Để xây dựng Đảng về
đạo đức theo Tư tưởng Hồ Chí Minh cần nhận thức một cách toàn diện về nội dung
xây dựng. Bên cạnh xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng
viên còn phải chú trọng đến xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ
chức đảng...
Xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng ta quan
tâm từ nhiều kỳ đại hội và chính thức được đặt ra tại Đại hội lần thứ XII của
Đảng. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tích cực tổ chức thực
hiện, tạo được những chuyển biến về đạo đức của cán bộ, đảng viên và tổ chức
đảng. Tuy nhiên, số lượng tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đạo đức vẫn còn
nhiều, hành vi suy thoái đạo đức ngày càng đa dạng, tinh vi, phức tạp; phạm vi
và mức độ suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp
tục khẳng định một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng là kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh một cách toàn diện, trong đó có tăng cường và
nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức. Quan điểm đó là sự tiếp nối Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói
riêng. Tuy nhiên, khi vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức
hiện nay, cần nhận thức rõ xây dựng Đảng về đạo đức bao gồm những nội dung gì?
Chỉ có nhận thức được đầy đủ chúng ta mới có cơ sở xác định các chủ thể và các
giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức một cách hiệu quả.
Trước đây, khi nói đến đạo đức trong Đảng,
chúng ta mới chỉ quan tâm đến việc xây dựng, củng cố những phẩm chất, chuẩn mực
đạo đức của cán bộ, đảng viên như: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; thương yêu con người, tinh thần quốc tế trong
sáng. Đó là một nội dung rất quan trọng nhưng chưa đầy đủ. Nghiên cứu Tư tưởng
Hồ Chí Minh có thể thấy, Người không chỉ đề cập đến đạo đức của cán bộ, đảng
viên với tư cách là thành viên của tổ chức mà Người còn quan tâm đến đạo đức của
tổ chức đảng, nơi mà mỗi cá nhân in đậm dấu ấn của mình, thể hiện tư duy, đạo
đức và hành động của mình. Do đó, vận dụng tư tưởng của Người, bên cạnh việc
xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên còn cần phải chú trọng đến xây dựng đạo
đức của tổ chức đảng. Có thể lý giải điều này như sau:
Về quan niệm
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh nhận thức, hành vi và đánh giá cách ứng xử của cá nhân và của tập thể, tổ
chức trong quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội và quan hệ với giới tự nhiên để
bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền
vững.
Đạo đức dưới khía cạnh là hành vi đạo đức, là
hành động của cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội
và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phận của cá nhân trong những
hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ nói đến đạo đức cá nhân,
mà Người còn nói đạo đức của cộng đồng, đạo đức của tổ chức. Người nhắc đến đạo
đức của dân tộc: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” hay
“Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hoà thì không làm những việc nhỏ
nhen, báo thù báo oán” và “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Nói
về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam, người nói đến “tư cách của đảng chân
chính cách mạng” và chỉ ra những tiêu chỉ cụ thể để đánh giá tính chân chính
của tổ chức đảng. Đây là nét sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong quan niệm
về đạo đức.
Như vậy, về mặt nhận thức, Hồ Chí Minh không
chỉ quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các chuẩn mực đạo đức của
cán bộ, đảng viên, Người còn quan tâm đến các chuẩn mực đạo đức của tổ chức
đảng. Hay nói cách khác, xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các quy tắc,
chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản và của tổ chức đảng chân chính
cách mạng trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại.
Đạo đức cách mạng là một nền đạo đức mang tính nhân văn và tiến bộ. Do đó, nếu
xây dựng Đảng mà chỉ quan tâm đến đạo đức của cá nhân cán bộ, đảng viên, bỏ qua
đạo đức của tổ chức đảng sẽ là chưa toàn diện.
Về nội dung
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã chỉ
ra mối quan hệ giữa đạo đức của tổ chức đảng và đảng viên. Người nêu câu hỏi:
“Đảng là ai” và Người trả lời: “Đảng là mỗi chúng ta", “Lãnh đạo là làm
đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”. Cán bộ, đảng viên cấu thành nên tổ chức
đảng, mỗi đảng viên đều phải tham gia sinh hoạt chính trị trong tổ chức đảng.
Do đó vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng phụ thuộc rất lớn vào
chất lượng đội ngũ đảng viên. Đạo đức của Đảng thể hiện trực tiếp và sinh động
thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nhân dân cũng hoàn toàn có lý khi
đánh giá đạo đức của Đảng thông qua đạo đức của những cá nhân đảng viên cụ thể,
nhất là những đảng viên mà họ biết đến hay tiếp xúc nhiều nhất.
Tuy nhiên, Đảng là một tổ chức, một khối đoàn
kết và thống nhất để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân. Một tổ chức đảng
chân chính cách mạng là môi trường thuận lợi cho những cái tốt, cái đẹp, cái
đạo đức sinh sôi, nảy nở và lan tỏa trong mỗi người cũng như trong cộng đồng.
Đó cũng là nơi tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng,
là nơi kiểm điểm, phê bình, góp ý đảng viên, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng
viên về đạo đức. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức vì thế có vai trò không thể
thiếu của tổ chức đảng và cấp ủy các cấp. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi chi bộ, mỗi
cấp ủy đảng phải luôn tăng cường công tác tư tưởng của Đảng, nâng cao đạo đức
cách mạng, bảo đảm chặt chẽ kỷ luật và tổ chức của Đảng. Tổ chức đảng và cấp ủy
phải chịu trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Người khẳng định: “Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng
viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng
trong chương trình công tác của cấp ủy”. Tổ chức đảng các cấp cũng phải chịu
trách nhiệm về việc suy thoái, vi phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên trong tổ
chức của mình. Nếu trong tổ chức đảng có đảng viên vi phạm thì trách nhiệm
trước hết thuộc về cấp ủy của tổ chức. Khi nói với tội tham ô, lãng phí của cán
bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cấp ủy cùng với
cán bộ cần tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức”.
Rõ ràng, xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và
đạo đức của đảng viên có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau,
không thể bỏ qua mặt nào.
Thứ hai, Hồ Chí Minh không
những đã chỉ ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để cán bộ, đảng viên của Đảng
phải tu dưỡng, rèn luyện mà Người còn chỉ ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức
của tổ chức đảng cần phải xây dựng với cách tiếp cận về tiêu chí của “một đảng
chân chính cách mạng”, gồm 12 điều trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947).
12 điều cần phải xây dựng ấy có thể tóm gọn lại thành những tiêu chí đạo đức cụ
thể như sau:
Xây dựng đạo đức trong tôn chỉ, mục đích hoạt
động của Đảng: Đảng phải làm tròn sứ mệnh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là chuẩn mực đạo đức cao nhất.
Xây dựng đạo đức trong nghiên cứu, vận dụng
nền tảng lý luận của Đảng: Sự giác ngộ về cách mạng, về Chủ nghĩa Mác - Lênin,
về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là sự khởi đầu cho sự hình thành tư
cách người cán bộ cách mạng. Lý luận đúng đắn sẽ giúp mỗi cá nhân nhận ra sai
lệch trong tư tưởng, nhận thức và hành động; khắc phục những biểu hiện như:
phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi nền tảng tư tưởng của Đảng...
Xây dựng đạo đức trong đường lối của Đảng:
Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đó là
điểm căn cốt, là vấn đề then chốt. Nắm vấn đề then chốt, giữ vững vấn đề then
chốt, dựa trên cái then chốt để giải quyết linh hoạt, thiết thực, phù hợp với
tình hình thực tế là yêu cầu đối với xây dựng đường lối của Đảng đó chính là
đạo đức.
Xây dựng đạo đức trong mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng với Nhân dân: Đảng phải phát huy vai trò của Nhân dân, “phải luôn luôn do
nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị”. Đảng phải chăm lo lợi
ích của nhân dân, “luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác
của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng”.
Xây dựng đạo đức trong tổ chức và kỷ luật của
Đảng: Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết
họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo”, đồng thời phải tẩy bỏ những phần tử hủ hoá
ra ngoài Đảng, phải giữ kỷ luật nghiêm minh từ trên xuống dưới.
Xây dựng bản lĩnh trước
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng: Sai lầm, khuyết điểm của Đảng, nhất là
đảng cầm quyền là điều không thể tránh khỏi. Thái độ đúng đắn, khách quan, khoa
học của Đảng trước những sai lầm, khuyết điểm đó là: công khai thừa nhận, “Đảng
không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết
điểm của mình” và kiên quyết sữa chữa.
Thứ ba, vì quan tâm đến nội
dung xây dựng đạo đức của tổ chức đảng, cho nên trong quan niệm của Hồ Chí Minh
chủ thể tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức không chỉ là cán bộ, đảng viên mà
còn từ phía tổ chức đảng và các cấp ủy. Đồng thời, Người đưa ra những chỉ dẫn
quan trọng để tổ chức đảng và các cấp ủy phát huy vai trò của mình trong xây
dựng Đảng về đạo đức. Nhìn lại toàn bộ di sản của Người, có thể thấy vai trò
của cấp ủy và tổ chức đảng trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, trong
công tác nghiên cứu và vận dụng lý luận, trong việc thường xuyên tuyên truyền,
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, trong phát huy dân chủ, tự
phê bình và phê bình, trong công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng
viên… Đây đều là những giải pháp quan trọng để tổ chức đảng xây dựng những
chuẩn mực đạo đức.
Thực trạng hiện nay
Những năm gần đây, bên cạnh việc suy thoái đạo
đức của cán bộ, đảng viên ngày một gia tăng và mức độ ngày càng nghiêm trọng,
còn có không ít các tổ chức đảng vi phạm đạo đức. Những vi phạm của tổ chức
đảng diễn ra khá đa dạng, phức tạp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; dưới
nhiều hình thức và được che giấu tinh vi, diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây ra những hậu quả
nghiêm trọng.
Theo báo cáo, trong năm 2017, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và cấp ủy các cấp sau khi kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên đã
kết luận: 708 tổ chức đảng và 1.482 đảng viên có khuyết điểm vi phạm, phải thi hành
kỷ luật 22 tổ chức đảng và 350 đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên bị khai
trừ khỏi Đảng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương qua kiểm tra có dấu hiệu vi phạm 12
tổ chức đảng và 16 đảng viên, trong đó có 3
ủy viên Trung ương Đảng (nhiệm kỳ XI, XII); đã thi hành kỷ luật theo thẩm quyền
đối với 18 đảng viên, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư thi hành kỳ luật 3 tổ chức đảng bằng hình thức cảnh cáo và 10 đảng viên từ
cảnh cáo đến cách chức; đề nghị tổ chức đảng cấp dưới thi hành ký luật 2 tổ
chức đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 3.589 tổ
chức đảng và 10.363 đảng viên, kết luận 2,398 tổ chức đảng và 8.453 đảng viên
có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 173 tổ chức và 3.761 đảng viên.
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 11 (khóa
XII), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Từ đầu nhiệm kỳ
Đại hội khóa XII đến giữa năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật hơn 70 cán bộ cao cấp
thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 1 ủy viên Bộ Chính trị và 4 ủy viên
Trung ương Đảng khóa XII, 14 ủy viên Trung ương Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư
cũng đã kỷ luật 7 tổ chức đảng (Ban Cán sự đảng Bộ Công thương, Ban Cán sự đảng
Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban
Cán sự đảng bộ Giao thông vận tải, Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước, Ban Thường
vụ Thành ủy Đà Nẵng và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc).
Hơn thế nữa, vi phạm đạo đức của tổ chức đảng
mang tính tập thể, có sự điều hành của người đứng đầu, có tổ chức chặt chẽ, có
sự thỏa hiệp, do đó sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng. Những vụ án điển hình
thời gian vừa qua phản ánh phần nào thực trạng trên như: Vụ án Vinalines do
Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Hàng hải Việt
Nam Vinalines thực hiện với tội danh tham ô tài sản, cố ý làm trái quy định của
Nhà nước và quản lý kinh tế, gây thiệt hại tài sản nhà nước 240.000 USD; vụ án
Đinh La Thăng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN giai đoạn
2009-2015, lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, buông lỏng
công tác kiểm tra, giám sát, quản lý tổ chức đảng và đảng viên dẫn đến nhiều
khoản đầu tư bị tổn thất, khó thu hồi với tổng số tiền lớn; vụ án đánh bạc công
nghệ cao liên quan đến Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa. Một số vụ án nghiêm
trọng, phức tạp khác như: vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản
nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, của Dự án 15 Thi Sách, Thành phố Hồ Chí
Minh; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý đất đai; vi phạm quy định về quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại thành phố Đà
Nẵng; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả
nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng Công ty Viễn thông Mobifone, Bộ Thông tin và
Truyền thông và các đơn vị có liên quan; vụ án “Giả mạo trong công tác; Sản
xuất, buôn bán hàng giả” xảy ra tại Công ty Lũng Lô và một số công ty, tổ chức
liên quan; vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra
tại Bộ Thông tin và Truyền thông...
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây
có thể thấy, để xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn
hiện nay, chúng ta cần nhận thức một cách toàn diện về nội dung xây dựng, cụ
thể là bên cạnh xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên
còn phải chú trọng đến xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ chức
đảng.
bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa