Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

 

Khi “con rối” vỡ mộng “miền đất hứa”

 

Sau một thời gian sống trên đất Mỹ, Trần Thị Nga đã lên mạng xã hội phát đi thông điệp “Mỹ là thiên đường của người này và là địa ngục của người kia”. Sự thật cay đắng của Nga đã cho thấy sự ảo tưởng và thân phận của những “con tốt”, “con rối” dưới bàn tay của những kẻ mượn danh nhân quyền chống phá Việt Nam.

Trần Thị Nga sinh năm 1977, lớn lên tại tỉnh Hà Nam. Năm 2003, Nga đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan và đã gặp gỡ, tiếp xúc với Nguyễn Văn Hùng, một kẻ từng sống lưu vong ở Úc, Đài Loan và là thành viên của tổ chức phản động Việt Tân. Khi còn ở trong nước, Nguyễn Văn Hùng đã có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, chống phá chính quyền. Sang Đài Loan, với danh nghĩa là Trưởng Văn phòng Trợ giúp pháp lý cho công nhân và cô dâu Việt ở Đài Loan, Hùng đã lôi kéo người lao động Việt Nam bỏ trốn hợp đồng, tham gia các hoạt động chống phá đất nước, trong đó có Trần Thị Nga.

Đi theo sự cổ suý của đối tượng phản động, từ tháng 9/2014 đến tháng 1/2017, Trần Thị Nga đã lập các tài khoản Blog, Facebook “Thuy Nga, Tran Thi Nga” và tài khoản mạng xã hội Youtube “Trần Thúy Nga” để làm, tàng trữ và phát tán hàng chục video clip có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, tung tin giả, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, đối tượng còn xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang; kêu gọi tẩy chay bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, đối tượng còn đưa ra những thông tin, hình ảnh sai sự thật về việc làm, hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong quá trình trả lời phỏng vấn của các đài, báo nước ngoài (những đài, báo có các hoạt động chống phá Việt Nam như Chân trời mới, RFA, SBTN…).

Ngày 21/1/2017, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hà Nam thi hành lệnh bắt tạm giam và khám xét nơi ở đối với Trần Thị Nga về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”, quy định tại Điều 88, BLHS năm 1999. Ngày 25/7/2017, TAND tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo Trần Thị Nga 9 năm tù giam theo khoản 1, Điều 88, BLHS và phạt quản chế 5 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù. TAND cấp cao tuyên y án sơ thẩm.

Trong thời gian chấp hành án tù, Trần Thị Nga thường xuyên không tuân thủ quy định của trại giam, khi được gọi điện cho người thân thì vu khống bị cán bộ trại giam “đàn áp, tra tấn”… Tuy nhiên, với chính sách nhân đạo, Trần Thị Nga đã được ra tù trước thời hạn và ngày 10/1/2020 bị trục xuất, sang định cư tại Mỹ cùng 3 người thân trong gia đình.

Như thường lệ, khi Trần Thị Nga bị bắt, xét xử và thi hành án, một số tổ chức, cá nhân thù địch ở nước ngoài lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền đã tiến hành nhiều hoạt động chống phá Việt Nam. Các đối tượng tung hô Trần Thị Nga là “người đấu tranh cho những thân phận bị dồn vào đường cùng”; “người đã hết mình cho cuộc chiến bất bạo động, vì những quyền tự do căn bản, bất chấp những truy bức, hành hạ, ngược đãi”; “tù nhân lương tâm”; “một blogger hoạt động bảo vệ cho những công nhân nhập cư”; “nhà hoạt động nhân quyền”… Đồng thời, các đối tượng phát tán nhiều tài liệu xuyên tạc, bóp méo vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Kèm theo đó, hàng loạt hoạt động vu cáo, xuyên tạc, tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và hà hơi, tiếp sức cho đối tượng Trần Thị Nga thông qua cái gọi là “Giải thưởng về nhân quyền”. Ngày 20/8/2018 và ngày 25/10/2018, Tổ chức Ân xá quốc tế (Al) ra “Thông cáo” và “Thư ngỏ khẩn cấp” kêu gọi cộng đồng quốc tế có hành động khẩn cấp cho Trần Thị Nga, xuyên tạc Việt Nam “vi phạm Công ước chống tra tấn” của Liên hiệp quốc và yêu cầu Việt Nam “trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện” cho đối tượng này.

Cũng trong năm 2018, Tổ chức Công giáo hành động chống tra tấn (ACAT) đã viết thư yêu cầu Tổng thống Pháp có các hoạt động can thiệp, gây sức ép để Việt Nam trả tự do cho 3 đối tượng, trong đó có Trần Thị Nga. Ngày 7/3/2019, Tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) ra “Thông cáo báo chí” về tình trạng của những nữ tù nhân trên khắp thế giới, tung tin xuyên tạc đối tượng Trần Thị Nga đang bị giam giữ trong những điều kiện “vô nhân đạo” và kêu gọi Việt Nam “trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện” cho đối tượng này.

Tháng 5/2019, bên lề sự kiện “Đối thoại nhân quyền” giữa Việt Nam và Mỹ, Scott Busby - Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về dân chủ, nhân quyền và lao động, Bộ Ngoại giao Mỹ đã gặp gỡ Trần Thị Nga trong trại giam. Ngày 1/2/2020, Tổ chức Chống tra tấn và án tử hình của Pháp Fondation (ACAT - France) đã cổ suý cho Nga khi trao cho đối tượng này cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Engel-du Terte năm 2019” với lý do “để khen thưởng và ủng hộ cuộc đấu tranh vì quyền con người ở một đất nước, nơi mà những người bảo vệ nhân quyền - tiếng nói độc lập cuối cùng - bị cầm tù”. Trước đó, tháng 12/2018, Tổ chức khủng bố Việt Tân cũng đã trao cho đối tượng này cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng”…

Những việc làm trên thực chất là những hoạt động của một số tổ chức, cá nhân có tư tưởng thù địch với Việt Nam, tìm mọi cách để hà hơi, tiếp sức cho những đối tượng vi phạm pháp luật, là những thủ đoạn cụ thể trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam.

Kể từ 10/1/2020, Trần Thị Nga bị trục xuất, đến Mỹ để định cư cùng 2 con nhỏ và một người già, ở một nơi mà nhiều người vẫn gọi là “thiên đường tự do”. Tuy nhiên, sau gần hai năm sống trên đất Mỹ, Trần Thị Nga đã vỡ mộng về “miền đất hứa” và quá bức xúc khi phải lên mạng xã hội để than thở.

Nga viết rằng, Mỹ là thiên đường của người này nhưng là địa ngục của người kia khi: “Thuê nhà không được vì chủ nhà đòi phải có Social; có nhà rồi thì không được sử dụng điện, gas, nước, Internet. Vì các công ty đó chỉ bán hàng cho những người có Social. Không được mua bảo hiểm y tế vì không có Social. Bị bệnh thì tự mà làm bác sĩ cho mình chứ không được đi làm tiền đâu mà trả viện phí. Được sống nhưng không được phép kiếm sống vì không có Social. Đi làm giấy tờ gì cũng không được vì không có Social. Mà Social lại đòi phải có giấy tờ, sống thì phải ăn, ăn mà không được đi làm kiếm ăn thì lấy gì để sống. Sống mà không có ăn, phải đi xin trợ cấp thì không được trợ cấp vì trợ cấp chỉ dành cho người có Social.

Được đến Mỹ, đất nước tự do như bao người nói là có “phúc”, phải biết ơn người này, biết ơn kẻ kia. Kết quả là đến Mỹ 2 năm rồi cả gia đình già trẻ lớn bé sống cảnh không giấy tờ, sống chờ đợi trong vô vọng. Được quyền sống nhưng không được quyền kiếm sống. Không trợ cấp cũng chẳng có cái quyền gì ngoài quyền hít không khí để tồn tại”… 

Thực tiễn vỡ mộng đó đã khiến cho Trần Thị Nga thốt lên chua xót: “Vậy là tôi đã có thêm một bài học một kinh nghiệm có giá trị”!

Vậy mà, khi còn trong tù, Nga không hối lỗi cải tạo để sớm được trở về với xã hội, trở về với cộng đồng hưởng cuộc sống thanh bình, tự do, mà còn nuôi hy vọng “vớ được cọc rơm của kẻ sắp chết đuối”, tìm kiếm mộng ảo nơi “thiên đường đất Mỹ”, giờ đây mới đớn đau tỉnh ngộ thì chuyện đã muộn rồi. Lời than thở chua cay của Nga cũng như một số đối tượng khác có tư tưởng, hành vi phản bội lại quê hương, đất nước hãy biết dừng lại trước khi quá muộn.

Có thể thấy rằng, các đối tượng chống phá Việt Nam được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, nhất là với cái bánh vẽ về việc được định cư ở những nơi gọi là “thiên đường, miền đất hứa” chẳng qua cũng chỉ là những công cụ, những “con tốt” để kẻ địch điều khiển. Không sớm thì muộn, các đối tượng lạc bước sai đường nếu không tỉnh ngộ, hối cải thì sẽ có chung một kết quả giống nhau, dù có sang “xứ thiên đường” thì cũng trở nên lạc lõng và đáng nói hơn, bị chính những kẻ từng hứa hão đường mật “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền” gạt bỏ.

Những năm qua, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách để hiện thực hóa âm mưu chống phá nhằm thay đổi thế chế chính trị ở Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn khác nhau theo từng thời điểm cụ thể. Trong đó, hoạt động câu móc, tuyển lựa, đào tạo các đối tượng chống đối ở trong nước và tung hô, cổ súy, hà hơi tiếp sức cho các đối tượng này luôn là chiêu bài quen thuộc. Những cá nhân ảo tưởng, ngộ nhận, mơ mộng hão huyền khi được dụ dỗ, trao cho ít tiền bạc, vật chất sẽ rơi vào “vòng xoáy” đó.

Thực tiễn cuộc sống của Trần Thị Nga trên đất Mỹ hiện nay là một minh chứng, bài học cảnh tỉnh cho những kẻ lầm đường, lạc lối, nếu lỡ tin và đi theo cái gọi là “vì dân chủ, nhân quyền” thì hãy dừng lại trước khi quá muộn.

CUỐI CÙNG ANH CŨNG ĐÃ ĐƯỢC TRỞ VỀ TRONG VÒNG TAY CỦA MẸ RỒI

💖💖💖💖

      Sau hơn nửa thế kỷ ngóng đợi, cuối cùng Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Tân (quê Nghệ An) cũng đón được con trai là liệt sĩ Nguyễn Tất Tân hi sinh tại Chiến trường Tây Ninh trở về.

Người mẹ già 110 tuổi bàn tay nhăn nheo gầy khô ôm hài cốt con mình được phủ trong Lá quốc kì khiến ai nấy không cầm được nước mắt. Chiến tranh thật khốc liệt, chỉ có ai sinh ra và sống trong gia đình có liệt sĩ thì họ mới hiểu nỗi đau mất đi người thân khi còn quá trẻ nó dày vò như thế nào.


Hãy khóc đi mẹ ơi, khóc để quên đi hết nỗi đau mẹ đã chịu đựng để nuôi con trai mẹ rồi cống hiến cho tổ quốc, khóc cho ngày vui khi mẹ lại được lần thứ 2 bế đứa con trai hi sinh trở về đúng như 50 năm về trước mẹ đã nuôi anh lớn, tiễn anh lên đường mà không hẹn ngày trở về.


Chứng kiến hình ảnh vô cùng xúc động này, nhiều người không nén được nước mắt. Ai nấy đều cảm thấy xót xa xen lẫn tự hào vì sự hy sinh của những người mẹ, những liệt sĩ cho Tổ quốc. "Con cháu đời sau tụi con kính cẩn nghiêng mình cảm ơn những hy sinh thầm lặng của những người mẹ và các liệt sĩ đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ bình yên cho đất nước".

Môi Trường ST.

HOA HẬU ĐỖ THỊ HÀ ĐÃ MANG NIỀM TỰ HÀO CỦA NÚI RỪNG TÂY NGUYÊN, VIỆT NAM RA THẾ GIỚI!

Những ngày qua, dư luận trong nước có ý kiến trái chiều liên quan đến việc Hoa hậu Đỗ Thị Hà thể hiện khả năng đánh đàn T'rưng với tác phẩm Cô gái vót chông (nhạc sĩ Hoàng Hiệp) tại cuộc thi Miss World 2021 (Hoa hậu thế giới). Dù đã lọt vòng bán kết tài năng tại Miss World 2021 nhưng tiết mục đánh đàn T'rưng với tác phẩm Cô gái vót chông do Đỗ Thị Hà thể hiện tại cuộc thi Miss World chẳng hiểu vì lý do gì lại bị một số người chỉ trích. Thậm chí có nhiều kẻ nghe hơi nồi chõ đã vội quy kết “sang biểu diễn trên đất Mỹ nhưng lại biểu diễn bài hát chống Mỹ với lời lẽ man rợ”, hoặc bài hát đã là quá khứ, không nên biểu diễn những tiết mục kiểu như thế hay “chọn bài hát này là phá hoại tình hữu nghị Việt - Mỹ”… Xin có đôi lời như sau:


Đỗ Thị Hà sử dụng thành thạo đàn T'rưng, nét đặc trưng của núi rừng Tây nguyên bất khuất, anh hùng và âm vang của núi rừng Tây nguyên không thể gắn với những bài hát kiểu phương Tây hay những bài hát mang âm hưởng của đồng bằng. Đàn đàn T'rưng không còn là chính nó khi lấy râu ông nọ chắp cằm bà kia. Sau phần thi, Hoa hậu Đỗ Thị Hà đã lọt top 27 người đẹp tài năng cùng với các thí sinh đến từ Ireland, Bulgaria, Jamaica, Ecuador, Scotland, Singapore... tại Puerto Rico. Ban Giám khảo và người hâm mộ đánh giá cao tiết mục này và những người tham gia chẳng ai có ý kiến gì. Vậy lý do gì để các bạn phản đối? 


Lòng tự tôn dân tộc ít nhiều đều chảy trong huyết quản của con người ta, người Nga vẫn biểu diễn Kachiusa ở mọi nơi trên thế giới, người Mỹ vẫn hát The Star-Spangled Banner có đoạn: “Lồng lộng gió trên chiến hào/Hồn non sông hiên ngang vẫy chào/Đầy trời rền vang tiếng pháo/Tiếng bom gào như xé gió”. Người Pháp vẫn nghêu ngao bài La Marseillaise với những đoạn như: “Cầm vũ khí, hỡi đồng bào! Lập thành những đoàn quân! Cùng tiến bước! Tiến bước! Máu quân thù ô uế! Sẽ tưới đẫm ruộng ta” …Vậy tại sao Cô gái vót chông lại không thể vang lên? Tôi đồ rằng, những người phản đối đa số là những kẻ từng ôm chân Mỹ, Pháp hoặc con cháu họ. Những kẻ từng bị người Việt Nam, trong đó có nhân dân các dân tộc Tây nguyên anh hùng đánh cho phiến giáp bất hoàn nên vẫn còn cay cú. Nên nhớ cuộc thi Miss World 2021 tổ chức tại Puerto Rico chứ không phải ở Hoa Kỳ. Cứ cho là ở Hoa Kỳ thì người Mỹ cũng chẳng ai phản đối Tiến Quân Ca và Đại Hồng Kỳ của Việt Nam ngoài đám vong quốc nô.


Những ai bắn vào quá khứ bằng một phát súng lục thì ắt hẳn kẻ đó phải nhận lại bằng một tràng đại bác! Khép lại quá khứ để hướng về tương lại chứ không bao giờ đóng lại! Đó là điều chắc chắn và những bài hát như cô gái vót chông phải được hát nhiều hơn, biểu diễn nhiều hơn. Để thế giới biết rằng, người Việt Nam anh hùng trong chiến đấu chống xâm lược, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của tổ quốc. Thế nhưng, sau tất cả vẫn sẵn sàng chìa tay làm bạn với bất kỳ quốc gia nào yêu chuộng hòa bình, phẩm giá của con người và công lý!


Bài hát Cô gái vót chông được khai sinh trong thời kỳ nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang huy động sức người, sức của để đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Tiêu diệt “bọn giặc Mỹ cọp beo” đã gây bao tang thương mất mát cho nhân dân Việt Nam. Nhờ máu xương của hàng hàng lớp lớp các thế hệ người Việt Nam thì đất nước này mới có hòa bình, độc lập, mới có được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; mới có được cái tình hữu nghị Việt - Pháp, Việt - Mỹ. Vót chông để diệt giặc Mỹ xâm lược năm xưa chứ không phải là những người bạn Mỹ ngày nay. Đó là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau!


Những cô gái Tây Nguyên vót chông đánh giặc để giữ nước và góp phần thống nhất tổ quốc thì mới có chuyện người Pháp, Mỹ phải đầu hàng vô điều kiện và buộc phải công nhân Việt Nam; nhờ thế thì mới có cái tình hữu nghị như ngày nay. Nhắc lại quá khứ hay tự hào về những giai điệu của một thời hoa lửa không phải là kích động thù hận. Đó chính là sự tri ân những người đã ngã xuống để tổ quốc được đứng dậy và bay vút lên cao! Chỉ những kẻ mang tư duy nô lệ, thân phận tôi đòi thì mới phản đối Đỗ Thị Hà biểu diễn tiết mục Cô gái vót chông. Riêng việc này, đại đa số người Việt Nam ủng hộ Đỗ Thị Hà. Cũng là Hoa hậu những tâm, tầm của Đỗ Thị Hà hơn rất, rất xa cô Hoa Hậu Thùy Dung, người mới sang Mỹ vài năm đã vội chê cái không khí ở Việt Nam "khó thở". Đúng là chỉ có BBC, RFA, Việt Tân thì mới ngợi khen cô Thùy Dung. Với người Việt Nam chân chính thì đó là lời lẽ của cái giống "vô loài"./.



Môi Trường ST.

KHÁT VỌNG PHỒN VINH, HẠNH PHÚC VÀ SỨC MẠNH TIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN TRƯỚC YÊU CẦU MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC

Năm 2021, đánh dấu chặng đường 35 năm đổi mới của đất nước. Những thành quả đạt được từ trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước đã cho phép Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam hướng đến khát vọng lớn hơn là phồn vinh, hạnh phúc. Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc chính là sự kết tinh bản lĩnh, trí tuệ của Đảng dựa trên sự đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Đó không phải là khát vọng giản đơn, xuôi chiều, mà được bồi đắp trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng thời tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong cần phải kiên quyết khắc phục, thích ứng, vượt qua. Đó cũng là sự vận dụng phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến, nhạy bén chớp thời cơ, chủ động ứng phó với nguy cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển.

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mang sức sống hiện thực được hình thành, bồi đắp trên một cơ tầng khoa học về lộ trình hướng đích, bước đi được dự liệu rõ ràng và là sự kế thừa, hoàn thiện những mục tiêu đã được xác định từ những giai đoạn trước. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúcgắn liền với quá trình xây dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và giá trị chuẩn mực, cùng sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn liền với phát huy đồng bộ hệ động lực phát triển: Dân chủ xã hội chủ nghĩa; đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và cuộc bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp cho thấy, quần chúng nhân dân đã sẵn sàng hành trang, tâm thế để cùng Đảng, Nhà nước bước vào vận hội mới. Do vậy, để phát huy được tối đa sức mạnh niềm tin của nhân dân vào quá trình hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thiết nghĩ cần phải chú trọng đến các định hướng cụ thể sau:

Thứ nhất, cần nâng tầm và đặt đúng vai trò, vị trí của niềm tin nhân dân trong chiến lược phát triển. Phải xem sức mạnh niềm tin nhân dân là động lực của sự phát triển quốc gia. Động lực này không chỉ là kết quả từ sự kiến tạo niềm tin của nhân dân, của mỗi người lao động, của các doanh nghiệp đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí, quản trị hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; mà còn là sự kiến tạo niềm tin và trách nhiệm cao cả của Nhà nước đối với nhân dân với tư cách là chủ nhân, chủ thể phát triển của xã hội, của đất nước. Đó còn là sự kiến tạo niềm tin dựa trên các mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa các chủ thể với nhau trong cộng đồng quốc gia, dân tộc, kết tụ ở việc luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. 

Động lực này sẽ được xác lập dựa trên những nền tảng đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đúng đắn của của Đảng, Nhà nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trên nền tảng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách quản lí, quản trị phát triển hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch; một nền hành chính liêm chính, tinh thần trách nhiệm cao trước dân; trên nền tảng một đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức “thực đức, thực tài”, thực sự công bộc, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích phát triển của đất nước lên trên hết. Động lực này sẽ phát huy cao độ khi thực hành dân chủ xã hội rộng rãi gắn liền với thực thi kỉ cương phép nước, “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”; tôn trọng, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của của mỗi con người, của nhân dân và của tất cả các chủ thể trong xã hội. Có được động lực niềm tin thì tất cả mọi người dân trong xã hội mới vững tâm mang tất cả tâm huyết, nguồn lực, trí tuệ, tài năng của mình ra để cống hiến cho sự phát triển chung của đất nước và dân tộc. Động lực này cũng là sự kết tinh, kết tụ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội khát vọng chấn hưng đất nước của mỗi con người, của toàn dân tộc với sự lãnh đạo của Đảng và quản lí của Nhà nước. Có thể nói, niềm tin của quần chúng nhân dân chính là thước đo quý giá nhất đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, khả năng quản lí đất nước của Chính phủ và là một động lực to lớn nhất, chính yếu nhất cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. 

Thứ hai, cần chú trọng xây dựng cơ sở để nhân dân kí thác niềm tin và thể hiện tình yêu đối với đất nước. Xưa nay, niềm tin và tình yêu Tổ quốc luôn sẵn có nơi mỗi người dân Việt và nó được duy trì, phát triển dựa trên tư duy của nhà quản lí. Tuy nhiên nếu niềm tin và lòng yêu nước không được định hình dựa trên nền tảng, quan điểm và cả những định hướng cụ thể thì sẽ rất dễ bị tổn thương và lợi dụng. Trường hợp nêu trên đã từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam và rõ nhất là qua âm mưu của các nhà truyền giáo ở thời kì cận đại... Và ngày nay trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, niềm tin và tình yêu quê hương, đất nước cũng cần phải được định hình dựa trên những cơ sở thật sự cụ thể nếu ko sẽ bị lợi dụng để phục vụ cho các toan tính cá nhân hoặc các tổ chức đối lập, chống đối. Điều này sẽ tạo nên những hệ lụy và hậu quả vô cùng to lớn đối với sự an nguy của đất nước.

Để xây dựng môi trường cho niềm tin hình thành và phát triển, thì trước hết phải được bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách thực sự đúng đắn và phù hợp. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa lợi ích, nguyện vọng của nhân dân; lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc và quyền lợi căn bản của công dân làm mẫu số chung cho quá trình phát triển; phải xem trọng nhân dân với tư cách là chủ thể của việc tạo lập niềm tin trong xã hội... Phải chăm lo xây dựng con người phát triển toàn diện theo hướng trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý chí, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Phải tạo nên được những sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, niềm tin sâu sắc vào truyền thống lịch sử, vào văn hóa dân tộc. Phải gắn việc xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Phải nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, khát vọng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế...

Thứ ba, cần gắn chặt vấn đề xây dựng, phát huy sức mạnh niềm tin với việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Có niềm tin mới có đoàn kết dân tộc. Sự phát triển hay suy giảm niềm tin luôn kéo theo tỉ lệ thuận tương ứng của tinh thần đoàn kết dân tộc. Do đó cần đặt mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc với việc củng cố và phát huy niềm tin trong quần chúng nhân dân. Việc gắn chặt niềm tin với tinh thần đoàn kết không chỉ cho phép tăng thêm sức mạnh nội lực trong quá trình phát triển, hội nhập sâu rộng với thế giới mà còn làm gia tăng thêm sức đề kháng cho quốc gia trong việc đập tan các hành động xâm lấn của kẻ thù và cả những âm mưu chống đối, chống phá nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, chỉ có sức mạnh của tinh thần đoàn kết mới mang lại cho dân tộc một sự phát triển ổn định và thịnh vượng, mới giúp dân tộc thành công trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và niềm tin chính là mẫu số chung có giá trị cao nhất để thúc đẩy các thành viên trong xã hội xích lại gần nhau, đoàn kết, gắn bó keo sơn với nhau trong một chỉnh thể nhà nước, quốc gia thống nhất./.

MNM

Phát ngôn mạnh mẽ của Tổng bí thư về phòng, chống dịch

          Quán triệt xử lý nghiêm hành vi vi phạm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu thay thế kịp thời cán bộ yếu kém không hoàn thành nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19.

Ngày 24/8, chủ trì cuộc họp của lãnh đạo chủ chốt, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu dự báo diễn biến dịch bệnh còn phức tạp, có khả năng kéo dài, nhất là tại TP.HCM và các tỉnh phía Nam. Việc này gây nhiều khó khăn cho công tác phòng, chống dịch và các hoạt động kinh tế - xã hội; tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống của nhân dân.

Ghi nhận lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo kịp thời, quyết liệt, song Tổng bí thư lưu ý còn một số vấn đề cần rút kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện ở các cấp. Theo đó, có lúc, có việc chưa cụ thể, nhất quán, còn lúng túng, một số địa phương còn chủ quan, công tác tuyên truyền chưa kịp thời, hiệu quả.

Người đứng đầu Đảng yêu cầu lãnh đạo địa phương hoàn thiện phương án, kịch bản phòng, chống dịch phù hợp với tình hình mới, không để dịch lan rộng, nhất là những khu vực trọng yếu như thủ đô Hà Nội, các khu đô thị lớn tập trung đông dân cư, khu công nghiệp...

Tập trung nguồn lực chăm lo sức khoẻ, bảo vệ tính mạng cho nhân dân, ưu tiên cho công tác khám, chữa bệnh, nhất là bệnh nhân nặng, hạn chế thấp nhất lây nhiễm chéo, giảm thiểu số ca tử vong... là những mục tiêu Tổng bí thư nhấn mạnh. Bên cạnh đó, ông yêu cầu sử dụng hiệu quả nguồn lực cho an sinh xã hội, bảo đảm cung ứng kịp thời nhu yếu phẩm, lương thực thiết yếu và hỗ trợ cần thiết cho người dân khi thực hiện cách ly, giãn cách, bảo đảm thực hiện nghiêm giãn cách xã hội.

"Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định, chủ quan, lơ là, thay thế kịp thời cán bộ yếu kém không hoàn thành nhiệm vụ phòng, chống dịch" là yêu cầu được Tổng bí thư đưa ra tại cuộc họp. Theo ông, các địa phương cần kịp thời biểu dương, khen thưởng các tấm gương tốt, điển hình, cách làm hay; đồng thời, kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm vi phạm về phòng, chống dịch.

Theo Tổng bí thư, dịch Covid-19 là vấn đề lớn, khó và phức tạp, không phải chỉ đối với Việt Nam mà với cả thế giới. Dịch bệnh trên toàn thế giới diễn biến rất phức tạp với nhiều biến chủng khó lường. “Nói thì dễ làm thì khó, phải thông cảm với anh em ở địa phương vì họ rất vất vả”, Tổng bí thư nhấn mạnh.

Theo yêu cầu của Tổng bí thư, chúng ta phải dự báo được tình hình dịch liệu còn diễn ra như thế nào, còn biến thể gì nữa, sau TP.HCM "dịch liệu đã êm chưa". Ông yêu cầu làm quyết liệt hơn nhưng phải rất bình tĩnh, không quá ồn ào, chỉ đạo tập trung, thống nhất xuống tận xã, huyện, tỉnh. “Khó nhất là dự báo tình hình, đề ra kịch bản, phương án. Lường đến khả năng xấu nhất”, Tổng bí thư lưu ý.

Trước đó, phát biểu chỉ đạo tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 ngày 11/8, Tổng bí thư nhận định đợt bùng phát dịch lần thứ tư lây lan rất nhanh, nguy hiểm, phức tạp, khó kiểm soát và có thể còn tiếp tục kéo dài; thậm chí vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát các đợt dịch mới. Tổng bí thư lưu ý Chính phủ tập trung ưu tiên thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, xử lý dứt điểm những "điểm nghẽn" để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn. Bên cạnh đó là nhiệm vụ thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục có hiệu quả tác động của đại dịch Covid-19, nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế.

Ngày 19/7, trước những diễn biến phức tạp của tình hình dịch Covid-19, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có Lời kêu gọi gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài về công tác phòng, chống đại dịch Covid-19. Tổng bí thư kêu gọi toàn Đảng, toàn dân quyết tâm, tìm mọi cách quyết ngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch lan rộng, bùng phát trong cộng đồng. Ông yêu cầu các cấp chủ động nắm chắc và dự báo, kiểm soát tốt tình hình; tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, không để bị động, bất ngờ trong ứng phó với diễn biến mới của dịch bệnh.

"Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, cả nước góp sức, toàn Đảng, toàn dân đồng lòng, thống nhất ý chí và hành động, cùng với sự giúp đỡ chí tình của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, nhất định chúng ta sẽ chiến thắng đại dịch Covid-19 và phải chiến thắng cho bằng được, góp phần xứng đáng vào sự nỗ lực chung của toàn nhân loại vì một thế giới an toàn, lành mạnh, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và thịnh vượng", Tổng bí thư chia sẻ.

VÌ ĐÂU?

 "Hấp diêm" ngoài đảo Cô Tô.
Vào nhà nghỉ không phải bồ là ai?
Phải chăng mấy đứa chân dài
Ỡm ờ, khiêu khích để gài bẫy nhau?

Quả là một cái kết đau.
Ghế quan giờ đã bay màu, đời tan.
Ôi thôi khép lại bức màn.
Mầm xanh vừa nhú lụi tàn vì đâu?


Luận điệu lợi dụng vấn đề biển Đông để xuyên tạc, kích động chống phá Việt Nam cảu các thế lực thù địch

 


Thời gian gần đây, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những sự kiện “nóng” xảy ra để quy chụp, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, kích động tâm lý chống đối, kêu gọi quần chúng tụ tập đông người gây rối an ninh trật tự.

Mượn gió, bẻ măng, các thế lực thù địch, phản động tán phát nhiều tài liệu, gồm những bài viết, video clip, hình ảnh có nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách “3 không” và khả năng chiến đấu của Quân đội, gây tâm lý bất an, hoài nghi và kích động sự chống phá của một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin tình hình, do ngộ nhận. Vậy, bản chất của sự việc là gì, xin được trình bày trên một số điểm cơ bản như sau:

1. Chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại

Trong xu thế hiện nay, thế giới là một mái nhà chung, các quốc gia đều có xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kể cả trong quan hệ song phương và đa phương; những điểm bất đồng giữa các quốc gia, dân tộc đều được giải quyết trên nền tảng hòa bình, đối thoại, cùng nhau tìm giải pháp chung và trên nền tảng nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế.

Dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong bối cảnh Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn giữ được chủ trương: “Giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển”.

Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và giữ vững nguyên tắc không thể bác bỏ – chủ quyền quốc gia.

Chúng ta kiên trì đấu tranh trên các mặt trận, mọi cấp độ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, thẳng thắn đấu tranh kiên quyết, trao công hàm, tiếp xúc đại diện, lên tiếng phản đối Trung Quốc, yêu cầu tôn trọng chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Đồng thời, duy trì lực lượng chuyên trách, sử dụng biện pháp đấu tranh “hòa bình” không để xảy ra xung đột vũ trang. Bên cạnh đó, thường xuyên thông tin kịp thời tình hình diễn biến đến nhân dân, quản lý chặt chẽ tình hình an ninh trật tự và làm tốt công tác định hướng tư tưởng cho nhân dân.

Ngược dòng lịch sử từ khi dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay, đất Dân tộc Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, ghét chiến tranh, chỉ khi tình thế bắt buộc mới phải đứng lên cầm súng đánh đuổi kẻ thù bảo vệ chính nghĩa, phẩm giá của dân tộc, không chịu khuất phục trước bất kỳ thế lực thù địch nào dù chúng mạnh đến đâu.

Trước tình hình căng thẳng trên Biển Đông, nhờ đường lối đúng đắn, chúng ta vẫn bảo đảm và bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc. Điều này cho thấy, chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.

2. Chính sách “3 không” của Việt Nam là đúng đắn

Trước sự kiện vi phạm của tàu Trung Quốc, các thế lực thù địch đã công kích, đòi Việt Nam phải thay đổi chính sách “3 không”, tiến đến hợp tác toàn diện, là đồng minh của Mỹ, Nhật Bản… để chống lại hành động xâm phạm chủ quyền từ phía Trung Quốc.

Thực tiễn cho thấy, mọi hành động của các quốc gia, xét đến cùng đều bắt nguồn từ lợi ích, lợi ích cao nhất, tối thượng nhất là lợi ích quốc gia, dân tộc.

Đặc biệt, với các quốc gia tư bản chủ nghĩa, nếu không có lợi ích, Việt Nam là đối tác toàn diện, là đồng minh của họ, đang bị các quốc gia khác đe dọa chủ quyền, họ cũng chẳng lên tiếng, huống hồ là giúp đỡ. Lịch sử cho thấy, nhiều quốc gia đã bị các nước lớn “đi đêm” mặc cả với nhau trên lưng các quốc gia khác, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của các nước nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia họ, trong đó có Việt Nam.

Do đó, với chính sách “3 không: không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng nói chung, công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng, mang bản chất chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng, hướng đến sự hòa bình, thịnh vượng cho đất nước, khu vực và thế giới.

Đảng ta luôn nhất quán quan điểm biện chứng trong đối tượng và đối tác, có hợp tác và có đấu tranh; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.

Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam luôn chủ động hội nhập và phát triển; tiến hành hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực, như: hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập quốc tế về văn hóa – xã hội, môi trường và hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh.         

Việt Nam đã tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống; chủ động đề xuất, định hình cơ chế hợp tác Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn An ninh khu vực (ARF); tham gia Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế Interpol; tham gia Diễn đàn Tư lệnh cảnh sát các nước ASEAN và thường xuyên cử sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

3. Quân đội nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc

Các thế lực thù địch rêu rao: “Khi đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông, tại các vùng tranh chấp, Quân đội Việt Nam không dám nổ súng, không dám đấu tranh, để mặc Trung Quốc muốn làm gì thì làm…”. Những luận điệu đó là hoàn toàn xuyên tạc, không đúng sự thật, cố tình kích động gây căng thẳng tình hình với mục đích đẩy chúng ta vào cuộc đối đầu quân sự có thể dẫn đến hậu quả khó lường.

Thực tiễn cho thấy, trong suốt thời gian Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển, một trong những lực lượng thuộc biên chế của Quân đội Việt Nam luôn luôn có mặt 24/24h, thực hiện các hoạt động đấu tranh nhằm giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Lực lượng đó chính là Cảnh sát biển Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ của Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, từ năm 2008 đến năm 2019, lực lượng này đã phát hiện hơn 39.800 lượt/chiếc tàu nước ngoài vi phạm vùng biển Việt Nam.

Trong đó, phát hiện, theo dõi 850 lượt tàu quân sự, 2.287 lượt tàu chấp pháp, trên 4.000 lượt giàn khoan, tàu nghiên cứu thăm dò, tàu nước ngoài phụ hành và dịch chuyển bất hợp pháp trên vùng biển Việt Nam và đã yêu cầu trên 26.800 lượt/chiếc tàu vi phạm ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Trong mỗi tình huống, các phương án đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn được lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam chuẩn bị, luyện tập nhuần nhuyễn và linh hoạt khi áp dụng vào thực tiễn đấu tranh, luôn giữ vững được định hướng, sự lãnh đạo của Đảng và tuân thủ nghiêm luật pháp quốc tế.

Bên cạnh lực lượng Cảnh sát biển, các thành phần khác của lực lượng vũ trang Việt Nam cùng lực lượng kiểm ngư luôn luôn sẵn sàng thực hiện phương án để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta luôn vì lợi ích quốc gia dân tộc, các chính sách, biện pháp giải quyết trong các tình huống tranh chấp trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta thể hiện nhất quán nguyên tắc, mục tiêu đó. Chủ trương, đường lối đó cần được sự đánh giá, nhìn nhận khách quan từ mọi thành phần trong xã hội, nhất là thế hệ trẻ ngày nay.

Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong mỗi con dân đất Việt, hãy hiện thực hóa tinh thần đó bằng việc làm cụ thể để đưa đất nước ta ngày càng phát triển, giàu mạnh, tăng cường mọi tiềm lực, sánh vai được với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới đấu tranh, phản bác lại các quan điểm phiến diện, siêu hình, xuyên tạc tình hình Biển Đông của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước.

Mỗi người dân yêu nước cần tỉnh táo, bình tĩnh, kiên quyết, kiên trì, nhận thức rõ luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch để có hành động đúng, góp phần bảo vệ Tổ quốc./.NVS

Luận điệu xuyên tạc về công tác chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta

 


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng của Nhà nước ta đã và đang đạt được những kết quả quan trọng, tạo được hiệu ứng tích cực, lan toả mạnh mẽ trong toàn xã hội; được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; được quốc tế ghi nhận.

Trước thành quả đó, một số phần tử (thù địch, phản động) lợi dụng bôi nhọ, xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta. Chúng tự vẽ ra cái gọi “Chống tham nhũng là “đấu đá” hay “thanh trừng nội bộ”.

Tham nhũng, tiêu cực, lãng phí không phải bây giờ mới có, mà đây là căn bệnh xấu đã có từ lâu đời trong xã hội, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Thực tế đã chứng minh, ở đâu có quyền lực, ở đó có tham nhũng. Chống tham nhũng trong bất cứ thời đại nào cũng là để giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với chế độ.

Đối với Việt Nam, ngay từ khi nước Việt Nam mới thành lập, Đảng và Bác Hồ đã kiên quyết trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Và vụ án Trần Dụ Châu nổi tiếng trong lịch sử năm 1950 là một minh chứng (Trần Dụ Châu - nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu, tiền thân của Tổng Cục hậu cần đã bị tử hình). Việc nghiêm khắc xử lý vụ án Trần Dụ Châu hơn nửa thế kỷ trước vẫn là bài học quý cho việc chống tham nhũng, lãng phí hiện nay. Chúng ta đã và đang tiếp tục đạt được kết quả bước đầu trong việc đẩy mạnh chống tham nhũng nhằm làm trong sạch Đảng, trong sạch bộ máy. Công tác chống tham nhũng được ví như một thân cây khi có con sâu, con mọt cần phải loại bỏ ra khỏi thân cây, giữ cho cây khỏe mạnh, phát triển tốt hơn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở “quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác, phải tẩy sạch nó, phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc”.

Vì vậy, việc chống tham nhũng không phải bây giờ chúng ta mới làm, mà đã làm từ lâu, làm thường xuyên và hiện nay đang được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan trọng, như phát biểu kết luận Hội nghị Toàn quốc tổng kết 8 năm công tác phòng chống tham nhũng của Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Từ sau khi thành lập Ban Chỉ đạo đến nay, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan toả mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự "đã trở thành phong trào, xu thế", được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận”.

Với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, từ năm 2013 đến nay, các cơ quan tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm hơn 11.700 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế, trong đó có 1.900 vụ án tham nhũng, với gần 4.400 bị cáo, trong đó có 18 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự (1 Uỷ viên Bộ Chính trị, 7 Uỷ viên, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, 4 bộ trưởng, nguyên bộ trưởng, 7 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang...). Qua đó, tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới đây, tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Điều đó khẳng định công tác chống tham nhũng hiện nay của Đảng, Nhà nước ta là nhiệm vụ rất quan trọng và được tiến hành thường xuyên, nhằm làm trong sạch tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, không phải cuộc “đấu đá” hay “thanh trừng nội bộ” như một số kẻ rêu rao trên mạng xã hội nhằm là nhiễu loạn thông tin, đánh lừa dư luận, làm giảm niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta với việc kiểm tra, điều tra, xử lý kỷ luật và hình sự những cán bộ sai phạm chính là một tâm điểm mà kẻ địch tìm mọi cách để lợi dụng. Lựa chọn vào tâm điểm này, trước hết chúng nhằm vào tâm lý của người dân vốn dĩ rất bức xúc trước các biểu hiện, hành vi tham ô, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền... của bộ phận cán bộ, công chức.

Với thủ đoạn không mới, nhưng rất thâm hiểm, khi chúng ta xử lý kỷ luật một số đảng viên vi phạm liên quan đến tham nhũng, nhưng chưa xử lý theo quy định pháp luật, thì một số trang mạng cho đó là kiểu kỷ luật “vuốt ve”, “mị dân” chỉ xử lấy cớ chứ sự thực “Đảng vẫn bao che, dung túng”; đến khi chúng ta xử lý hình sự những đảng viên này theo luật thì chính những trang mạng này lại quay ngoắt ngòi bút rêu rao rằng chúng ta “thanh trừng nội bộ”, “ẩu đả phe phái”... Đặc biệt, chúng còn sử dụng một số hình ảnh, clip được cài đặt tự động trên các trang Zalo, Facebook, YouTobe... có tốc độ lan truyền lớn. Mục đích của các đối tượng chính là đánh vào lòng tin người dân, làm cho người dân tin những thông tin, hình ảnh các đối tượng tung ra, từ đó gây hoài nghi đối với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Mỗi chúng ta hãy là người dùng mạng xã hội thông thái. Khi tìm hiểu thông tin trên mạng xã hội nên chọn những trang thông tin chính thống, những trang tin cậy, những tờ báo chính thống, uy tín. Biết đặt ra nghi vấn đối với các thông tin nhận được; không tò mò bấm xem các tin, bài giật tít câu view. Chủ động kiểm chứng thông tin nhận được từ các nguồn không tin tưởng; không chia sẻ khi chưa kiểm chứng thông tin...; mọi hoạt động trên các trạng mạng xã hội cần hết sức cẩn trọng, đừng vô tình làm người tuyên truyền cho các thế lực thù địch./.NVS

Tranh luận nóng về đề xuất của GS Trần Ngọc Thêm: Bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”


Tại hội thảo Giáo dục Việt Nam chủ đề "Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo" do Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội t chức ngày 21/11, GS Trần Ngọc Thêm (Trường ĐH Khoa học xã hội & nhân văn - ĐH Quốc gia TPHCM) trình bày quan điểm trên trong tham luận: "Xây dựng Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo".

Ông khẳng định, sáng tạo thuộc về tài năng trong khi xã hội Việt Nam truyền thống hướng đến ổn định nên không hướng đến tài năng mà đề cao chữ lễ, "tiên học lễ hậu học văn", đề cao sự phục tùng. Trong khi đó, để có con người sáng tạo, cần thực hiện dân chủ trong giáo dục, cần thay đổi quan niệm về người thầy từ việc truyền thụ kiến thức sang việc hướng dẫn người học sáng tạo và tự chịu trách nhiệm về sự sáng tạo của mình.

GS Trần Ngọc Thêm kiến nghị: "Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo".

GS Thêm nhấn mạnh thêm, chừng nào còn đề cao chữ Lễ để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển.

Đã hết sứ mệnh?

Một giáo viên dạy Lý của trường THPT chuyên của Hà Nội cho rằng, khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" đã hoàn thành sứ mệnh. Và giờ, cần cân nhắc kỹ khi sử dụng trong các nhà trường bởi nhiều năm qua chúng ta cứ treo khẩu hiệu nhưng học sinh vẫn cứ …hờ hững.

Thầy giáo này cho biết, chính trường của thầy đang tìm một Slogan mới trong thời điểm hiện nay với ngôn từ của khẩu hiệu hay triết lý hiện đại và bớt nho giáo hơn để học sinh dễ dàng hiểu được.“Mấy năm qua giáo dục liên tục đổi mới. Đã đến lúc môi trường giáo dục cần những tư duy và cách truyền kiến thức cho học sinh một cách sáng tạo, đa dạng hơn. Theo tôi cũng không cần phải treo và ra rả nói "Tiên học lễ" nữa”- giáo viên này nêu quan điểm.Cô NT.P, giáo viên dạy Hóa một trường cấp 2 tại Hà Nội bày tỏ, lâu nay, nhiều ngôi trường duy trì khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" nhưng lại không chú trọng chuyển hóa nó thành hiện thực. Giáo viên lại không biết thế nào để dạy "lễ" cho học sinh. Đây là lý do khiến học sinh "xử" nhau bằng vũ lực; trò hỗn láo, bạo lực với thầy cô vẫn còn diễn ra ở môi trường giáo dục.

“Nếu chỉ đơn giản là treo khẩu hiệu dù nó ý nghĩa đến thế nào nhưng sẽ trở nên vô giá trị khi mãi chỉ là khẩu hiệu suông"- vị giáo viên này nêu quan điểm.

Đề xuất thêm khẩu hiệu

Tuy nhiên, cũng có nhiều giáo viên, nhà quản lý giáo dục bày tỏ quan điểm không đồng tình với ý kiến chấm dứt sử dụng khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn".

Cô Thanh Thủy, giáo viên (giáo viên Ngữ văn cấp 2 tại Hà Nội nêu quan điểm, trong giáo dục hiện nay, cần đề cao tư duy phản biện, khai phóng, nhưng chấm dứt triết lý "Tiên học lễ, hậu học văn" thì không nên.

Nhà giáo này cho rằng, không nên hiểu hai chữ "lễ" và "văn" trong câu "Tiên học lễ, hậu học văn" một cách gò bó mà nghĩa của câu nói này rất rộng và để hiểu hết, làm theo thì lại do từng cá nhân.

Sinh viên Lê Vũ Anh Thư, năm ba bằng Cử nhân về quản trị du lịch khách sạn trường Đại học La Trobe ở Melbourne, Úc nêu quan điểm không đồng tình với ý kiến chấm dứt sử dụng khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn".

Anh Thư cho rằng, điều quan trọng trong câu khẩu hiệu là “lễ”: “Theo như em hiểu là “lễ phép”, “lễ độ”, tượng trưng cho cách sống biết trên biết dưới, tượng trưng cho đạo đức. Câu "Tiên học lễ, hậu học văn" liên quan đến “thái độ” trong 3 mục tiêu kiến thức, kỹ năng và thái độ. Nên em thấy nó đặc biệt quan trọng”- Thư chia sẻ.

Cũng theo sinh viên này, hiện tại bây giờ các bạn trẻ ngày càng bình thường hoá sự ngông nghênh, coi thường, nhiễm nặng bệnh thành tích, câu khẩu hiệu này càng quan trọng ở trường hơn.

Anh Thư cho biết, cá nhân em thấy tiên học lễ không phải là sự phục tùng như Giáo sư nói mà đó là sự tôn trọng, sự tri ân. Nếu muốn nâng cao tư duy phản biện và sáng tạo như giáo sư nói thì nên thay đổi các hoạt động giáo dục, cách đánh giá, chấm điểm thì hơn

“Phương tây có câu “Old but gold” có nghĩa là những kiến thức những kinh nghiệm xưa có thể là “vàng” là tinh hoa. Gò bó hay nghĩ chữ ‘lễ” là sự ràng buộc chỉ là do mình quy định ra. Chứ theo em thấy bản chất nó rất đơn giản. Quan trọng là mình nghĩ gì về câu đấy. Chứ câu đấy không có tội”- Anh Thư nêu quan điểm.

Cũng theo sinh viên này, sống phải biết làm người trước khi biết chữ. Câu này là lời nhắc nhở mỗi người sống nên biết có trên có dưới, sống tôn trọng người khác trước khi tự hào về những kiến thức cao siêu, giải cao ngút trời.

Thầy Đào Tuấn Đạt, giảng viên Vật lý đại cương tại Đại học Bách Khoa Hà Nội, và là phụ trách chuyên môn trường THPT Anhxtanh (Đống Đa, Hà Nội) cho rằng, câu "Tiên học lễ, hậu học văn" vẫn nên giữ ở môi trường giáo dục.

Thầy Đạt cũng cho rằng, không những câu nói này cần nên giữ mà còn nên bổ sung thêm khẩu hiệu ở thời đại mới.

“Mỗi trường sẽ có một số cố định, thường là nói hệ thống giá trị của cuộc sống, khoa học, ý chí … Một số khác mang tính thời sự. Tuy nhiên, điều này cũng tuỳ mỗi trường muốn đi theo giá trị nào” - ông Đạt chia sẻ.

Giáo viên này cũng mong muốn, nhà trường sẽ bổ sung câu nói “ Văn hoá soi đường cho quốc dân đi” mà Bác Hồ từng phát biểu cũng như đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình.

 





CÂU CHUYỆN VỀ CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN XÉT SỬ QUAN THAM

 

Ảnh: Một phiên xử án thời phong kiến

Một trong những loại tội phạm mà các triều đại phong kiến đặc biệt quan tâm, ra luật nghiêm trị là tội tham nhũng. Theo chiếu ban hành năm 1042, thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028) về việc thu thuế trăm họ, nếu ai thu vượt quá sẽ bị xử theo tội ăn trộm. Người tố cáo lập công thì cả nhà được tha phú dịch trong 3 năm. Người ở kinh thành mà cáo giác đúng thì nhận thưởng bằng hiện vật thu được.

Chiếu năm 1044 của triều đại nhà Lý nêu: Ai ở kho lụa nhận riêng 1 thước lụa bị phạt 100 trượng, nhận từ 1 tấm trở lên bị phạt 10 trượng theo tấm kèm 10 năm khổ sai. Cũng trong năm này, có một đạo chiếu quy định cấm các quan coi ngục không được sai tù làm việc riêng, nếu vi phạm bị xử 100 trượng, thích chữ vào mặt và vào nhà lao.

Khi vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới lên ngôi, đất nước chìm trong quốc nạn tham nhũng, tướng sĩ thì lo hưởng lạc; quan lại chia bè phái và tham nhũng. Người dân đói khổ oán thán. Nhà Vua nhìn nhận rằng nạn tham nhũng là nguyên nhân lớn nhất, cần phải tiêu diệt. Chính vì vậy, vua bổ sung hoàn thiện Bộ luật “Hồng Đức”, nhằm tăng sức mạnh chống tham nhũng cho bộ luật này. Với Bộ luật Hồng Đức, việc chống tham nhũng được tiến hành từ các quan to đầu triều, đến tận quan nhỏ các địa phương. Trong tổng số 722 điều luật, thì có tới 107 điều quy định những hành vi không được phép phạm phải đối với quan lại, như: lợi dụng quyền thế sách nhiễu nhân dân, ăn hối lộ, gian lận, bớt xén của công, lợi dụng quyền chức mưu lợi riêng... Đặc biệt, trong đó có hơn 40 điều quy định về chống tham nhũng. Điều 138 của Bộ luật "Hồng Đức" quy định, quan lại mà tham nhũng, nhận hối lộ, làm sai phép nước sẽ bị phạt theo các mức sau : Nếu tham ô từ 1-9 quan tiền bị cách chức, từ 10-19 quan thì bị đánh 100 trượng rồi đi đày, từ 20 quan trở lên bị xử chém. Ngoài hình phạt chính, các quan ăn hối lộ từ 1-9 quan tiền bị phạt 50 quan, từ 10-19 quan thì bị phạt từ 60-100 quan. Từ 20 quan trở lên, phạt tội làm phu. Của hối lộ bỏ vào kho một phần, một phần trả lại chủ. Việc xử phạt này không phân biệt giàu, nghèo hay chức vụ đảm trách. Bộ luật Hồng Đức cho chúng ta thấy sự nghiêm khắc của pháp luật các triều đại ngày xưa. Chỉ tham ô 1 quan tiền là mất chức, 20 quan tiền là bị tử hình. Bằng chính sách mạnh tay với “quan tham”, nhà vua đã ban các sắc dụ với nội dung người nào không phải là thân thuộc của người đảm trách pháp luật, mà mượn cớ để vòi vĩnh được biếu tặng, đi lại, chè chén, câu kết bạn... thì đều phải bắt giam và xét tội. Khi đã tham ô, việc xét sử định tội không phân biệt hoặc căn cứ vào giàu, nghèo, chức trọng hay hèn kém.

Sử sách còn ghi lại, chuyện kể về viên quan lớn dưới thời vua Lê Thánh Tông tên Lê Bô, phạm tội tham ô bị buộc vào tội tử hình. Lại có viên quan tên Trần Phong, xin cho Lê Bô được nộp tiền chuộc tội. Nhà vua bảo bầy tôi trong triều rằng: Trần Phong xin cho người can tội tham ô được nộp tiền chuộc, như thế thì người giàu có nhiều của đút lót mà khỏi tai vạ, người nghèo vì không có tiền mà phải chịu tội lỗi. Theo ý nhà vua, Trần Phong làm vậy là dám trái phép tắc của tổ tông, phải nghiêm trị tội cả ông này.

Trong “Quốc triều hình luật” thời Lê sơ, còn có một số điều quy định: Các Quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với người ở nơi mình cai quản, không đưa quan lại về quê hương bản quán trị nhậm, không được tậu đất, vườn ruộng, nhà tại nơi cai quản, không được lấy người cùng quê làm người giúp việc... Người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng một công sở. Tất cả quy định này đều nhằm tránh quan lại vơ vét của cải trong dân, hoặc để người thân tín lợi dụng nhũng nhiễu nhân dân. Vua Lê Thánh Tông chủ trương chống tham nhũng bằng cách, chỉ dùng bậc hiền tài, loại trừ kẻ xu nịnh, khiến các quan chức vốn chỉ lo tiến thân bằng nịnh bợ, không còn đất dụng võ nữa, nạn tham nhũng đang tàn phá đất nước bị đẩy lùi và dẹp bỏ. Những quan thanh liêm, thực sự phục vụ dân đều được trọng dụng, thậm chí những người từng bị hàm oan trước đây cũng được minh oan. Chính nhờ pháp luật nghiêm minh dưới thời vua Lê Thánh Tông, trong sử sách ca ngợi: “Ngủ đêm mọi nhà không phải đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi”.

Tham nhũng là căn bệnh của mọi thời đại, là vấn đề nhức nhối của tất cả chính thể trên thế giới, bất kể trình độ phát triển, định hướng, khu vực và truyền thống văn hóa, với những mức độ khác nhau. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí là tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Người chỉ rõ bản chất của hành vi tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam, là trộm cướp. Theo Người, đặc trưng của hành vi tham ô là biến của công thành của tư. Bất cứ hành vi lấy của công làm của tư nào cũng đều bị Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là hành vi tham ô. Ngày nay, điều mà ai cũng biết đó là, tham nhũng làm lũng đoạn xã hội, xói mòn lòng tin của dân chúng vào các giá trị của xã hội, làm mất niềm tin, uy tín, vai trò lãnh đạo của đảng, nhà nước đối với quần chúng và các tầng lớp nhân dân. Trong thời đại toàn cầu hóa, tham nhũng đã trở thành tệ nạn mang tính toàn cầu. Vì vậy, để chống tham nhũng một cách hiệu quả, chúng ta cần có phương pháp tiếp cận mới, cách nhìn mới, không những khách quan hơn mà còn phải toàn diện hơn, muốn chống tham nhũng có hiệu quả, trước hết phải thấm nhuần và thực hiện nghiêm những lời dạy của Hồ Chủ Tịch về phòng chống tham nhũng.

 

 

PHÒNG, CHỐNG SẢN PHẨM “VĂN HOÁ” XẤU ĐỘC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 


Để gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc, một mặt phải không ngừng chăm lo, xây dựng những giá trị văn hóa tốt đẹp, mặt khác cần phải kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống, đẩy lùi các tàn dư văn hóa cũ, các sản phẩm “phi văn hóa”, “phản văn hóa” (gọi chung là sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng).

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN

Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra tính nguy hại của văn hóa tư sản đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong bài viết Văn hóa Mỹ hay là thuốc độc tinh thần, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1939, ngày 31/10/1951, Người cảnh báo: “Báo Nữu Ước (21/3) viết: Sở thông tin Mỹ ở Sài Gòn mỗi tháng phát cho người Việt Nam hàng chục vạn truyền đơn, sách nhỏ, tranh ảnh, sách giáo khoa, lịch sử Mỹ, v.v. Sở thông tin Mỹ sắp in hơn 30 vạn quyển sách bằng tiếng Việt để tuyên truyền chống cách mạng, chống kháng chiến, mở những phòng xem sách, xem báo, những lớp dạy tiếng Anh. Chúng “giúp đỡ” các báo chí Việt gian tuyên truyền “văn hoá” Mỹ. Nói tóm lại: Mỹ đang ra sức đầu độc người Việt Nam bằng “văn hoá” Mỹ? Ta phải kịch liệt chống thứ “văn hoá” Mỹ đó” (1).

(Ngày nay, các thế lực thù địch tiếp tục âm mưu “đầu độc” nhân dân Việt Nam bằng phương thức, thủ đoạn mới với mục tiêu không thay đổi, bởi mục tiêu cuối cùng của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa).

Để thực hiện âm mưu này chúng lợi dụng tối đa những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại để phổ biến sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng, nhất là trên internet và mạng xã hội với nhiều chiêu thức mới, tinh vi. Mục tiêu này được thực hiện thông các thủ đoạn chủ yếu sau:

Chúng sử dụng các trang web, blog, các tài khoản mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo, các diễn đàn, báo điện tử, đài phát thanh để khuếch trương thanh thế, cổ xúy các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai cùng những hành vi phản nhân văn, phi tiến bộ để tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất tầm thường của mỗi người. Qua đó, từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một số người sao nhãng nghĩa vụ, trách nhiệm, khơi dậy bản năng thấp hèn, chạy theo lạc thú, lợi ích vật chất, chỉ lo “cái tôi” mà quên đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống và những giá trị hiện hữu tốt đẹp của dân tộc.

Không những vậy, chúng còn gia sức “xâm lăng văn hóa”, cổ xúy các giá trị văn hoá phương Tây, gieo rắc quan điểm, tư tưởng, lối sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất, sùng ngoại, tạo tâm lý hưởng thụ, qua đó từng bước chuyển hoá tư duy, nếp nghĩ, quan điểm của các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ theo hướng đối lập với quan điểm, tư tưởng của Đảng và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, hướng lái nước ta theo văn hóa tư sản, cuối cùng là thúc đẩy Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Thực chất đây là một phương thức tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.Chúng tìm mọi cách phủ định hoặc làm hạn chế đến mức thấp nhất các giá trị tinh hoa văn hoá Việt Nam vốn là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay như: Phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước...

Các thế lực thù địch tiếp cận, phỏng vấn, đặt bài những kẻ cơ hội chính trị, trí thức, văn nghệ sĩ “trở cờ”… thực hiện “cái gọi là” phản biện, tuyên bố, tâm thư, góp ý với ý đồ phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, nghệ thuật; phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng của văn hóa, văn nghệ và đòi tách lĩnh vực này ra khỏi đời sống chính trị, xã hội của đất nước; phủ định văn học cách mạng, lôi kéo các văn nghệ sĩ đi theo các trào lưu văn hoá phương Tây, coi nhẹ văn hoá, nghệ thuật truyền thống dân tộc.

ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN PHẨM VĂN HÓA XẤU ĐỘC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG

Tác động của các sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng hết sức nguy hiểm, có mặt nghiêm trọng. Cụ thể là:

Thứ nhất, xuất hiện trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ sự ngộ nhận, hoang mang, dao động, thiếu niềm tin vào thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Thứ hai, tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, nguyên nhân làm băng hoại đạo đức, lối sống của một bộ phận trong xã hội, làm cho không ít cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí, hoang mang, dao động, xuất hiện “tự tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các mức độ khác nhau.

Thứ ba, dưới tác động của truyền thông xã hội đã làm nảy sinh các “giang hồ mạng”, các nhân vật mang biểu tượng xấu, các sản phẩm phi đạo đức, phản văn hóa, đặc biệt nguy hiểm xuất hiện hiện tượng“đám đông” cực đoan, khó kiểm soát.

Thứ tư, thông qua giao lưu trực tuyến và trực tiếp về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Thứ năm, nguy cơ đồng nhất về văn hóa, lối sống và làm cho con người, nhất là thế hệ trẻ dễ bị thay đổi thói quen, thị hiếu, dễ tự “đánh mất” gốc gác văn hóa, truyền thống, lịch sử của ông cha mình. Mấy năm trở lại đây, đã xuất hiện không ít hoạt động văn hóa giải trí có yếu tố nước ngoài, trong đó nhiều chương trình có biểu hiện lai căng, trái với thuần phong mỹ tục dân tộc, dễ làm cho công chúng ngộ nhận, mất phương hướng thẩm mỹ tích cực, thậm chí bị “tiêm nhiễm” những “vi-rút văn hóa độc hại” mà không hề hay biết.

Không phải bây giờ Đảng ta mới thẳng thắn chỉ rõ những vấn đề tồn tại, huy hiểm của môi trường văn hóa độc hại, hay những biểu hiện sùng ngoại, lai căng văn hóa đã làm ảnh hưởng, xói mòn đến những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Về vấn đề này, Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng ta từng cảnh báo: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc”. Đề cập đến hậu quả của các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai xâm nhập vào nước ta, Chỉ thị 46-CT/TW ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” đã cảnh báo nghiêm khắc hơn: “Nhiều sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thế hệ thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc”.

Từ những vấn đề được luận giải ở trên, việc phòng, chống ảnh hưởng của sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng hiện nay là vấn đề cấp bách và cần quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với các ngành chủ quản và cơ quan báo chí, phương tiện truyền thông đại chúng trong các hoạt động về văn hóa, báo chí, xuất bản, hội thảo, tọa đàm về văn hóa, nghệ thuật. Trong đó chú trọng kiểm soát và quản lý chặt chẽ công tác in ấn, xuất bản, đưa tin…, ngăn chặn không để các loại ấn phẩm, văn hóa phẩm độc hại từ nước ngoài thẩm thấu và tán phát trên không gian mạng của nước ta.

Hai là, giữ vững tính định hướng chính trị của các hoạt động văn hóa. Đẩy mạnh và coi trọng chất lượng chính trị các hoạt động văn hóa, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động văn hóa hòng làm thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam bằng hệ giá trị văn hóa tư sản. Đảm bảo các sinh hoạt văn hóa và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng phải hướng vào phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Chống phi chính trị trong các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, biểu diễn, tích cực đấu tranh có hiệu chống các quan điểm sai trái, phản động.

Ba là, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật đưa tin, phát ngôn theo đúng quy chế, quy định đã ban hành; kịp thời phát hiện và ngăn chặn các biểu hiện sai trái, làm sai của các cán bộ, đảng viên, không để kẻ địch lợi dụng, khoét sâu thêm.

Bốn là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, văn hoá, truyền thông, đặc biệt là các lực lượng xung kích trên mặt trận đấu tranh phòng, chống ảnh hưởng của sản phẩm văn hóa xấu độc trên không gian mạng.

Năm là, xây dựng cơ chế phối, kết hợp giữa các lực lượng của cả nước, bảo đảm sự thống nhất và sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

Sáu là, tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chủ trương, cơ chế, chính sánh và luật pháp về bảo đảm an toàn, an ninh mạng phù hợp. Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp kỹ thuật để quản lý không gian mạng an toàn.

Bảy là, mỗi cá nhân phải thường xuyên tự giác lựa chọn giá trị trong tất cả các hoạt động, hành vi ứng xử cũng như việc tiếp nhận và sáng tạo văn hoá. Tích cực tu dưỡng nhằm “nội hoá” và tiếp biến các giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa nhân loại vào nhân cách, đồng thời bồi dưỡng và phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách là lẽ sống của mọi người.

Nguồn Tuyên giáo