiên phong trong đấu tranh, phòng ngừa, đẩy lùi, ngăn
chặn các tệ nạn xã hội, các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội.
Muốn làm tốt việc
này, trước hết đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần chú trọng học tập, thấm nhuần
những giá trị văn hóa truyền thống, đạo đức tốt đẹp của dân tộc; tự giác tu
dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, không bị lôi
kéo vào các tệ nạn xã hội như mại dâm, dâm ô, cờ bạc, mê tín dị đoan; gương mẫu
chấp hành nội quy, quy ước, hương ước về nếp sống văn hóa tại cộng đồng nơi cư
trú; vận động gia đình, người thân và nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phường, xã văn minh...
Để tệ nạn xã hội xâm
nhập vào một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy và chính quyền các cấp không thể
vô can. Vì vậy, đi đôi với việc đề cao vai trò tự giác, gương mẫu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, cơ quan,
đơn vị cần quan tâm chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thường xuyên
tổ chức các hoạt động văn hóa bổ ích nhằm tạo ra không gian sống tích cực cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cùng với đó, cần làm tốt công tác giáo dục, quản
lý cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi; phối hợp với chính quyền, đoàn thể,
nhân dân địa phương tăng cường giám sát cán bộ, đảng viên nơi cư trú; tránh để
“khoảng trống trận địa quản lý” khiến cán bộ, đảng viên vi phạm tệ nạn xã hội
mà không biết.
Theo Phó thủ tướng Vũ
Đức Đam, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, nhiều nước trên thế giới thời gian đầu quá chú trọng phát
triển kinh tế mà không chú ý đến môi trường, khi nhận ra thì mất hàng chục năm
và nhiều phần trăm GDP để khắc phục. Nhưng muộn hơn nữa, khi nhận ra hệ quả của
việc không chú ý đến văn hóa, đạo đức xã hội thì phải mất hàng thế hệ và có khi
mất nhiều lần mức tăng trưởng kinh tế mới có thể khắc phục được.
Để không lặp lại “vết
xe đổ” đó, chúng ta càng phải chú trọng quan tâm xây dựng nền tảng văn hóa, đạo
đức lành mạnh cho xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn
hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống chính trị, vào mỗi tổ chức, cơ quan,
đơn vị, mỗi gia đình và cá nhân. Đây là “bức tường thành” có thể phòng ngừa
hiệu quả các tệ nạn xã hội. Nhất là trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ gìn và phát huy các chuẩn mực đạo đức,
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc sẽ góp phần bảo đảm cho xã hội nói
chung, mỗi người nói riêng được phát triển tiến bộ, cân bằng, bền vững.
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Quốc phòng, quân sự là lĩnh vực ứng
dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học và công nghệ (KHCN) tiên tiến, hiện đại.
Các cuộc chiến tranh nếu xảy ra trong tương lai, đều là chiến tranh sử dụng vũ
khí trang bị kỹ thuật (VKTBKT) công nghệ cao, quy mô lớn, cường độ cao. Chính
vì vậy, xây dựng QĐND Việt Nam, trong thời đại CMCN 4.0, cần tìm tòi đề xuất
những giải pháp thiết thực, mang tính khả thi, đáp ứng với quá trình từng bước
hiện đại hóa.
Thứ nhất, xây dựng QĐND Việt Nam có
bản lĩnh chính trị vững vàng, chủ động ứng phó với sự tác động đa chiều của quá
trình hội nhập quốc tế, trong điều kiện CMCN 4.0. QĐND là một bộ phận cấu thành
của xã hội, do đó, trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, những mặt trái
của cơ chế thị trường và lối sống đồi trụy, xấu độc của các nền văn hóa ngoại
lai đều có thể thâm nhập vào quân đội, thông qua giao tiếp, hệ thống internet,
điện thoại thông minh... Đây là vấn đề phức tạp, nếu các cấp lãnh đạo, chỉ huy
xem nhẹ, quản lý không chặt chẽ sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Vì vậy,
quá trình xây dựng QĐND về chính trị tinh thần, cần triển khai nhiều nội dung
và phương pháp mới phù hợp hơn.
Các biện pháp cụ thể, một là, chú
trọng hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, kinh tế,
chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học cho đội ngũ cán bộ các cấp. Đặc
biệt là đội ngũ sĩ quan cao cấp, nhằm nâng cao trình độ lãnh đạo, chỉ huy và
khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, các phương tiện công nghệ cao, khi tham
gia đóng góp cho các chương trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong
Quốc hội, HĐND, cấp ủy đảng địa phương theo cơ cấu các cấp huyện, tỉnh, thành
phố. Hai là, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chính trị, bên cạnh việc
làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, cần bồi dưỡng kỹ
năng giao tiếp, trình độ hiểu biết về chính trị-xã hội trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước cho cán bộ, chiến sĩ. Ba là, tích cực
chủ động tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao ý
thức cảnh giác cách mạng, tham gia phòng, chống có hiệu quả âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta.
Thứ hai, tích cực, chủ động đầu tư
mua sắm VKTBKT hiện đại, ứng dụng nhanh những thành tựu KHCN vào quá trình huấn
luyện, SSCĐ và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra
trong tương lai, sẽ là chiến tranh sử dụng VKTBKT công nghệ cao, muốn giành
thắng lợi trong cuộc chiến tranh này, phải chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ thời bình.
Nền công nghiệp quốc phòng nước ta chưa sản xuất được nhiều các loại VKTBKT
công nghệ cao, việc đầu tư ngân sách để mua sắm là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên,
việc mua sắm phải gắn với quá trình cải tiến, nâng cấp VKTBKT và đào tạo, huấn
luyện SSCĐ bằng phương pháp, mô phỏng VKTBKT hiện đại, huấn luyện theo cách
đánh của ta. Có thực hiện tốt điều này mới bảo đảm được tính bí mật, bất ngờ
của VKTBKT khi tác chiến xảy ra.
Các biện pháp cụ thể, một là, chủ
động mở rộng đối tác để mua sắm VKTBKT hiện đại của thế giới, nhưng có giá cả
hợp lý so với điều kiện kinh tế của đất nước. Hai là, tăng cường đầu tư vốn và
công nghệ cho hoạt động nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, công nghệ, nâng cao tính
năng kỹ thuật, chiến thuật tạo ra yếu tố bí mật bất ngờ trong tác chiến bằng
VKTBKT công nghệ cao bảo vệ Tổ quốc. Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp và
phương tiện huấn luyện SSCĐ theo hướng hiện đại nhằm nâng cao trình độ tác
chiến, làm chủ VKTBKT công nghệ cao cho các quân chủng, binh chủng đã được hiện
đại hóa. Bốn là, tích cực ứng dụng KHCN hiện đại vào cải tiến tất cả các khâu,
các bước nhằm thực hiện tốt công tác bảo quản, bảo dưỡng và phù hợp hóa VKTBKT
hiện đại với khí hậu nước ta, tránh hư hỏng, xuống cấp, hoặc để xảy ra các tai
nạn đáng tiếc, nhất là lĩnh vực hàng không quân sự.
Thứ ba, đẩy mạnh hội nhập vào nền
quốc phòng thế giới và khu vực, nâng cao trình độ về mọi mặt nhằm ứng phó hiệu
quả với các vấn đề an ninh phi truyền thống và truyền thống có thể xảy ra. Cùng
với tiến trình hội nhập về kinh tế, chính trị, nền quốc phòng nước ta đang từng
bước hội nhập khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng, trong thời đại CMCN 4.0.
Đến nay, nước ta đã có quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ,
trong đó có Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu và các nước thường trực Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc. Hội nhập về quốc phòng cùng một lúc đạt được nhiều kết
quả thiết thực, một mặt, nền quốc phòng nước ta có điều kiện mở rộng giao lưu,
học hỏi tận dụng kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ của những nền quốc phòng tiên
tiến hàng đầu khu vực và thế giới; mặt khác, tạo điều kiện cho nền quốc phòng
nước ta tham gia tích cực, có trách nhiệm với khu vực, thế giới trong các hoạt
động phòng, chống an ninh truyền thống và phi truyền thống, đòi hỏi trình độ
công nghệ cao, quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Thực hiện nội dung này, trước hết,
Bộ Quốc phòng cần tham mưu cho Đảng, Nhà nước về chiến lược, quy trình, kế
hoạch từng bước hội nhập quốc phòng thế giới và khu vực. Hai là, tích cực, chủ
động tham gia các cơ chế hợp tác về quốc phòng khu vực ASEAN (ADMM) và ADMM+,
trên cơ sở đó mở rộng hợp tác quốc phòng với các nước trên thế giới. Ba là, chủ
động chuẩn bị về con người, VKTBKT nhằm thực hiện tốt các hoạt động diễn tập,
tiến hành phòng, chống an ninh phi truyền thống trong khu vực, thế giới, tham
gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các hoạt động vì hòa bình,
hạnh phúc và phát triển của khu vực và trên thế giới.
Cuộc CMCN 4.0 đang đặt ra nhiều vấn
đề mới cho xây dựng QĐND Việt Nam, cần được quan tâm thực hiện. Các vấn đề nêu
trên có mối quan hệ nhân quả, nếu được thực hiện đồng bộ, nhất quán, nhất định
sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng QĐND ngày càng vững mạnh,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hướng về kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Với tầm cao trí tuệ, tuyệt vời và kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn phong phú Bác Hồ và Đảng ta đã nắm chắc thời cơ cách mạng, kịp thời đề ra
chủ trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa, động viên sự đoàn kết nhất trí của toàn
dân tộc, để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tháng 8-1945, phát xít Đức đầu
hàng đồng minh, ở Đông Dương quân Nhật hoảng loạn, phong trào cách mạng cả nước
sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Bác Hồ đã khẳng định,
lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu cũng phải giành cho được độc
lập. Và "Cần phải tranh thủ từng giây, từng phút tình hình sẽ biến chuyển
nhanh chóng, không thể để lỡ cơ hội".
Nắm chắc thời cơ đó Bác Hồ và Trung ương Đảng đã chuẩn bị gấp
và triệu tập hội nghị toàn quốc của Đảng và đại hội đại biểu quốc dân ở Tân
Trào. Tại đây, Người đã chủ trương phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trước khi quân đồng minh vào nước ta giải giáp quân đội Nhật. Ngay
sau đó, Bác Hồ đã gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tới đồng bào cả nước, trong
đó khẳng định "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy dùng sức ta mà giải phóng cho ta... Tiến lên! Tiến lên! Dưới
lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!...". Đáp ứng lời kêu gọi
của Bác Hồ và Đảng ta, nhân dân ta triệu người như một tiến hành cuộc Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám thành công.
Ngay sau khi thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám Bác Hồ
đã soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, quyết định ngày ra mắt quốc dân và tuyên bố sự
ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 02-9-1945, trước khi quân đồng
minh vào nước ta giải giáp quân Nhật. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự
ra đời của nước Việt Nam mới là một trong những thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất
của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo
sáng suốt, đúng đắn và công lao to lớn của Bác Hồ. Công lao trời biển của Bác Hồ
đối với cách mạng nước ta nói chung và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nói
riêng, luôn trường tồn cùng lịch sử dân tộc, sống mãi trong lòng nhân dân ta,
đã, đang và sẽ là những chỉ dẫn quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay.
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề ngôn ngữ
Thời gian qua, bên cạnh việc bịa đặt, vu khống về tình hình
tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam để chống phá Đảng, Nhà nước ta, một số cá
nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí còn thường xuyên lợi dụng và
đẩy mạnh việc chính trị hóa, quốc tế hóa các vấn đề dân tộc nhằm tạo cớ gây sức
ép và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Trong đó chúng lợi dụng những bất cập trong vấn đề bảo tồn
và phát triển ngôn ngữ của các tộc người ở một vài địa phương, kêu gọi việc cần
phải tổ chức hội thảo quốc tế về người dân tộc thiểu số nhằm khơi gợi, kích động
tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Nhiều nội dung
xuyên tạc đã được chúng đăng tải trên một số tạp chí hải ngoại, mạng xã hội để
kêu gọi dư luận quốc tế “lên tiếng” về vấn đề người dân tộc thiểu số tại Việt
Nam. Tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với người
Kinh, bôi nhọ, hạ thấp uy tín những chức sắc, sư sãi yêu nước, tiến bộ, từ đó
kích động ly khai, kêu gọi người dân tham gia đấu tranh thành lập cái gọi là
“Nhà nước Khmer Krôm”... Đó là những âm mưu thâm độc, thủ đoạn tinh vi nên cần
phải vạch trần và đấu tranh phản bác có hiệu quả.
Thực tế, từ khi thành lập nước đến nay, chính sách về bảo tồn
và phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước
luôn nhất quán trong công tác chỉ đạo và thực hiện. Điều này được khẳng định
trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cũng như nhiều văn bản pháp luật của
Quốc hội và Chính phủ. Tại khoản 3 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ngôn ngữ
quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn
bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp
của mình”...
Số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2021, tại Việt Nam, hơn
90% hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe các chương trình Đài
Tiếng nói Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Các chương trình
phát thanh và kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương được phát sóng với
26 thứ tiếng dân tộc đã đến được với bản làng xa xôi.
Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan
trọng để chúng ta vạch trần, phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc của các cá
nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí. Mỗi chúng ta tiếp
tục nâng cao cảnh giác, hết sức tỉnh táo, giữ “cái đầu lạnh” trước
những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng phản động./.
Lan tỏa sức sống và giá trị Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một trong những thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Ngược dòng lịch sử để trở về những
ngày mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của 76 năm trước để ôn lại những bài
học lịch sử quý báu còn nguyên giá trị đến ngày nay là việc làm cần thiết để kết
nối giữa quá khứ với hiện tại.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám là thành quả của
một quá trình đấu tranh lâu dài, kiên cường, bất khuất của nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Thắng
lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động của thắng lợi trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam, của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho thấy nội dung, giá
trị tư tưởng của Người về giải phóng và phát triển, nhằm mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng
điển hình được tiến hành bằng sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng,
thông qua mặt trận Việt Minh-hình ảnh trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy
đem sức ta mà giải phóng cho ta” chính là tiếng gọi của non sông, là lời hịch sống
dậy tài dân và sức dân từ trong chiều sâu lịch sử của dân tộc ngàn năm văn hiến
với dòng chảy chủ lưu là truyền thống yêu nước.
Về tinh thần dân tộc thể hiện
trong sự đoàn kết để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Toàn bộ tinh thần dân tộc được
tích lũy trong tiến trình lịch sử và tiếp tục nhân lên trong gần một thế kỷ
oanh liệt chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít và chế độ phong kiến để
đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Tất cả tinh thần dân tộc được tích hợp
trong tiến trình đó lại hội tụ ở Hồ Chí Minh rồi tỏa sáng trong Bản Tuyên ngôn
Độc lập do Người khởi thảo để tuyên bố trước thế giới về sự ra đời của nước Việt
Nam mới-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khẳng định về sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chủ trương đoàn kết,
tập hợp lực lượng của Mặt trận Việt Minh góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị
lực lượng cách mạng, chuyển cách mạng Việt Nam sang thời kỳ cao trào và tiến
lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Có thể nói, Mặt trận Việt
Minh ra đời là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm thực hiện chiến lược
đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám. Chính nhờ việc xây dựng có hệ
thống vững chắc, rộng khắp, các tổ chức quần chúng yêu nước trong Mặt trận Việt
Minh mà cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra thuận lợi, nhanh chóng
và ít đổ máu.
Nhận định thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là minh chứng của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thể
hiện tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Là cuộc cách mạng điển hình về tinh thần
chủ động, sáng tạo, biết tranh thủ thời cơ chung, tự mình đứng lên giải phóng
cho mình; đồng thời cũng cho thấy những quyết định đúng đắn, sáng tạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Người không chỉ hoạch định đường lối, xây dựng lý luận cách mạng
giải phóng dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội mà còn là người tổ chức, kiến tạo
phong trào cách mạng, tìm đường, mở đường, dẫn đường và định hướng sự phát triển
của đất nước trong tương lai.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở khu
vực Đông Nam Á, đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong tiến trình phát triển
của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả đấu tranh
kiên cường, bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình,
sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Phát huy giá trị tinh thần của
Cách mạng Tháng Tám
Tự hào được hàng ngày làm việc tại
nơi đã ghi dấu chân Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc-Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mùa
thu Tháng Tám lịch sử mãi là những trang sử hào hùng, ghi dấu truyền thống đấu
tranh anh hùng, bất khuất, biểu tượng sáng ngời ý chí quật khởi của cả dân tộc
còn vang dội đến hôm nay và mai sau, là động lực tiếp thêm sức mạnh và niềm tin
chiến thắng để thế hệ hôm nay được sống trong hòa bình, viết tiếp trang sử vẻ
vang của đất nước. Quá khứ hào hùng và âm vang lịch sử từ mùa Thu năm 1945 vọng
về trở thành điểm tựa tinh thần cho đất nước ta vững vàng trên con đường hội nhập
và phát triển bền vững, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự
kiện có tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, là nguồn cổ vũ, động viên
to lớn đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới
vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ý nghĩa và
tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám không chỉ đóng khung trong một thời điểm,
không gian nhất định mà ngày càng lan tỏa cao rộng hơn cùng với tiến trình phát
triển của đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những
trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Giá trị to lớn và ý nghĩa đặc biệt
sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945-văn bản
pháp lý đặt cơ sở cho việc thiết lập Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục
tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm
1945 mãi mãi là một trang sử vàng sáng chói. Nhìn lại quá hào hùng để tưởng nhớ
công lao to lớn, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và
phong trào cách mạng thế giới đồng thời góp phần lan tỏa giá trị to lớn cũng
như ý nghĩa đặc biệt sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và Bản Tuyên ngôn Độc lập.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá được cả thế giới công nhận và ngưỡng mộ. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở Việt Nam. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói và việc làm của Người trong quan hệ với đồng chí, đồng bào, với bạn bè quốc tế... trên các cương vị khác nhau khi là nhà báo, lúc là nhà văn, nhà thơ, hay trên cương vị Chủ tịch nước, ở Người đều toả ra ánh hào quang văn hoá, đó là kết tinh của những giá trị văn hoá tốt đẹp nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Mang trong mình truyền thống văn hoá Phương Đông, lại được
tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhiều dân tộc trên thế giới, đặc
biệt là ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, với phẩm chất thiên tài, Hồ
Chí Minh đưa ra cách hiểu văn hoá rất rộng, rất sâu sắc và khái quát cao, song
cũng rất cụ thể và dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Mặc dù đã có rất nhiều khái
niệm, định nghĩa về văn hoá khác nhau, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa ra một định
nghĩa về văn hoá rất gần với cách hiểu mà 40 năm sau (1982) UNESCO mới nêu lên.
Trong mục “Đọc sách” ở phần cuối tập “Nhật ký trong tù” (1942-1943), Người đã
viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn
hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”. Chính văn hoá được hiểu theo nghĩa như vậy mới có thể được đóng vai
trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội” như Đảng ta đã khẳng định.
Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã khái quát được nội dung đầy
đủ nhất, rộng nhất, mang đầy đủ nội hàm của phạm trù văn hoá. Theo đó, văn hoá
được hiểu là toàn bộ sáng tạo những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần
của con người trong quá trình tồn tại sinh sống và phát triển. Nguồn gốc và động
lực sâu xa của văn hoá chính là nhu cầu của con người, khác với loài vật, nhu cầu
của con người (bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần) luôn luôn thay
đổi, con người không bao giờ bằng lòng với những cái mà tự nhiên ban tặng và những
gì đã có. Chính điều đó, đã thúc đẩy con người hoạt động và sáng tạo,
cải tạo tự nhiên và xã hội, tạo ra không gian và điều kiện sinh tồn cả vật chất
lẫn tinh thần phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu cho mình. Đó cũng chính là quá
trình sáng tạo văn hoá của con người. Theo nghĩa đó, ở đâu có con người và hoạt
động của con người thì ở đó có văn hoá. Văn hoá là sự phát huy và hiện thực hoá
các năng lực bản chất của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hoá
đồng thời văn hoá là phương thức sinh tồn, là môi trường sống của con người.
Con người không thể tồn tại và phát triển với tính cách là con người được nếu
tách khỏi môi trường văn hoá và thực tế lịch sử phát triển của con người luôn gắn
liền với lịch sử phát triển của văn hoá. Tư tưởng đó cho chúng ta thấy rằng tồn
tại xã hội bao giờ cũng quyết định ý thức xã hội, yếu tố vật chất quyết định yếu
tố tinh thần, theo đúng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Mặt khác, theo quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá, thì văn
hoá bao gồm hai lĩnh vực cơ bản đó là, văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
Bên cạnh những sản phẩm tinh thần như: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... văn hoá còn bao hàm các sản phẩm vật
chất phục vụ cho đời sống con người như các công cụ, các phương tiện đáp ứng
nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp...Tuy nhiên, văn hoá vật chất thực ra là
vật thể hoá các giá trị tinh thần. Mỗi sản phẩm vật chất đều thể hiện sự tài
hoa, lý tưởng thẩm mỹ của con người, của những chủ thể sáng tạo ra chúng.
Như vậy, có thể nói Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm hết sức
khoa học và dễ hiểu về văn hoá. Quan niệm đó không những vạch ra những dấu hiệu
đặc trưng của văn hoá mà còn bao quát được toàn bộ các hoạt động và các hiện tượng
văn hoá trong đời sống con người. Vì vậy, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá
hiện nay vẫn còn nguyên giá trị trong việc nhận thức các hiện tượng văn hoá của
đời sống xã hội.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn là điểm tựa
tinh thần vững chắc, là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân ta đưa sự
nghiệp cách mạng đến thành công.
NHẬN THỨC SÂU SẮC SỰ KIỆN CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước
vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên
chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát
xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến
tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão
vào quân đội Nhật.
Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến
tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh,
sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải
giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng
khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn
sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính
quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945,
phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính
hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết
định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi
các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng
3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”.
Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng
Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang
thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ
chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra
mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng
về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị
Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới
sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.
Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên
Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định
phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai
trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi
nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945,
Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa.
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua
“10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định
quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ
Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu
gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân
cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ
ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị
xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa
giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội.
Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa
Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc
Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng,
Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù
Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử,
trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc
dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam).
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng trọng
đại đối với vận mệnh của dân tộc. Nó tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của
cha ông thuở trước. Chí khí hào hùng của nhân dân ta trong thơ Lý Thường Kiệt
"Nam Quốc Sơn Hà"; trong "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi
vẫn thắm đượm trong từng lời, từng chữ của Tuyên ngôn.
Tuyên ngôn Độc lập là bản hùng ca viết tiếp những trang sử
huy hoàng của ngàn năm về trước, đã đánh dấu thắng lợi của một thế kỷ ngoan cường
chống Thực dân và Phong kiến và mở ra một kỷ nguyên mới trên đất nước ta. Tuyên
ngôn Độc lập chẳng những đã khai sinh một nhà nước - nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới, mà còn báo hiệu
sự thành lập một chế độ xã hội mới - chính quyền công nông đầu tiên ở khu vực
Đông Nam châu á.
Từ đây với tư cách người chủ thực sự của đất nước, nhân dân
Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã kiên cường đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến. Ba mươi năm sau ngày "Tuyên ngôn Độc lập",
năm 1975, Đảng ta, quân dân ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải
phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi sự nghiệp cách mạng dân tộc - dân
chủ, tiến hành thống nhất nước nhà.
Tổ quốc ta được độc lập, nhân dân ta đời đời được tự do,
tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối
óc của mỗi người dân Việt Nam. Với ý nghĩa và tầm vóc lớn lao đó, ngày 2 tháng
9 trở thành ngày hội lớn của dân tộc, ngày Quốc khánh của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.
Suốt 77 năm qua, lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh như vẫn
còn vang vọng sang sảng, đầy kiêu hãnh và tự hào từ quảng trường Ba Đình lịch sử.
Tinh thần bất diệt của Cách mạng tháng Tám, chủ nghĩa yêu nước nồng nàn và tư
tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do của Người không ngừng được toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta truyền lửa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong những năm qua, Đảng luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân lên hàng đầu, điều đó được
khẳng định qua những thành tựu to lớn của hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng
ta đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào trong tất cả mọi lĩnh vực từ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế không ngừng được củng cố và nâng cao.
Đời sống của nhân dân được cải thiện từng ngày, cơ sở hạ tầng
của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng một bước đáng kể, các phong trào đền ơn
đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo được các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp
nhân dân đặc biệt quan tâm và ủng hộ nhiệt tình đã phát huy hiệu quả. Song con
đường cách mạng không phải chỉ có hoa hồng, đoạn đường sắp tới còn nhiều chông
gai, nhất là những khó khăn thách thức của nền kinh tế nước ta trong quá trình
hội nhập. Một lần nữa, bài học về sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân lại được Đảng ta đặt lên hàng đầu để toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ra sức
thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng, vì một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin hiện nay
Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Điều này đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu hiện sinh động trên thực tế.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng thời
gian vừa qua, quan điểm về internet, mạng xã hội và tham gia mạng xã hội của
một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do
internet, tự do mạng xã hội là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi
với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia mạng xã hội. Do cách nhìn
thiên về mặt trái của mạng xã hội nên vẫn có người nhìn nhận mạng xã hội với
thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã
hội, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ mạng
xã hội.
Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo,
xuyên tạc, bịa đặt qua mạng xã hội là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên
thời gian qua. Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước
những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có
tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người
đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ
và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố
tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng
vào trang mạng xã hội của mình. Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên
tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham
gia mạng xã hội. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần
thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có
cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như
thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách
nhiệm... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất
nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động,
làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an
ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực
hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua mạng xã hội để “bày tỏ quan điểm cá nhân”
nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị
xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản
động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do
internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác
là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa
là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do mạng xã hội là nhiệm vụ
của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự
do mạng xã hội chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục
vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp
luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải
xử lý nghiêm minh.
Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc
trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ
tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân,
nhất là người tham gia mạng xã hội cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để
tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn
tin giả.Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng
lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự
thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia
sẻ. Có thể ví mạng xã hội như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin,
hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả,
hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành
những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ
cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh
táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại
"bão" thông tin này.
Nhận thức âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng và nhân quyền ở nước ta hiện nay
Có thể thấy, Việt
Nam là một quốc gia đa tôn giáo, kể cả tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập.
Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
đời, trong bản Hiến pháp đầu tiên cũng đã khẳng định: “Tất cả quyền binh trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” hay: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”.
Quyền tự do tín ngưỡng của công dân không chỉ thể hiện trong văn bản pháp lý có
giá trị cao nhất ngoài ra Đảng ta còn dành sự ưu ái, tin tưởng đặc biệt đối với
đồng bào, nhân sỹ, trí thức là người các tôn giáo trong khắp cả nước. Chính vì
vậy, trong chiến lược diễn biến hòa bình của mình, các thế lực luôn tìn mọi
cách, lợi dụng vào quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để chống phá lại Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Để thực hiện được
âm mưu của mình, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước,
lấy chữ “tự do” trong tín ngưỡng tôn giáo và phớt lờ đi cụm từ “ trong khuôn khổ
của pháp luật” để tuyên truyền, thành lập nhiều đạo giáo trái với luân thường đạo
lý của dân tộc mà gần đây là Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Pháp Luân Công và đặc biệt
là tà đạo Hội Thánh đức Chúa Trời. Đồng thời, chúng coi tôn giáo như là công cụ
“đối trọng” với Đảng, sử dụng tôn giáo như một ngồi nổ chống phá Cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới, phổ biến trong nhân dân và tuyệt đối hóa quan điểm
“nhân quyền cao hơn pháp quyền”, kêu gọi nhân dân biểu tình đòi dân chủ, chống
lại người thi hành công vụ từ đó chụp ảnh, ghi hình truyền bá rộng rãi trên các
trang mạng xã hội để bóp méo sự thật, cho rằng nhân quyền dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là giả tạo.
Trong thời gian tới,
các thế lực thù địch, phản động lưu vong, số cơ hội chính trị, phần tử xấu vẫn
sẽ tiếp tục lợi dụng tôn giáo với nhiều hình thức, thủ đoạn mới để lôi kéo, tập
hợp lực lượng, tiếp tục hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tiếp tục
chỉ đạo từ bên ngoài, móc nối với những phần tử chống đối ở trong nước xây dựng
cơ sở, tìm cách tái phục hồi các hoạt động chống đối. Do vậy, nhìn chung tình
hình mọi mặt về cơ bản là tiếp tục ổn định, song vẫn tiềm ẩn những nhân tố có
thể gây mất ổn định, khó lường trước, cần hết sức quan tâm, không thể xem thường.
Trước những âm
mưu, thủ đọan vô cùng thâm độc đó, các cơ quan tổ chức nhà nước có thẩm quyền cần
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục trong toàn thể nhân dân để người dân
nắm rõ và có biện pháp phòng tránh, tránh bị lợi dụng, lôi kéo. Đồng thời phải
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các thông tin trên các trang mạng xã hội,
kịp thời ngăn chặn thông tin xấu, độc lan truyền. Từng cá nhân phải nhận thức
rõ và luôn quán triệt nghiêm túc quan điểm “ tự do tín ngưỡng phải trong khuôn
khổ của pháp luật”, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, đề
cao cảnh giác từ đó chấp hành tốt các quy định của Đảng, Nhà nước ta.
THẤM NHUẦN TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, song tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vĩ đại của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Thực tiễn những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã chứng minh sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển của
dân tộc Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ý
nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng đã vượt ra ngoài biên
giới quốc gia và trở thành một phần giá trị của văn hóa nhân loại. Việt Nam
đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh
thuận lợi và thách thức đan xen, nhất là khi tình hình thế giới, khu vực và
trong nước đang diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời
sống xã hội. Thực tế, hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, con
đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã
hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển; đồng thời, những thành tựu đã đạt được
về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận; không chỉ phản ánh quy luật khách
quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản mà còn
phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi trường tồn cùng
dân tộc và thời đại vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, được minh chứng qua
thực tiễn cách mạng Việt Nam và ngày càng tỏa sáng, in sâu trong trái tim, khối
óc của hàng triệu triệu con người. Vì thế, việc tiếp tục giương cao ngọn cờ tư
tưởng Hồ Chí Minh; việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam không
chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi mà còn góp phần giữ vững bản chất của một
Đảng chân chính, cách mạng.
Những điểm chú ý khi chia sẻ thông tin trên mạng xã hội hiện nay
Sự phát triển mạng xã hội hiện nay bên cạnh mặt tích cực, cũng mang lại nhiều hệ quả tiêu cực, tác hại không hề nhỏ đối với xã hội, trong đó có quân đội ta. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch, phản động luôn coi mạng xã hội là một trong những phương tiện hữu hiệu để tuyên truyền tác động chuyển hóa tư tưởng nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội… Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên trong quân đội cần phải có những kỹ năng cần thiết trong chia sẻ thông tin trên mạng xã hội để góp phần nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, cho nhân dân trước những thông tin xấu độc, sai trái; góp phần quan trọng giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Quá trình chia sẻ thông tin trên mạng xã hội cần chú ý một số vấn đề sau:
Trước hết mỗi cán
bộ, đảng viên cần đứng vững trên lập trường của Đảng, quán triệt và nắm vững đường
lối, chủ trương của Đảng, Pháp luật Nhà nước để có cơ sở đấu tranh với các
thông tin xấu độc, các quan điểm sai trái và để việc chia sẻ các thông tin
không bị các thế lực thù địch lợi dụng.
Mặt khác, cần nắm
vững tính năng, tác dụng, phương pháp chia sẻ trên mạng xã hội để phát huy một
cách hiệu quả việc lan truyền các thông tin tốt đẹp, những việc làm cao thượng
và các bài viết đấu tranh “chống diễn biến hòa bình” trên mạng xã hội.
Bên cạnh đó, cán
bộ, đảng viên cần tìm hiểu chính xác thông tin cần chia sẻ: đó là thông tin về
vấn đề gì; phạm vi thông tin; thời gian cung cấp thông tin. Cần xác định thông
tin chính, thông tin có tác dụng bổ trợ, giải thích, thuyết phục, chứng minh...
cho thông tin chính, những thông tin mang tính chất tham mưu, tư vấn.
Xác định rõ mục
đích chia sẻ thông tin. Chia sẻ thông tin là để thể hiện quan điểm cá nhân, đồng
tình hoặc không đồng tình, với một vấn đề nào đó hoặc để mọi người cùng biết về
thông tin đó nhiều hơn. Chia sẻ để tuyên truyền hay đấu tranh với các quan điểm
sai trái để từ đó lựa chọn hình thức, phương pháp chia sẻ cho phù hợp. Chú ý lựa
chọn đối tượng để chia sẻ thông tin cho phù hợp: Chia sẻ rộng rãi, trên dòng thời
gian của bản thân hay của một người bạn, trong nhóm…
Nâng tầm hiểu biết về sử dụng internet và mạng xã hội trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thời gian qua, quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết
số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới”, các Bộ, Ban, Ngành từ Trung ương đến địa phương đã huy động
mọi lực lượng vào tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trên không gian mạng, nồng cốt là các lực lượng như Cục An ninh mạng của Bộ
Công an, Bộ tư lệnh tác chiến không gian mạng, Lực lượng 47 của Bộ Quốc phòng,…
góp phần làm thất bại những âm mưu chống phá, lôi kéo, kích động nhân dân, chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng hiện nay.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ
Chính trị vẫn chưa thực sự thu hút đại đa số quần chúng nhân dân tham gia, nhất
là lực lượng đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam với hơn 5 triệu người nhưng số
đảng viên tham gia đấu tranh, bày tỏ quan điểm trước những luận điệu xuyên tạc,
sai trái, thù địch vẫn còn rất hạn chế. Công tác đấu tranh chống lại các quan
điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giường như chỉ đang
tập trung ở những cơ quan chức năng, những lực lượng nồng cốt, cá nhân chuyên
trách. Do vậy công tác đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vẫn chưa thực
sự đi vào chiều sâu và chất lượng, hiệu quả đấu tranh vẫn còn một số hạn chế.
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, là những con người ưu tú,
được vinh dự đứng vào hàng ngũ của những người cộng sản, là những người được thấm
nhuần Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên được học tập,
quán triệt những chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước. So với
những người dân bình thường thì khả năng nhận thức, trình độ hiểu biết tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội của một người đảng viên thường tốt hơn, sâu sắc hơn.
Mặc khác, cũng như mọi người dân bình thường khác các đồng chí đảng viên chúng
ta đại đa số cũng đều truy cập internet, tham gia mạng xã hội (MXH), bất kể là
cán bộ nghỉ hưu hay đương chức, đặc biệt là tham gia vào facebook, zalo,
youtobe, tiktok, khi mà những trang mạng xã hội này cùng với sự phủ sóng rộng
khắp của Internet thì nhà nhà dùng người người dùng.
Chúng ta thấy bên cạnh một số đảng viên tự tin đăng tải,
chia sẻ thông tin, hình ảnh từ các trang chính thống thể hiện quan điểm, ý
kiến cá nhân của mình về một vấn đề nào đó .. thì vẫn còn không ít
người thờ ơ, phớt lờ, vô cảm cả những vấn đề nóng mà xã hội đang quan
tâm.
Vậy thì vai trò của đảng viên ở đâu trên không gian
mạng này? ... Thực trạng "Thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không
lên án" đang diễn ra ở nhiều cơ quan, đơn vị... Qua tìm hiểu tình hình
thực tế cả trên Internet cũng như mạng xã hội như sau: Có nhiều người đảng
viên lặng lẽ vào mạng, dò, tìm, đọc, xem.. rồi âm thầm biến như chiếc
bóng. Với những bài hay, tích cực, nguồn chính thống, đàng hoàng..
cũng không thấy chia sẻ, bình luận hay đơn giản là ấn một nút like. Với
các thông tin tiêu cực, bức xúc, tệ hại, tin giả, tin giật gân ... xã hội
đang nói nhiều cũng chẳng thấy họ biểu hiện gì, chỉ thể hiện một thái độ
dửng dưng, vô cảm đến lạ lùng. Trao đổi với một vài đồng chí, họ cho biết
chỉ lên mạng đọc báo, lướt face, zalo, xem video cho vui thôi, chứ người ta nói
gì, viết gì, đăng tải gì cũng kệ, đấu tranh làm gì cho mệt mỏi, bình luận làm
gì cho phí thời gian, …
Chúng ta thường nghĩ: đã là đảng viên thì ít ra cũng
phải nhận thức được thông tin nào đúng, sai, tích cực, tiêu cực chứ?
Khi thấy hay, đúng, nguồn gốc rõ ràng ... thì cũng nên “thích”, “thả
tim”, “thương thương”. Hay gõ vài chữ động viên, cổ vũ nhau chứ? Còn thấy sai lệch,
hay nghi ngờ độ chính xác thì cũng nên “ngạc nhiên”, “buồn” hoặc “phẫn nộ”
hoặc tốt hơn nữa là báo cáo vi phạm – spam chứ! Xem, đọc, nghe rồi lặng lẽ
cho qua khác nào đồng tình, ủng hộ thông tin xấu đó rồi... bởi mặc
nhiên ông cha ta đã nói: “im lặng có nghĩa là đồng ý ”mà!
Thiết nghĩ, mỗi người đảng viên cần suy nghĩ, trăn trở
nhiều hơn về trách nhiệm của mình đối với Đảng, với Đất nước, với nhân dân, với
xã hội. Vào Đảng là để cống hiến, là cùng toàn thể đảng viên trong toàn Đảng
đoàn kết, chung tay vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, gương mẫu quán triệt, thực
hiện nghiêm túc, đồng thời tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước đến với nhân dân. Mỗi đồng chí tất nhiên sẽ có khả năng nhận thức,
trình độ hiểu biết, năng lực tham gia vào Internet, mạng xã hội khác nhau, tuy
nhiên khi đã tham gia vào Internet và mạng xã hội thì không thể thờ ơ, vô cảm với
những luồng thông tin được đăng tải trên đó, mặc dù chúng có thể là tiêu cực hoặc
tích cực, nhưng nếu chúng ta cứ im lặng thì cái tốt, mặt tích cực, tiến bộ chẳng
được lan tỏa, còn ngược lại cái xấu xa, tiêu cực lại hiển nhiên tồn tại và vô
tình ta cũng đã tiếp tay cho sự tồn tại của nó. Mong rằng tất cả mọi người nhất
là các đảng viên luôn là những nhân tố, những "tương tác viên"
tích cực trong xây dựng mối đoàn kết toàn dân trên không gian mạng, thực sự
là cầu nối giữa Đảng và nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng
hiện nay!