Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đã đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Bản Tuyên ngôn Độc lập đánh dấu sự kết thúc của chế độ thực
dân Pháp đã thống trị nước ta hơn 80 năm và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Tuyên ngôn Độc lập kết tinh các giá trị của dân tộc Việt Nam trong
quá trình dựng nước và giữ nước cũng như kế thừa và phát triển các giá trị của
các cuộc cách mạng trên thế giới trong đó có Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước
Mỹ và Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp năm 1791.
Nói về lịch
sử oanh liệt của dân tộc ta, trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội lần thứ
Hai của Đảng họp ở Tuyên Quang (tháng 2/1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước... Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến
vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những
trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung..."
Tinh thần
yêu nước đó đã được kế thừa và phát triển trong các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Ngay sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858, nhân dân cả nước ta đã
liên tiếp đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm.
Năm 1859 cuộc
khởi nghĩa do Lãnh binh Trương Định đã nổ ra ở Gò Công, Tân An kéo dài đến năm
1867; cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực tại Gia Định, Biên Hòa từ năm 1861
đến năm 1868 với lời nói hiên ngang của Nguyễn Trung Trực trước khi bị thực dân
Pháp xử tử tại Rạch Giá: “Bao giờ nước Nam hết cỏ thì mới hết người Nam đánh
Tây”. Phong trào Cần Vương do phe chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn đứng đầu
là Tôn Thất Thuyết dưới danh nghĩa Vua Hàm Nghi để ra Chiếu Cần Vương tố cáo âm
mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu, văn thân và
nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp Vua bảo vệ quê hương đất nước. Hưởng
ứng Chiếu Cần Vương gần 20 cuộc khởi nghĩa đã nổ ra trong cả nước. Những cuộc
khởi nghĩa của nhân dân ta với sự hy sinh to lớn song đều thất bại và bị dìm
trong bể máu. Các phong trào do các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi
xướng cũng không đưa đất nước ra khỏi cảnh nô lệ. Cho đến lúc này đất nước vẫn
trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Các cuộc khởi nghĩa,
các phong trào đều chưa có lời giải đáp đúng cho câu hỏi của dân tộc ta: Làm thế
nào để giành độc lập?
Chính Hồ Chí
Minh (lúc đó gọi là Nguyễn Ái Quốc) đã đưa ra câu trả lời và đã được lịch sử khảo
nghiệm là đúng đắn. Với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc
sáng lập và rèn luyện, cách mạng Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi. Mở đầu là
Cách mạng Tháng Tám đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với
Tuyên ngôn Độc lập lịch sử do Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày
2/9/1945. Là người quyết tâm "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập” nên ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho ngày tuyên bố độc lập. Ngày 23/8/194Ngày
23/8/1945 Hồ Chí Minh rời an toàn khu Việt Bắc về Hà Nội nghỉ và làm việc tại một
cơ sở cách mạng ở xã Phú Thượng, hôm sau chuyển đến ngôi nhà 48 Hàng Ngang, phường
Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là cửa hàng mang tên Phúc Lợi của gia đình ông
Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ - một doanh nhân buôn bán tơ lụa nổi tiếng
giàu có và yêu nước tại đất Hà Thành.
Tại đây, Hồ
Chí Minh chủ tọa cuộc họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng bàn việc mở rộng
thành phần Ủy ban Dân tộc Giải phóng, chuẩn bị bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức
cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để tuyên bố thành lập chính thể mới. Ngày 27/8/1945,
tại cuộc họp của Ủy ban Dân tộc Giải phóng, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch
Chính phủ lâm thời. Chiều hôm đó, Người đưa bản thảo Tuyên ngôn Độc lập để các
thành viên Chính phủ xét duyệt và đề nghị duyệt kỹ vì "không phải chỉ để đồng
bào cả nước ta nghe, mà còn cho cả Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cho cả các
nước đồng minh nghe". Từ ngày 28/8/1945, Hồ Chí Minh tập trung công sức
vào việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập và thường mời một số cộng sự như Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Khuất Duy Tiến... đến
bàn thảo. Cho đến tận ngày 31/8/1945 Người vẫn bổ sung một số điểm mới để hoàn
chỉnh dự thảo và tâm sự với các cộng sự: "Trong đời mình đã viết nhiều
nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy".
Cũng trong
thời gian này, Hồ Chí Minh đã tiếp và giới thiệu với Thiếu tá Archimedes L.A
Patti - chỉ huy đơn vị OSS (Mỹ) - về bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập và mời L.A.
Patti dự Lễ Độc lập. Trong chương 25 của cuốn hồi ký “Why Viet Nam?” (Vì sao Việt
Nam?) - cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2009 -
L.A.Patti kể về cuộc gặp Hồ Chí Minh: "Ông gọi một người ở buồng bên mang
bản thảo (Tuyên ngôn Độc lập) tới và cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch và
tôi chăm chú nghe. Khi đến đoạn “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng..., họ
đã được tạo hóa trao cho những quyền không thể nhượng lại được, trong đó có quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, tôi mới thấy các danh từ đã được
chuyển vị và tôi đã nhận xét là trật tự các chữ “tự do” và “quyền sống” đã bị
thay đổi. Ông Hồ nắm ngay lấy nhận xét đó và nói: "Đúng, không thể có tự
do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do”.
Nói về quang
cảnh ngày 2/9/1945 tại Hà Nội, cuốn sách có đoạn: "Từ sớm tinh mơ, dân
chúng Hà Nội từng đoàn lúc lớn lúc nhỏ, lũ lượt dần dần kéo đến cạnh quảng trường
Ba Đình. Ở nhiều chỗ là cả một khối dân chúng các làng ngoại ô. Đi theo trong
biển người đó, có cả toán dân miền núi với y phục địa phương của họ và nông dân
trong những bộ khăn áo cổ truyền"… Cũng trong cuốn sách này, L.A.Patti đã
bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Hồ Chí Minh: "Sự chân thành và tài hùng biện đầy
sức thuyết phục của ông Hồ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi…Đó là một
nhà lãnh đạo vô cùng thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, là một
người thấu tình đạt lý và vô cùng tinh tình đạt lý và vô cùng tinh tế".
Trong cuốn hồi
ký "Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ" của Jean Sainteny - một
sĩ quan Pháp có mặt tại Hà Nội ngày 2/9/1945 sau này là Đại diện toàn quyền Cộng
hòa Pháp tại Việt Nam (1954 - 1958) - cuốn sách đã được Nhà xuất bản Công an
nhân dân xuất bản bằng tiếng Việt năm 2005 - tác giả đã kể về ngày 2/9/1945 mà
ông được chứng kiến, trong đó có đoạn: “Những người diễu hành đi theo đại lộ
Brìere de l’Isle (đại lộ Hùng Vương ngày nay) ngay trước cổng dinh Toàn quyền,
và chúng tôi không thấy có một cử chỉ thù địch nào hướng về chúng tôi, cũng như
về phía dinh là tòa nhà tượng trưng cho chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.. Nhiều
linh mục đạo Gia-tô cũng tới dự, đứng ở vị trí cao. Trật tự trong buổi diễu
hành, và nhất là không thấy có những tiếng hò hét phản loạn, thù địch".
Nói về Hồ Chí Minh, tác giả viết: “Không còn nghi ngờ gì nữa, mục tiêu đích thực,
duy nhất, trước sau như một của Hồ Chí Minh là: Nước Việt Nam độc lập”. Trong
cuốn sách này, Jean Sainteny cho rằng: "Nước Pháp đã thất bại tại Việt Nam
vì Chính phủ Pháp đã không chịu trao trả độc lập cho người Việt Nam, như người
Anh đã làm với Ấn Độ năm 1948".
Bản Tuyên
ngôn Độc lập có 49 câu với 1.120 từ đã nói lên nguyện vọng của dân tộc Việt Nam
cũng như của các dân tộc khác trên thế giới, trong đó quyền sống hạnh phúc và
quyền tự do là những quyền cơ bản và không tách rời nhau thể hiện ở đoạn:
"Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Tư tưởng đó là nền tảng
cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng cuộc sống mới của nhân dân
Việt Nam như đã được nói trong Tuyên ngôn Độc lập: "Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy".
Ngày
5/9/1945, Báo Cứu quốc số 36, đăng toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập dưới đó ký
tên 15 thành viên của Chính phủ lâm thời gồm: Hồ Chí Minh (Chủ tịch), Võ Nguyên
Giáp, Trần Huy Liệu, Chu Văn Tấn, Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Tố,
Vũ Trọng Khánh, Phạm Ngọc Thạch, Đào Trọng Kim, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Đồng, Vũ
Đình Hòe, Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân.
Đến nay đã
77 năm trôi qua kể từ ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Thế giới và đất
nước đã đổi thay song những tinh thần cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn
nguyên giá trị. Tuyên ngôn Độc lập là kết quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám
- một cuộc cách mạng tất yếu, hoàn toàn không phải là một "cuộc đảo
chính", một sự kiện "ngẫu nhiên" hoặc "gặp may" như một
số người ngộ nhận. Tuyên ngôn Độc lập là ngọn đuốc soi đường cho nhân dân ta
không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn trong công cuộc đổi
mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Ngày
2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm
thời đã đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Bản Tuyên ngôn Độc lập đánh dấu sự kết thúc của chế độ thực
dân Pháp đã thống trị nước ta hơn 80 năm và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Tuyên ngôn Độc lập kết tinh các giá trị của dân tộc Việt Nam trong
quá trình dựng nước và giữ nước cũng như kế thừa và phát triển các giá trị của
các cuộc cách mạng trên thế giới trong đó có Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước
Mỹ và Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp năm 1791.
Nói về lịch
sử oanh liệt của dân tộc ta, trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội lần thứ
Hai của Đảng họp ở Tuyên Quang (tháng 2/1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước... Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến
vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những
trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung..."
Tinh thần
yêu nước đó đã được kế thừa và phát triển trong các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Ngay sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858, nhân dân cả nước ta đã
liên tiếp đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm.
Năm 1859 cuộc
khởi nghĩa do Lãnh binh Trương Định đã nổ ra ở Gò Công, Tân An kéo dài đến năm
1867; cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực tại Gia Định, Biên Hòa từ năm 1861
đến năm 1868 với lời nói hiên ngang của Nguyễn Trung Trực trước khi bị thực dân
Pháp xử tử tại Rạch Giá: “Bao giờ nước Nam hết cỏ thì mới hết người Nam đánh
Tây”. Phong trào Cần Vương do phe chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn đứng đầu
là Tôn Thất Thuyết dưới danh nghĩa Vua Hàm Nghi để ra Chiếu Cần Vương tố cáo âm
mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu, văn thân và
nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp Vua bảo vệ quê hương đất nước. Hưởng
ứng Chiếu Cần Vương gần 20 cuộc khởi nghĩa đã nổ ra trong cả nước. Những cuộc
khởi nghĩa của nhân dân ta với sự hy sinh to lớn song đều thất bại và bị dìm
trong bể máu. Các phong trào do các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi
xướng cũng không đưa đất nước ra khỏi cảnh nô lệ. Cho đến lúc này đất nước vẫn
trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Các cuộc khởi nghĩa,
các phong trào đều chưa có lời giải đáp đúng cho câu hỏi của dân tộc ta: Làm thế
nào để giành độc lập?
Chính Hồ Chí
Minh (lúc đó gọi là Nguyễn Ái Quốc) đã đưa ra câu trả lời và đã được lịch sử khảo
nghiệm là đúng đắn. Với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc
sáng lập và rèn luyện, cách mạng Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi. Mở đầu là
Cách mạng Tháng Tám đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với
Tuyên ngôn Độc lập lịch sử do Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày
2/9/1945. Là người quyết tâm "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập” nên ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho ngày tuyên bố độc lập. Ngày 23/8/194Ngày
23/8/1945 Hồ Chí Minh rời an toàn khu Việt Bắc về Hà Nội nghỉ và làm việc tại một
cơ sở cách mạng ở xã Phú Thượng, hôm sau chuyển đến ngôi nhà 48 Hàng Ngang, phường
Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là cửa hàng mang tên Phúc Lợi của gia đình ông
Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ - một doanh nhân buôn bán tơ lụa nổi tiếng
giàu có và yêu nước tại đất Hà Thành.
Tại đây, Hồ
Chí Minh chủ tọa cuộc họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng bàn việc mở rộng
thành phần Ủy ban Dân tộc Giải phóng, chuẩn bị bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức
cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để tuyên bố thành lập chính thể mới. Ngày 27/8/1945,
tại cuộc họp của Ủy ban Dân tộc Giải phóng, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch
Chính phủ lâm thời. Chiều hôm đó, Người đưa bản thảo Tuyên ngôn Độc lập để các
thành viên Chính phủ xét duyệt và đề nghị duyệt kỹ vì "không phải chỉ để đồng
bào cả nước ta nghe, mà còn cho cả Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cho cả các
nước đồng minh nghe". Từ ngày 28/8/1945, Hồ Chí Minh tập trung công sức
vào việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập và thường mời một số cộng sự như Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Khuất Duy Tiến... đến
bàn thảo. Cho đến tận ngày 31/8/1945 Người vẫn bổ sung một số điểm mới để hoàn
chỉnh dự thảo và tâm sự với các cộng sự: "Trong đời mình đã viết nhiều
nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy".
Cũng trong
thời gian này, Hồ Chí Minh đã tiếp và giới thiệu với Thiếu tá Archimedes L.A
Patti - chỉ huy đơn vị OSS (Mỹ) - về bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập và mời L.A.
Patti dự Lễ Độc lập. Trong chương 25 của cuốn hồi ký “Why Viet Nam?” (Vì sao Việt
Nam?) - cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2009 -
L.A.Patti kể về cuộc gặp Hồ Chí Minh: "Ông gọi một người ở buồng bên mang
bản thảo (Tuyên ngôn Độc lập) tới và cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch và
tôi chăm chú nghe. Khi đến đoạn “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng..., họ
đã được tạo hóa trao cho những quyền không thể nhượng lại được, trong đó có quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, tôi mới thấy các danh từ đã được
chuyển vị và tôi đã nhận xét là trật tự các chữ “tự do” và “quyền sống” đã bị
thay đổi. Ông Hồ nắm ngay lấy nhận xét đó và nói: "Đúng, không thể có tự
do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do”.
Nói về quang
cảnh ngày 2/9/1945 tại Hà Nội, cuốn sách có đoạn: "Từ sớm tinh mơ, dân
chúng Hà Nội từng đoàn lúc lớn lúc nhỏ, lũ lượt dần dần kéo đến cạnh quảng trường
Ba Đình. Ở nhiều chỗ là cả một khối dân chúng các làng ngoại ô. Đi theo trong
biển người đó, có cả toán dân miền núi với y phục địa phương của họ và nông dân
trong những bộ khăn áo cổ truyền"… Cũng trong cuốn sách này, L.A.Patti đã
bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Hồ Chí Minh: "Sự chân thành và tài hùng biện đầy
sức thuyết phục của ông Hồ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi…Đó là một
nhà lãnh đạo vô cùng thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, là một
người thấu tình đạt lý và vô cùng tinh tình đạt lý và vô cùng tinh tế".
Trong cuốn hồi
ký "Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ" của Jean Sainteny - một
sĩ quan Pháp có mặt tại Hà Nội ngày 2/9/1945 sau này là Đại diện toàn quyền Cộng
hòa Pháp tại Việt Nam (1954 - 1958) - cuốn sách đã được Nhà xuất bản Công an
nhân dân xuất bản bằng tiếng Việt năm 2005 - tác giả đã kể về ngày 2/9/1945 mà
ông được chứng kiến, trong đó có đoạn: “Những người diễu hành đi theo đại lộ
Brìere de l’Isle (đại lộ Hùng Vương ngày nay) ngay trước cổng dinh Toàn quyền,
và chúng tôi không thấy có một cử chỉ thù địch nào hướng về chúng tôi, cũng như
về phía dinh là tòa nhà tượng trưng cho chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.. Nhiều
linh mục đạo Gia-tô cũng tới dự, đứng ở vị trí cao. Trật tự trong buổi diễu
hành, và nhất là không thấy có những tiếng hò hét phản loạn, thù địch".
Nói về Hồ Chí Minh, tác giả viết: “Không còn nghi ngờ gì nữa, mục tiêu đích thực,
duy nhất, trước sau như một của Hồ Chí Minh là: Nước Việt Nam độc lập”. Trong
cuốn sách này, Jean Sainteny cho rằng: "Nước Pháp đã thất bại tại Việt Nam
vì Chính phủ Pháp đã không chịu trao trả độc lập cho người Việt Nam, như người
Anh đã làm với Ấn Độ năm 1948".
Bản Tuyên
ngôn Độc lập có 49 câu với 1.120 từ đã nói lên nguyện vọng của dân tộc Việt Nam
cũng như của các dân tộc khác trên thế giới, trong đó quyền sống hạnh phúc và
quyền tự do là những quyền cơ bản và không tách rời nhau thể hiện ở đoạn:
"Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Tư tưởng đó là nền tảng
cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng cuộc sống mới của nhân dân
Việt Nam như đã được nói trong Tuyên ngôn Độc lập: "Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy".
Ngày
5/9/1945, Báo Cứu quốc số 36, đăng toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập dưới đó ký
tên 15 thành viên của Chính phủ lâm thời gồm: Hồ Chí Minh (Chủ tịch), Võ Nguyên
Giáp, Trần Huy Liệu, Chu Văn Tấn, Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Tố,
Vũ Trọng Khánh, Phạm Ngọc Thạch, Đào Trọng Kim, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Đồng, Vũ
Đình Hòe, Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân.
Đến nay đã
77 năm trôi qua kể từ ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Thế giới và đất
nước đã đổi thay song những tinh thần cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn
nguyên giá trị. Tuyên ngôn Độc lập là kết quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám
- một cuộc cách mạng tất yếu, hoàn toàn không phải là một "cuộc đảo
chính", một sự kiện "ngẫu nhiên" hoặc "gặp may" như một
số người ngộ nhận. Tuyên ngôn Độc lập là ngọn đuốc soi đường cho nhân dân ta
không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn trong công cuộc đổi
mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét