Thứ Năm, 31 tháng 8, 2023

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG KHÔNG PHẢI LÀ "SỰ ĂN MAY"!

         Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả tất yếu của một quá trình chuẩn bị lâu dài, trải qua 3 cuộc vận động cách mạng lớn để khi tình thế trực tiếp xuất hiện, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân!
Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực và nắm bắt đúng thời cơ mà chỉ trong vòng hai tuần (từ ngày 14 đến 28-8-1945), cuộc tổng khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Sự thật lịch sử là như vậy. Ấy thế mà gần 8 thập niên trôi qua kể từ khi diễn ra sự kiện này, vẫn còn có những ý kiến cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam bùng nổ và thành công nhanh chóng chẳng qua là một “sự ăn may” do khách quan mang lại, nhờ vào cái gọi là “khoảng trống quyền lực” và nhờ vào việc “quân đội Nhật Bản đã đầu hàng quân Đồng minh”... Trong số đó, có người chưa hiểu thấu đáo, nhưng cũng có người cố tình không hiểu nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân trong cuộc cách mạng vĩ đại này, làm lu mờ ý nghĩa to lớn của nó. Vậy đâu là sự thật lịch sử?
Trước hết, cần phải khẳng định, trong khoảng thời gian từ khi quân Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9-3-1945) đến ngày Hà Nội tổng khởi nghĩa thành công (19-8-1945), ở Việt Nam không hề tồn tại một “khoảng trống quyền lực” nào cả.

Như nhiều người đã biết, ngay sau cuộc đảo chính lật đổ quân Pháp, Tập đoàn quân 38 của Nhật đã nhanh chóng thiết lập bộ máy thống trị giành quyền kiểm soát trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và Đông Dương. Các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng... đều đặt dưới sự kiểm soát của quân Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim-một bộ máy chính quyền do Nhật dựng lên-tuy không nắm thực quyền nhưng vẫn là một chính phủ đầy đủ ban bệ. Chính phủ này cho đến ngày 17-8 vẫn còn cử người liên lạc, “mặc cả” với Việt Minh đòi chia sẻ quyền lực.

Trước đó, ngày 14-8, một ngày sau khi Ủy ban khởi nghĩa phát đi bản Quân lệnh số 1, Chính phủ Trần Trọng Kim còn ra tuyên bố “Nhất quyết không chịu lùi một bước trước một khó khăn nào để làm tròn sứ mệnh...” và họ cam đoan “vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương cục Nhật”(1). Ngay trong ngày 19-8, tại Hà Nội vẫn còn diễn ra một cuộc “dàn xếp thỏa hiệp” giữa chính phủ Trần Trọng Kim với chỉ huy Tập đoàn quân 38 của Nhật. Tuy nhiên sự thỏa hiệp đó bất thành.
"Mau lẹ, kịp thời nổ ra đúng lúc phải nổ. Đó là đặc điểm nổi bật của Cách mạng tháng Tám năm 1945" - Đồng chí Trường Chinh
Để tăng thêm phần thuyết phục, có người lý giải nguyên nhân dẫn đến “khoảng trống quyền lực” ở Việt Nam thời điểm này là do “Chính sách của đồng minh đối với Đông Dương trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1945 là ngu dốt và quên lãng; còn chính sách của Pháp thì bối rối và bất lực”(2). Thực tế có phải vậy?

Qua các nguồn tư liệu cho thấy, lúc bấy giờ cả Anh, Mỹ và Pháp đều thừa hiểu sớm muộn gì thì phát xít Nhật cũng lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Mặc dù vậy, họ đều không thể làm gì được để xoay chuyển tình thế vì lúc bấy giờ cả Anh và Mỹ còn có những tính toán và theo đuổi mục tiêu khác quan trọng hơn. Vào thời điểm này (sau ngày 9-3) trên thực tế đồng minh chưa đủ sức để có thể đánh bại được đạo quân Nhật ở Đông Dương. Còn phía Pháp thì “lực bất tòng tâm”. Sau đảo chính, phần lớn quân Pháp bị Nhật bắt và giải giáp, một số chạy thoát được sang Lào thì rệu rã, giảm sút nhuệ khí. Pháp gần như không còn có vai trò đáng kể ở Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 9-3. Đến tận ngày 17-8, Pháp mới quyết định bổ nhiệm D’Argenlieu làm Cao ủy và Leclerc làm Tổng chỉ huy chuẩn bị đưa quân trở lại Đông Dương và tới ngày 12-9, khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời được 10 ngày thì đơn vị quân Pháp đầu tiên mới theo gót quân Anh tới Sài Gòn. Có thể nói, đối tượng chính của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là phát xít Nhật và bộ máy chính quyền tay sai do Nhật dựng lên chứ không phải là Pháp.

Chưa dừng lại ở những luận điểm nêu trên, một số người còn cho rằng Cách mạng Tháng Tám đã bùng nổ sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện các lực lượng Đồng minh chống phát xít và quân đội Nhật ở Việt Nam đã mất nhuệ khí, không còn chống cự.

Sự thật không phải như vậy, mà thực tế là: 12 giờ ngày 15-8, qua đài Tokyo, Nhật hoàng Hirohito đọc chiếu chỉ “xin chấp nhận bản Tuyên bố Postdam ngày 26-7”. Điều đáng nói đây chưa phải là một tuyên bố chấp nhận “đầu hàng vô điều kiện”, mà mới chỉ là một đề nghị ngừng bắn. Hơn nữa, bản chiếu chỉ đó cũng chưa được chuyển đạt tới cho Tập đoàn quân 38 của Nhật ở Đông Dương.

Theo ông Lê Trọng Nghĩa (Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội năm 1945, sau này là Cục trưởng Cục Quân báo), người được giao trực tiếp đi gặp Đại sứ Nhật Bản Tsukamoto vào tối 19-8-1945 thì phải đến ngày 21-8, tức là hai ngày sau khi Tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, chỉ huy Tập đoàn quân 38 của Nhật ở Việt Nam mới nhận được lệnh “đình chỉ chiến tranh”. Khi chiếc máy bay chở Thiếu tá Patti, chỉ huy đội “tiền trạm” của quân đồng minh vừa vào tới vùng trời Hà Nội định đáp xuống sân bay Bạch Mai thì bị lực lượng phòng không của Nhật nã đạn buộc phải quay trở lại Côn Minh.

Ngày 22-8, chiếc máy bay này tiếp tục đáp xuống sân bay Gia Lâm trong khi các sĩ quan Nhật tại đây vẫn chưa nhận được chỉ thị gì cả. Trước đó, trong các ngày 17, 18-8, tại Hà Nội, quân Nhật vẫn rất hung hăng, xe tăng, các chốt kiểm soát vẫn luôn sẵn sàng nã đạn gây tình hình rất căng thẳng. Tại nhiều địa phương đã nổ ra những cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân và LLVT cách mạng Việt Nam với quân Nhật...

Điểm qua một số sự kiện như trên để thấy rằng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam nổ ra và thành công trong bối cảnh quân đội Nhật Bản ở Đông Dương vẫn chưa đầu hàng các lực lượng Đồng minh chống phát xít và đạo quân phương Nam của Nhật ở Đông Dương tuy có suy giảm về tinh thần nhưng thực lực vẫn còn đang sung sức.

Thời cơ tổng khởi nghĩa chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng đó là “thời cơ vàng” mà Đảng ta, đứng đầu là Bác Hồ đã kịp thời chớp lấy, lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực tung ra đòn quyết định giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh nhất. Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm khi mà ở trong nước, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã phát triển lên đến đỉnh cao, chỉ huy Tập đoàn quân 38 của Nhật tuy chưa nhận được lệnh ngừng bắn nhưng tỏ ra bối rối trước diễn biến của tình hình; chính quyền tay sai hoang mang và tỏ ra bất lực; quân Nhật ở Đông Dương tuy còn đông và trang bị mạnh nhưng nhuệ khí và tinh thần chiến đấu đã suy giảm; quân đội Anh, Pháp, Tưởng thì chưa kịp kéo vào.

Phải một tuần sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, ngày 9-9 phái đoàn tiền trạm của Trung Hoa Dân quốc do Tiêu Văn dẫn đầu mới tới Hà Nội, sau đó, ngày 14-9 là bộ sậu của Lư Hán và tới ngày 28-9-1945, lễ đầu hàng của quân đội Nhật Bản mới chính thức diễn ra tại Hà Nội. Đây là thời cơ ngàn năm có một cho Tổng khởi nghĩa. Bởi nếu Tổng khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, khi Nhật chưa chấp nhận bản Tuyên bố Postdam của đồng minh thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Nhưng nếu nổ ra muộn hơn, khi quân Anh, Pháp và Tưởng đã kéo vào núp dưới cái ô “giải giáp quân Nhật” thì thời cơ thuận lợi nhất có thể sẽ trôi qua. Không phải ngẫu nhiên mà lúc này, lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm nặng vẫn cố gượng dậy căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.

"Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cách mạng của những người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất"-Stein Tonnesson, học giả người Na Uy.
Cách mạng Tháng Tám diễn ra và kết thúc nhanh gọn trên phạm vi cả nước. Có được điều kỳ diệu đó “căn bản là do lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận lợi nhất, khởi nghĩa giành chính quyền nhà nước. Nhưng nếu Đảng ta trước đó không xây dựng LLVT và thành lập các khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị, và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi, không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng không thể mau chóng giành được thắng lợi”(3).

Quá trình tạo thế, tạo lực để đón thời cơ đã được Đảng ta chuẩn bị từ rất sớm, ngay từ Hội nghị Trung ương 6 (1939), Hội nghị Trung ương 7 (1940) và đặc biệt là Hội nghị Trung ương 8 (1941)-hội nghị hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Với nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và toàn dân Việt Nam. Mặt trận Việt Minh ra đời. Việc xây dựng LLVT được định hình cụ thể cùng với việc xây dựng và mở rộng các căn cứ địa cách mạng... Tất cả đều nhằm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của tình thế, để không bỏ lỡ thời cơ chiến lược một khi nó xuất hiện.

Như vậy, có thể khẳng định, nhờ có một quá trình chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực cho cách mạng, khi tình thế biến chuyển, thời cơ xuất hiện, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời nắm bắt thời cơ, phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa mới là nhân tố chính đưa đến thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chứ tuyệt nhiên không phải là một “sự ăn may”, “do yếu tố khách quan mang lại” như một số ý kiến đã ngộ nhận./.
(1) Trần Quang Huy: “19/8-Cách mạng Tháng Tám là sáng tạo”, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, H.1995.
(2) Stein Tonnesson: The Vietnamese Revolution à 1945: Roosevell, Ho Chi Minh and De Gaulle in a world at War (Cách mạng Việt Nam năm 1945-Roosevell, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh), Nxb London-New Delhi 1991.
(3) Văn kiện quân sự của Đảng, NXB Quân đội nhân dân, H.1969.
Yêu nước ST.

SỰ PHI LÝ CỦA LUẬN ĐIỆU “ KHÔNG THỂ CÓ ĐỘC LẬP, TỰ DO TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM”!

     Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ xác đáng, hữu hiệu để bác bỏ luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”!

Sự phi lý của một luận điệu
Độc lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chính vì thế, độc lập, tự chủ là vấn đề mang tính nguyên tắc, nhất quán trong hệ thống các quan điểm của Đảng ta, có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Trong điều kiện của thế giới hiện nay, Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là phương châm chỉ đạo và tổ chức thực hiện; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những mối quan hệ quan trọng đặc biệt cần giải quyết trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, với bản chất thâm độc, các thế lực thù địch cho rằng, chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam là hão huyền, phi thực tế. Chúng cho rằng "không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế được"; "đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ". Đồng thời, chúng còn cho rằng thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế, với một đảng duy nhất cầm quyền càng không thể hội nhập quốc tế.

Toàn cầu hóa là tất yếu khách quan kéo theo quá trình cả thế giới theo dòng thời cuộc hội nhập quốc tế. Đó cũng là quá trình nước nào cũng phải tìm mọi cách thức để tự bảo vệ mình. Vậy nên hội nhập quốc tế là xu thế khách quan thì việc mỗi nước phải giữ được tố chất của mình cũng là một nhu cầu và nhiệm vụ tất yếu. Nhưng nếu xem xét một cách sâu xa hơn thì có thể thấy ngay được luận điệu “Không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam” thực chất là sự hằn học của thế lực thù địch. Chúng ta có đủ luận cứ về lý luận và chứng cứ về thực tiễn để bác bỏ hoàn toàn luận điệu phi lý này.

Sau hơn 30 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã xác nhận nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải xử lý đúng đắn, hiệu quả, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.

Trong Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu của hội nhập quốc tế là: “Củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo toàn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Quan điểm và chủ trương của Đảng nêu bật việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, tiền đề để giữ độc lập, tự chủ trên mọi mặt đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Quán triệt và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong công tác đối ngoại, những năm qua, chúng ta đã thu được những thành quả khả quan.

Trong lĩnh vực chính trị. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: Chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất cả trong kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.

Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á-Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất những sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trên cộng đồng quốc tế.

Trong lĩnh vực kinh tế. Chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương.

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ USD. Đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký hơn 400 tỷ USD, năm 2022 đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương.

Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế đất nước phát triển, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội. Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn.

Từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hóa ngay tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hóa-xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng, an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh, quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào những hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh, quân sự toàn cầu.

Tiếp tục kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Tình hình thế giới ngày càng có những biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường, trong khi hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh dẫn tới những thách thức to lớn trong quá trình bảo vệ độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Trước những vấn đề mới đặt ra, Đảng ta đã xác định rõ những nguyên tắc, phương châm, mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng lớn cho quá trình hội nhập quốc tế.

Để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết cần xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị-đối ngoại, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế.

Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc và của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cần chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi dụng các kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao.

Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào những mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa.

Cùng với đó, cần nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Đổi mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước lớn. Nghiên cứu đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả.

Giải pháp có ý nghĩa căn cơ là tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng.

Có thể khẳng định rằng, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nhằm góp phần hiện thực hóa phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ thể hóa nội dung của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới và khu vực. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ, bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về vấn đề này./.
Yêu nước ST.

CÁC CÁ NHÂN CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH, BÁC BỎ MỌI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

 

CÁC CÁ NHÂN CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH, BÁC BỎ MỌI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

 

Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo, đề cao cảnh giác để phát hiện, phòng chống, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả và làm rõ, đầy lùi, đập tan thủ đoạn “lợi dụng nhân quyền” chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ nhất, tiếp tục đặt công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nước ta dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng chống, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng định nhất quán quan điểm của Đảng ta: Dân chủ là bản chất, là mục tiêu, là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 

Thứ hai, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền chống phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này. Từng cán bộ, đảng viên phải nâng cao lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng để nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, sai trái thù địch, xuyên tạc, vu khống, phủ nhận dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Để mỗi cán bộ, đảng viên là chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng, thực hành phát huy dân chủ, nhân quyền ở nước ta.

Thứ ba, đổi mới hình thức, đa dạng các nội dung đấu tranh hiệu quả, bảo vệ dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân quyền ở Việt Nam. Đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Trong đó, sử dụng các kênh truyền thông chính thống và các mạng xã hội để tiếp cận đến đông đảo quần chúng nhân dân vừa tuyên truyền, vừa bóc trần những xuyên tạc vô căn cứ của các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề chính trị, xã hội để chống phá nước ta.

Thứ tư, để không còn “mảnh đất” cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xoá đói, giảm nghèo, kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định chính trị, trật tự xã hội; nhanh chóng giải quyết triệt để các khiếu kiện, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân; chủ động định hướng dư luận, đưa thông tin đúng, chính thống đến nhân dân, không để xảy ra những tình huống bị động gây mất ổn định ở cơ sở. Trong đó, chú trọng, phối hợp giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, lây lan gây bức xúc dư luận.

Thứ năm, chúng ta thường xuyên, chủ động, xác định nhân quyền là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta, thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối. Vì vậy, cần thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền. Đồng thời, chủ động triển khai nắm âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch không nên mở rộng, mà phải áp sát trực diện vào vấn đề cần phải đấu tranh, đối tượng đấu tranh, nhằm chủ động, phê phán, phản bác, ngăn chặn những luận điệu phủ nhận thành tựu về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, để chống phá.

CÁC CHIÊU TRÒ TẤN CÔNG NGỤY DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 CÁC CHIÊU TRÒ TẤN CÔNG NGỤY DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Vẫn là những chiêu trò cũ rích của thế lực thù địch, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, như: phủ nhận thành tựu, thực tiễn các giá trị lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền với những luận điệu như kích động vấn đề dân tộc thiểu số; xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo, ngăn cản tự do ngôn luận, tự do hội họp; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội...

Hay như chúng tung hô, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản “kiểu Mỹ” và phương Tây, tuyệt đối hóa quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị của quyền con người; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, chèn ép “những người bất đồng chính kiến”… 

Rồi chúng còn sử dụng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta như tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, những buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam và yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền...

Chúng còn nhân cơ hội từ Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước, điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; Nghị quyết của Nghị viện châu Âu... Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hằng năm đã liên tục thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Một chiêu bài nữa cũng được sử dụng là thúc đẩy hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập Nhà nước. Họ tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” với những cái tên rất kêu mang tinh thần “dân tộc” như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”. Chúng còn thúc đẩy sự ra đời các khuynh hướng dân chủ cực đoan, “xã hội dân sự”, hình thành tổ chức chính trị bất hợp pháp; vận động các tổ chức quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt, xử lý ở trong nước… nhằm cổ suý, khích lệ số đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn.

CÁC THẾ LỰC MƯỢN DANH NHÂN QUYỀN ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ TA

 

CÁC THẾ LỰC MƯỢN DANH NHÂN QUYỀN ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ TA

Nhiều năm qua, hoạt động lợi dụng vấn đề nhân quyền chống Việt Nam đang được các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước không ngừng đẩy mạnh với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt và nguy hiểm. Các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng vấn đề nhân quyền để tác động chuyển hóa nội bộ, gây sức ép về chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm thực hiện mục tiêu “chuyển hóa dân chủ” đối với Việt Nam; kích động biểu tình, phá rối an ninh, trật tự, gây bạo loạn nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội và an ninh, trật tự ở Việt Nam; hậu thuẫn, thúc đẩy hình thành lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phá vỡ sự ổn định chính trị, xã hội, làm suy yếu tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.

Có thể nhìn nhận rõ, các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Tham dự vào lực lượng này còn có những người theo các trào lưu tư tưởng và đường lối chính trị trái ngược với giá trị của chủ nghĩa xã hội tại các nước phương Tây; những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại Việt Nam.

Ngoài ra, còn có một số tổ chức phi chính phủ “khoác áo nhân quyền”, trong báo cáo hàng năm thường xuyên vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, nổi bật như: Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), có trụ sở tại Mỹ. HRW thông qua vấn đề “nhân quyền” hướng tới thành lập các tổ chức hoạt động chống CNXH dưới danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền” đã mở ra một điều kiện mới để Mỹ, các nước phương Tây tăng cường hoạt động tác động về tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền vào các nước Đông Âu, Liên Xô trước đây. Ở với Việt Nam, HRW cổ súy, tán dương với những nhân vật hoạt động chống đối Nhà nước, vi phạm pháp luật. Tổ chức này thường xuyên phác thảo ra những bản báo cáo, phúc trình xuyên tạc tình hình nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam.

Bên cạnh những tổ chức như trên còn có một số tổ chức, hội nhóm khác luôn tìm mọi cách để xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, thậm chí xem đó là phương thức tồn tại và hoạt động như: Việt Tân, Chính phủ Việt Nam tự do, Đảng nhân dân hành động, Hiệp hội đoàn kết công nông, Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam, Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam… Đặc điểm chung của các tổ chức, hội nhóm trên đều được hậu thuẫn bởi các thế lực cực đoan trong chính giới ở Mỹ và một số nước phương Tây, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc, nhằm lật đổ chế độ ở nước ta hiện nay.

NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN TRÊN MẠNG

 

NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN TRÊN MẠNG

Chúng ta không thể phủ nhận, không gian mạng đem lại cho con người rất nhiều tiện ích, nhất là khi Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu của nhân loại. Việc sử dụng mạng xã hội là nhu cầu chính đáng của mỗi tổ chức, cá nhân. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 9/2022, mỗi ngày Việt Nam có hơn 72 triệu người sử dụng internet (khoảng 73% dân số) và nước ta trở thành quốc gia có số người dùng internet đứng thứ 12 trên thế giới.

 

Để không gian mạng hoạt động đúng mục đích, theo chiều hướng tích cực, trước hết chúng ta phải nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và mỗi công dân về vị trí, vai trò của internet, mạng xã hội và tạo “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian này.

 

Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm tạo ra một không gian mạng lành mạnh, hữu ích, góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước. Đồng thời phải có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn, răn đe những hành vi, thủ đoạn lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; sử dụng không gian mạng kích động, lôi kéo, xuyên tạc sự thật; phá hoại an ninh quốc gia - trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân và Quân đội.

 

Phát huy tốt vai trò cơ quan tuyên giáo, các cơ quan thông tấn báo chí trong việc cung cấp thông tin chính thống, kịp thời định hướng dư luận trước những sự kiện lớn, các vấn đề được xã hội quan tâm.

 

Cần nhân rộng nhiều mô hình hay, cách làm mới, hiệu quả trên không gian mạng, tiêu biểu thời gian qua như mô hình: “Hội nhóm, trang mạng xã hội vì môi trường mạng an toàn, lành mạnh” ở Đà Nẵng; Cuộc vận động: “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp trên mạng xã hội” ở Bình Phước…. Hay hoạt động của Lực lượng 47 trong Quân đội đã và đang góp phần tích cực đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội trên không gian mạng.

 

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, định hướng cho Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ có đủ sức “đề kháng”, “miễn dịch” trước các thông tin xấu, độc, xuyên tạc sự thật, các vấn đề tiêu cực trên mạng xã hội. Khuyến khích, động viên để các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp và mỗi công dân tham gia mạng xã hội tuân thủ đúng pháp luật, có tri thức, văn hóa. Trước hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức và lực lượng vũ trang phải gương mẫu, là hạt nhân tích cực trên không gian mạng. Cần có cơ chế để Nhân dân tham giám sát, quản lý, đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, những vấn đề tiêu cực và cổ vũ cái tốt, cái tích cực, theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”.

NÂNG CAO TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

NÂNG CAO TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Ngoài việc tăng cường giám sát và kiểm soát trên mạng, việc tuyên truyền, giáo dục trên mạng cũng rất quan trọng trong việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng. Điều này có thể được thực hiện thông qua các trang thông tin điện tử, mạng xã hội, kênh truyền hìnhđể phổ biến thông tin về Đảng, nhà nước, chủ trương, chính sách, luật pháp và đạo đức.

Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục trên mạng cần được thiết kế một cách khoa học, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng nhân dân khác nhau, đảm bảo tính tương tác, tính giác quan tốt và tính thực tiễn. Ngoài ra, cần phải sử dụng các phương tiện truyền thông mới nhất để phát huy tối đa hiệu quả tuyên truyền, giáo dục trên mạng.

Đối với các trang thông tin điện tử, cần tạo ra các nội dung bài viết, video, hình ảnh mang tính chất sống động, gần gũi với cuộc sống của nhân dân, từ đó giúp cho nhân dân dễ tiếp thu và lưu giữ thông tin.

Đối với các mạng xã hội, cần phải thiết kế các trò chơi, thử thách, hay câu đố có tính giải trí cao, giúp người dân vui vẻ và thích thú trong quá trình tiếp nhận thông tin về Đảng, nhà nước, chủ trương, chính sách, luật pháp và đạo đức.

Ngoài ra, việc sử dụng kênh truyền hình, radio và các phương tiện truyền thông khác cũng rất quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục trên mạng. Những kênh truyền thông này có thể đưa ra các chương trình đặc biệt, bản tin, phóng sự, tài liệu để giới thiệu về Đảng, nhà nước, chủ trương, chính sách, luật pháp và đạo đức.

Ngoài ra, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục trên mạng cũng phải được kết hợp với các hoạt động truyền thống như tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm, giao lưu trực tuyến để trao đổi, thảo luận và chia sẻ các kinh nghiệm, kiến thức về các vấn đề liên quan đến Đảng, nhà nước, chủ trương, chính sách, luật pháp và đạo đức.

TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG ĐỂ ĐẢM BẢO THẾ TRẬN LÒNG DÂN

 TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG ĐỂ ĐẢM BẢO THẾ TRẬN LÒNG DÂN

Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cần đòi hỏi việc tăng cường giám sát và kiểm soát trên mạng, để đảm bảo rằng thông tin được truyền tải là đúng đắn, chính xác và đúng nguồn gốc. Các công cụ và kỹ thuật mới như máy tính, phần mềm, công cụ tìm kiếm và mạng xã hội đang được sử dụng để lan truyền thông tin sai lệch, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quốc gia và thậm chí cả những thông tin sai trái về Đảng và nhà nước.

Do đó, việc tăng cường giám sát và kiểm soát trên mạng là rất quan trọng. Điều này có thể được thực hiện thông qua các phương tiện công nghệ, giúp cho chính quyền và các cơ quan có thể giám sát và kiểm soát hoạt động của các cá nhân, tổ chức hoạt động trên mạng một cách chặt chẽ hơn.

Ngoài ra, cần phải đào tạo và cập nhật kiến thức cho các cán bộ, nhân viên trực tiếp tham gia vào việc giám sát, kiểm soát trên mạng. Điều này giúp họ có thể nắm bắt được các thông tin cần thiết và phát hiện ra các thông tin sai lệch, đồng thời giúp cho các cơ quan có thể đưa ra các biện pháp phù hợp để khắc phục.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Trước hết, cần phải nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng. Điều này có thể được thực hiện thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn cho nhân dân về cách thức hoạt động trên mạng, từ đó giúp cho họ có thể tránh được những thông tin sai lệch, tin giả, đồng thời có thể đóng góp vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và nhà nước. Một số giải pháp cụ thể có thể xem xét vận dụng như sau:

Cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác: Để nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng, chính phủ và các tổ chức có liên quan cần cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về các mối đe dọa an ninh mạng, những hậu quả có thể xảy ra nếu không xây dựng được thế trận lòng dân trên không gian mạng.

Tổ chức các cuộc tập huấn, đào tạo: Chính phủ và các tổ chức có liên quan nên tổ chức các cuộc tập huấn, đào tạo về an ninh mạng và xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cho cộng đồng, nhất là các đối tượng trẻ tuổi và người dân nông thôn.

Sử dụng mạng xã hội, các kênh truyền thông: Sử dụng mạng xã hội và các kênh truyền thông là một cách hiệu quả để truyền tải thông điệp về tầm quan trọng của việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng.

Tăng cường hợp tác với các tổ chức phi chính phủ: Các tổ chức phi chính phủ có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của nhân dân về vấn đề an ninh mạng. Chính phủ cần tăng cường hợp tác với các tổ chức này để tạo ra các chiến dịch thông tin hiệu quả và lan tỏa thông điệp đến cộng đồng.

Xây dựng các chương trình giáo dục: Tạo ra các chương trình giáo dục về an ninh mạng và xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cho học sinh và sinh viên là một trong những giải pháp hiệu quả để nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng.

Tổ chức các hoạt động tuyên truyền: Các hoạt động tuyên truyền như cuộc thi, triển lãm hoặc các sự kiện có liên quan đến an ninh mạng và xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng có thể được tổ chức để thu hút sự chú ý của cộng đồng và nâng cao nhận thức của họ.

Tăng cường công tác quản lý và giám sát: Tăng cường công tác quản lý và giám sát các hoạt động trên mạng cũng là một giải pháp quan trọng để xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng. Chính phủ và các tổ chức có liên quan cần tăng cường công tác giám sát, đánh giá và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên mạng.

XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG LÀ MỘT YÊU CẦU CẤP THIẾT

 

XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG LÀ MỘT YÊU CẦU CẤP THIẾT

 

Trong bối cảnh không gian mạng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trở nên cực kỳ cần thiết. Điều này giúp đảm bảo sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng và nhà nước, đồng thời giúp củng cố nền tảng tư tưởng, vững chắc nhất là trong bối cảnh thế giới đang đối diện với rất nhiều thách thức mới trong thời đại số hóa và công nghiệp hóa.Trên môi trường internet, trong đó có mạng xã hội, mỗi tài khoản của công dân Việt Nam là một phần trong thế trận quốc phòng trên không gian mạng. Mỗi tài khoản phát huy tác dụng tốt sẽ là một chiến sĩ, một đơn vị chiến đấu trên không gian mạng. Sự bố trí các tài khoản, hệ thống kênh truyền thông trên không gian mạng tương đương với việc xây dựng khu vực phòng thủ trên không gian mạng. Mỗi bài viết tuyên truyền, đấu tranh phản bác như những viên đạn bắn vào kẻ thù, vào các thế lực thù địch.

Ngoài ra, xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cũng giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm soát tốt hơn các thông tin trên mạng, giảm thiểu được các thông tin sai lệch, đồng thời cũng giúp cho nhân dân có thể tiếp cận với những thông tin đúng đắn, hữu ích. Điều này đóng góp quan trọng vào việc nâng cao kiến thức, giáo dục và truyền thông cho nhân dân, từ đó củng cố nền tảng tư tưởng, hệ thống giá trị, nền văn hóa của đất nước.

Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và nhà nước trong thời đại công nghệ số. Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng có các vai trò và tầm quan trọng như sau:

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng: Thế trận lòng dân trên không gian mạng là một phần của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, giúp đảm bảo ý thức, tư tưởng của nhân dân được vững chắc, gắn kết với chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cách mạng.

Đảm bảo an ninh quốc gia: Thế trận lòng dân trên không gian mạng còn giúp đảm bảo an ninh quốc gia, tránh các hoạt động xâm phạm, tấn công vào cơ sở hạ tầng mạng và đảm bảo an toàn thông tin quốc gia.

Xây dựng một môi trường mạng lành mạnh: Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một môi trường mạng lành mạnh, giảm thiểu các hành vi lừa đảo, giả mạo, phân biệt chủng tộc, tôn giáo trên mạng.

Nâng cao năng lực quản lý mạng: Xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng cũng là cách để nâng cao năng lực quản lý mạng của chính quyền và các cơ quan chức năng, giúp họ có thể đối phó với các tình huống nguy hiểm và xử lý các vấn đề mạng nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế số: Thế trận lòng dân trên không gian mạng còn giúp tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế số, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường toàn cầu và nâng cao sức cạnh tranh.

NHỮNG MỐI NGUY HIỂM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

NHỮNG MỐI NGUY HIỂM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

Hiện nay, không gian mạng đang phát triển với tốc độ chóng mặt, có sự tham gia của rất nhiều người dùng trên toàn thế giới. Cùng với đó, có rất nhiều nội dung, thông tin được đăng tải lên mạng, từ các trang web, blog, diễn đàn, mạng xã hội, v.v. Tuy nhiên, không phải tất cả các thông tin đó đều mang tính chất tích cực và đúng đắn. Ngược lại, có rất nhiều thông tin sai lệch, thậm chí là hoàn toàn sai sự thật, với mục đích lôi kéo, dụ dỗ, hoặc gây chia rẽ trong xã hội.Các cuộc tấn công mạng của các nhóm tội phạm cũng đang trở thành mối đe dọa ngày càng lớn đối với các tổ chức và doanh nghiệp trên toàn thế giới. Ví dụ, vào tháng 5 năm 2017, cuộc tấn công Ransomware WannaCry đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho hàng nghìn cơ quan, tổ chức trên khắp thế giới, bao gồm cả các cơ quan chính phủ và các tổ chức giáo dục, y tế.

Trên không gian mạng, thông tin và tin tức có thể được chia sẻ một cách rất nhanh chóng. Tuy nhiên, điều đó cũng có thể dẫn đến sự lan truyền nhanh chóng của thông tin sai lệch và tin tức giả, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người đọc. Ví dụ, trong thời gian đại dịch Covid-19, đã có nhiều thông tin sai lệch và tin tức giả được chia sẻ trên mạng xã hội, gây ra sự hoang mang và lo ngại cho người dân. Không gian mạng ở Việt Nam đang phát triển rất nhanh, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử, dịch vụ trực tuyến và mạng xã hội.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó là các vấn đề an ninh mạng đang trở nên phức tạp hơn, gây ra nhiều mối đe dọa và rủi ro cho an ninh quốc gia, an toàn thông tin và quyền lợi của người dân.Một trong những diễn biến chính trên không gian mạng ở Việt Nam hiện nay là tình trạng tấn công mạng. Các cuộc tấn công mạng có thể đến từ các hacker chuyên nghiệp, các nhóm tội phạm mạng, hoặc thậm chí là các quốc gia khác. Những cuộc tấn công này có thể nhằm vào các cơ quan chính phủ, các công ty lớn, ngân hàng, trang thông tin điện tử, hoặc thậm chí là các cá nhân. Mục đích của những cuộc tấn công mạng này thường là để đánh cắp thông tin, phá hoại hệ thống, hoặc gây ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của các tổ chức, cơ quan hay cá nhân bị tấn công.

Ngoài ra, việc lợi dụng không gian mạng để phát tán các thông tin sai lệch, tin giả, thông tin phản động, hay các hình thức tác động thông tin khác đang trở thành vấn đề nghiêm trọng. Các tác động này có thể làm mất niềm tin của người dân vào Đảng và Chính phủ, và dẫn đến các rủi ro xã hội khác. Đã có việc sử dụng các tài khoản giả mạo để tung ra các thông tin sai lệch, phản động về các vấn đề nhạy cảm như chủ quyền biển đảo, biên giới... Các tài khoản giả mạo thường được tạo ra với tên, hình ảnh và thông tin cá nhân của người dân thật nhằm gây sự tin tưởng của người đọc.

Từ đó, các tin tức, bài viết, hoặc những phát ngôn thiếu chính xác, thiếu căn cứ được đăng tải trên các trang mạng xã hội, trang web tin tức hoặc diễn đàn để gây sự chú ý của người dùng mạng. Một số trường hợp, các tài khoản giả mạo còn được sử dụng để tạo ra các cuộc trò chuyện, thảo luận giả tạo nhằm gây ảnh hưởng đến quan điểm của người đọc hoặc đưa ra những ý kiến không có căn cứ để xuyên tạc, bôi nhọ những cá nhân, tổ chức, đảng phái cụ thể. Các hoạt động này không chỉ ảnh hưởng đến ý thức cộng đồng mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

 

CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và internet như hiện nay, đã tạo ra môi trường không gian mạng rộng lớn, tiềm ẩn nhiều tác động tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch đang lợi dụng triệt để môi trường không gian mạng để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta . Đứng trước tình hình đó, ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Bên cạnh phải xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân truyền thống, cần thiết và đặc biệt quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng trên không gian mạng, bao gồm chính sách, pháp luật quản lý hoạt động trên không gian mạng; các bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng và bố trí các hạ tầng, dịch vụ, tài khoản trên không gian mạng.

Ngày 10/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến năm 2025, tầm nhìn 2030 theo Quyết định số 964/QĐ-TTg. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và mạng internet, không gian mạng đã trở thành một môi trường rất quan trọng cho hoạt động tình báo, phản gián và tấn công gián điệp. Việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng giúp bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo an toàn thông tin, tránh các hoạt động phá hoại, tấn công mạng và bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng.Trên không gian mạng, "thế trận lòng dân" bao gồm việc xây dựng một mối quan hệ tốt giữa Đảng, chính phủ, các tổ chức chính trị và người dân thông qua các hoạt động truyền thông, giáo dục và tương tác trực tuyến.

Công tác này sẽ giúp tăng cường sự ủng hộ của người dân đối với các chính sách của Đảng và chính phủ, bảo vệ tư tưởng của đảng và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.Với sự phổ biến của mạng internet, thông tin tràn lan và đa dạng, tuy nhiên đôi khi thông tin sai lệch và độc hại cũng được lan truyền rộng rãi. Việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng giúp xây dựng nền tảng thông tin chính thống, đảm bảo thông tin đúng và chính xác được truyền tải đến người dân, giúp người dân có đánh giá chính xác về các vấn đề của xã hội.Trên không gian mạng, "thế trận lòng dân" còn có ý nghĩa tạo dựng một hình ảnh tích cực về Đảng, chính phủ và đất nước trên mạng, tăng cường sự ủng hộ của người dân và chống lại các hoạt động tác động tiêu cực của các tổ chức và cá nhân phản đối chính quyền.

THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

Trong bối cảnh Việt Nam và thế giới đang chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế số và xã hội thông tin, việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trở nên vô cùng quan trọng. Điều này không chỉ giúp bảo vệ, củng cố sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng và nhà nước, mà còn góp phần xây dựng một nền tảng tư tưởng vững chắc, đồng thời tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử. Vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của nhân dân vào thực tiễn Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của “lòng dân”. Trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc” và “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”.

“Thế trận lòng dân” là tinh thần yêu nước, tình đoàn kết gắn bó, khát vọng độc lập tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, nhân lên tạo thành nền tảng chính trị vững chắc, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, sẵn sàng huy động nhằm thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

Do đó, thế trận lòng dân là loại hình thế trận đặc biệt, không thể hiện ra bằng hình hài cụ thể như thế trận quân sự, quốc phòng mà được thể hiện bằng sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc theo từng cấp độ khác nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng lãnh đạo của toàn dân, vì vậy nền tảng tư tưởng của Đảng là rất quan trọng. Việc xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng giúp bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, giúp duy trì sự ổn định chính trị, tăng cường sự đoàn kết và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội.

BÀI VIẾT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 78 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXH VIỆT NAM: DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
       Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
                        ---000---

Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn.

Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.

Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng "Nhân sinh thất thập cổ lai hy", nghĩa là "Người thọ 70, xưa nay hiếm".

Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người "xưa nay hiếm" nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?

Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.

TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.

NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.

Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

  Còn non, còn nước, còn người,
   Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!

Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.

VỀ PHONG TRÀO CỘNG SẢN THẾ GIỚI - là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!

Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.

Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.

VỀ VIỆC RIÊNG - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.

Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.

Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.

Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.

Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hà nội, ngày 10 tháng 5 năm 1969.
HỒ CHÍ MINH
Yêu nước ST.

VIỆT NAM -THẾ GIỚI: NGƯỜI PHÁT NGÔN BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM THÔNG BÁO TỔNG THỐNG MỸ JOE BIDEN SẼ THĂM CHÍNH THỨC VIỆT NAM THEO LỜI MỜI CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

         Bộ Ngoại giao Việt Nam thông báo Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ thăm Việt Nam trong hai ngày 10 và 11-9 theo lời mời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng!

Ngày 29-8, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng thông báo:
"Dự kiến Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ thăm Việt Nam từ ngày 10 đến 11-9 theo lời mời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chúng tôi tin rằng các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước sẽ làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Mỹ, đưa quan hệ hai nước phát triển ổn định, thực chất và lâu dài trên tất cả các lĩnh vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển tại khu vực cũng như trên thế giới".

Theo thông báo ngày 28-8 của Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Biden sẽ đến Hà Nội ngày 10-9 và có các cuộc gặp với lãnh đạo cấp cao của Việt Nam để "thảo luận các biện pháp tăng cường hơn nữa hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam. 

Thông báo cũng cho hay các nhà lãnh đạo sẽ "khám phá các cơ hội để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, tập trung vào công nghệ và đổi mới, mở rộng quan hệ nhân dân thông qua trao đổi giáo dục và các chương trình phát triển lực lượng lao động, chống biến đổi khí hậu cũng như tăng cường hòa bình, thịnh vượng và ổn định ở các nước khu vực".

Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, đến năm 2013 thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện.

Như vậy chuyến thăm lần này của Tổng thống Mỹ Biden rơi vào dịp kỷ niệm tròn 10 năm thiết 
lập Đối tác toàn diện giữa hai nước.

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper nhấn mạnh cột mốc 10 năm nói trên. Ông cũng cho biết trong vòng 8 tháng qua, khoảng 1/4 nội các Mỹ đã đến thăm Việt Nam. Đoàn cấp bộ trưởng Mỹ thứ năm sang Việt Nam và cũng là gần đây nhất là đoàn của Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen.

Tổng thống Mỹ Biden sang Việt Nam ngay trong nhiệm kỳ đầu
Chuyến thăm của Tổng thống Biden đánh dấu ông là vị tổng thống Mỹ thứ hai kể từ năm 1995 đến Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu.

Tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao là ông Bill Clinton (tháng 11-2000). Kể từ đó, mỗi đời tổng thống Mỹ đều sang Việt Nam như George W. Bush (tháng 11-2006), Barack Obama (tháng 5-2016).

Tổng thống Donald Trump, trong nhiệm kỳ từ năm 2017 đến 2021 đã hai lần sang thăm Việt Nam. Lần đầu ông đến Đà Nẵng dự Hội nghị cấp cao APEC và thăm chính thức Việt Nam (tháng 11-2017). Lần thứ hai vào tháng 2-2019 để dự Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên.

Hiện Mỹ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, là thị trường xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam vượt mốc 100 tỉ USD.

Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ đã tăng hơn 240 lần từ khi bình thường hóa quan hệ. Từ 451 triệu USD (năm 1995) lên hơn 123 tỉ USD vào năm 2022.

Việt - Mỹ hướng tới tầm quan hệ mới khi phù hợp
Tại buổi họp báo thường kỳ chiều 17-8, bình luận về quan hệ Việt Nam và Mỹ, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước trong thời gian qua đã phát triển sâu rộng, hiệu quả, thực chất trên mọi lĩnh vực của quan hệ song phương cũng như tại các cơ chế đa phương.

"Hai bên đang trao đổi các biện pháp để tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt - Mỹ theo hướng ổn định, thực chất, lâu dài, hướng tới tầm quan hệ mới khi điều kiện phù hợp, đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển tại khu vực cũng như trên thế giới", người phát ngôn Bộ Ngoại giao khẳng định./.
Môi trường ST.

THẾ GIỚI -VIỆT NAM: THỦ TƯỚNG SINGAPORE ĐĂNG FACEBOOK "CẦU THÊ HÚC RỰC RỠ, ĐỀN NGỌC SƠN CỔ KÍNH"!

         Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đã có một ngày bận rộn trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, ông cho biết đã gặp lại những người bạn cũ và kết nối thêm những người bạn mới!

Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long vừa đăng tải loạt ảnh cập nhật 2 ngày đầu trong chuyến thăm Việt Nam. Trên Facebook ông cũng gắn thẻ Bộ trưởng Ngoại giao Vivian Balakrishnan, Bộ trưởng Giáo dục Chan Chun Sing, Bộ trưởng Nhân lực và Bộ trưởng thứ hai Thương mại và Công nghiệp Tan See Leng trong loạt ảnh này.

Dòng trạng thái được Thủ tướng Lý Hiển Long đăng có nội dung: "Một ngày đầu tiên bận rộn ở Việt Nam. Vào buổi sáng đặt vòng hoa vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh trước cuộc gặp với Thủ tướng Phạm Minh Chính. Sau đó, tôi cũng đã đến gặp Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ".

Thủ tướng Lý Hiển Long cho biết lần gần đây nhất ông đến thăm Hà Nội là vào năm 2018. "Tôi rất vui khi có cơ hội gặp gỡ lãnh đạo Việt Nam - kết nối lại với những người bạn cũ và kết thêm những người bạn mới", ông chia sẻ.

Ông cũng bày tỏ niềm vui khi tối 27/8 đã đi dạo quanh Hồ Hoàn Kiếm.

Bài đăng của ông nhận được rất nhiều sự tương tác của cả người Việt Nam và người Singapore.

Trước đó, khi đặt chân đến Hà Nội, Thủ tướng Lý Hiển Long cũng đăng tải lời chào cùng hình ảnh chùa Trấn Quốc, ông vui mừng khi thăm Việt Nam đúng dịp hai nước kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao và kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.

Thủ tướng Lý Hiển Long cũng chia sẻ, ngoài quan hệ ngoại giao, người Singapore và người Việt còn có nhiều sở thích chung, đó là ẩm thực.

Thủ tướng Lý Hiển Long thường xuyên tự ghi lại hình ảnh bằng điện thoại di động của mình và đăng những tấm ảnh này lên các trang mạng xã hội. Ông là một trong những nhà lãnh đạo lập tài khoản Facebook từ rất sớm vào tháng 4/2012, hiện đã có tới 1,7 triệu lượt người theo dõi thường xuyên.

Hôm nay, Thủ tướng Lý Hiển Long và Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ đồng chủ trì một loạt các hoạt động: Dự Hội nghị thúc đẩy triển khai thực hiện các dự án hợp tác đầu tư Việt Nam – Singapore; gặp gỡ các sinh viên tiêu biểu và ăn trưa cùng sinh viên tại Đại học Quốc gia Hà Nội; dự phiên đối thoại giữa lãnh đạo trẻ hai nước với các Bộ trưởng.

- Ảnh "Cầu Thê Húc sơn màu đỏ tươi dọc bờ hồ Hoàn Kiếm. Chắc chắn đây là một trong những điểm tham quan bắt mắt ở Hà Nội, dù là ban ngày hay ban đêm", Thủ tướng Lý Hiển Long viết.

- Loạt ảnh về đền Ngọc Sơn được ông đăng tải và cho biết đi qua cầu Thê Húc để vào ngôi đền được xây dựng vào thế kỷ 19 thờ Trần Hưng Đạo – một chỉ huy quân sự nổi tiếng thời nhà Trần.

- Hình ảnh 2 cửa hàng kem kẹp Singapore được Thủ tướng Lý Hiển Long đăng lên và giới thiệu: "Đối với nhiều người dân Singapore cũng như du khách đến Singapore, những người bán bánh sandwich kem là hình ảnh quen thuộc. Loại này hiện có thể được tìm thấy ở Việt Nam, nơi chúng được gọi là “kem kẹp”. Hy vọng người Việt Nam cũng thích món kem này nhiều như chúng tôi!"./.


Ảnh: Facebook Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long.
Yêu nước ST.

BÀI VIẾT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 78 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXH VIỆT NAM: "LUẬN TỘI SỬ TẶC"!

Tội gì cũng có thể tha
Riêng tội lật Sử, lột da lũ này.
Giang Sơn gấm vóc hôm nay
Ông Cha đánh đổi chất đầy máu xương!

Sử vàng chép những đau thương
Bốn ngàn năm ấy con đường chông gai!
Chiến tranh Vệ Quốc trải dài
Theo chiều Đất Nước 🇻🇳 mấy ai không tường?

Ngày nay lắm kẻ ẩm ương
Tiếp tay cho lũ bất lương làm càn.
Đừng để dân phải oán than
Hãy diệt nguỵ Sử, tà gian, nịnh thần.

Lịch Sử ghi rõ nhân thân
Ai tà, ai chính chỉ cần chép sang. 
Sao phải nghiên cứu rình rang?
Để cho nguỵ Sử thay trang, xoá nhoà.

Những trang Lịch sử chói loà
Núi xương, sông máu đã hoà vào đây.
Lật Sử, tội đáng phanh thây
Làm gương cho kẻ thờ Tây liệu chừng./.





Yêu nước ST.