Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Pháp là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại.
Đó là văn kiện pháp lý thấm nhuần tư tưởng tiến bộ của thời đại, nêu cao nguyên
tắc bình đẳng, dân chủ và các quyền cơ bản của con người, của dân tộc. Trân
trọng những giá trị cao cả ấy, trong một thời đại mới và một cuộc cách mạng
mới, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và hơn nữa phát triển các giá trị ấy ở
hai nội dung cơ bản là quyền con người, quyền dân tộc và nguyên tắc chủ quyền
nhân dân.
KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN DÂN TỘC
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 được ra đời từ sau cuộc
đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc đại cách
mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ Khai sáng,
hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con
người, quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh
chống lại chế độ phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân
chủ, giá trị nhân văn cao cả về tự do, bình đẳng, bác ái.
Các bản Tuyên ngôn khẳng định những quyền con người cơ bản nhất đó là quyền
sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền tư hữu tài sản. Đó là “quyền tự
nhiên, không thể chuyển nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi con người”(1).
Trong bản Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ, tác giả Thomas
Jefferson khẳng định các nước thuộc địa phải có quyền là quốc gia tự do và độc
lập và từ việc xóa bỏ quyền thống trị của thực dân Anh, cuộc đấu tranh vì nền
độc lập của các bang thuộc địa ở Bắc Mỹ cũng nhằm tới tranh đấu cho các quyền
tự nhiên của riêng mỗi con người. Với những giá trị to lớn như vậy hai bản
Tuyên ngôn đánh mốc dấu son trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng con người. Đó là bản Tuyên ngôn mang đậm giá trị nhân văn, nhân bản,
là nền tảng để xây dựng các bản Hiến pháp dân chủ tiến bộ của nước Pháp, nước
Mỹ sau đó.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp
năm 1791 cũng nêu rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và
phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”(2).
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt
Nam, từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những câu nổi tiếng nhất
trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử đó với thái độ rất trân trọng: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những giá trị
nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở, mục tiêu cho cuộc
đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng, thiêng
liêng không ai có thể xâm phạm, là sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc,
giải phóng con người mà các cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ đã giương cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và mở rộng, phát triển vượt bậc những
giá trị của các bản Tuyên ngôn trước đó trong thời đại mới. Trong Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ, nguyên bản câu “tất cả mọi người” là “tất cả
đàn ông” (All men). Nguyên bản của câu đó là đặt trong bối cảnh nước Mỹ những
năm cuối thế kỉ XVIII khi chế độ nô lệ còn tồn tại, sự phân biệt và kỳ thị
chủng tộc rất nặng nề, những người đàn ông có quyền mà Tuyên ngôn đề cập đến
chỉ là những người đàn ông da trắng. Như vậy, các quyền cơ bản của con người,
quyền vốn có ấy lại không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho đàn ông da
trắng. Còn với Hồ Chí Minh, Người khẳng định một cách rõ ràng, quyền là dành
cho “tất cả mọi người”, không phân biệt địa vị, thành phần, tôn giáo, giới
tính, sắc tộc. Đó là sự mở rộng tuyệt đối, đem lại những giá trị to lớn và phù
hợp với sự phát triển tiến bộ của nhân loại.
Cũng từ việc khẳng định đạo lý và chính nghĩa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã
vạch trần bộ mặt giả dối, bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã khái quát một cách sâu sắc tội
ác của thực dân Pháp trong gần 100 năm cai trị ở đất nước ta trên tất cả các
mặt, đặc biệt là việc chà đạp, tước đoạt quyền các quyền tự nhiên của con
người, của dân tộc. Và từ đó, Người khẳng định: trong thời đại mới, không chỉ
chế độ phong kiến chuyên chế mà chủ nghĩa thực dân với bản chất tàn bạo của nó
cần được xóa bỏ, để bảo vệ quyền và nhân phẩm của con người. Khi còn chủ nghĩa
thực dân, còn tình trạng dân tộc này áp bức, nô dịch dân tộc khác thì chắc chắn
quyền con người ở các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc bị chà đạp, không được ghi
nhận và thực hiện.
Một điểm đáng chú ý nữa là từ quyền của con người, Hồ Chí Minh đã suy rộng
ra quyền dân tộc “các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(3). Từ quyền con người,
Người suy rộng ra quyền dân tộc cũng là quyền tự nhiên, thiêng liêng “là lẽ
phải không ai chối cãi được”(4). Nếu như trong bản Tuyên ngôn của nước Mỹ đã đề
cập đến cả quyền con người, quyền dân tộc, thì đến bản Tuyên ngôn của Việt Nam
đã gắn kết hai phạm trù pháp lý cơ bản này trong mối liên hệ biện chứng, chặt
chẽ với nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con
người và ngược lại thực hiện quyền con người chính là phát huy những giá trị
cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Quyền con người cao nhất chính
là được sống trong đất nước tự do, là công dân của một nước độc lập.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đã mở rộng nội hàm khái niệm quyền dân tộc cả
chiều rộng và chiều sâu, mà các bản Tuyên ngôn trước chưa đề cập đến. Xuất phát
từ hoàn cảnh nước Việt Nam thuộc địa vừa mới giành độc lập và bối cảnh lịch sử
quốc tế bấy giờ, Hồ Chí Minh khẳng định: quyền dân tộc không chỉ là quyền dân
tộc tự quyết, mà còn là quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ. Độc lập dân tộc đã gắn bó mật thiết với các nguyên tắc dân tộc
bình đẳng và tự quyết, với quyền sống và quyền hạnh phúc của mỗi dân tộc. Hơn nữa,
quyền độc lập, bình đẳng ở đây phải được xác lập trong mối quan hệ với tất cả
các nước trên thế giới, không phân biệt lớn nhỏ, mạnh yếu hay khác nhau về thể
chế chính trị. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không còn chỉ dành
riêng cho dân tộc Việt Nam mà đó còn là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng
của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc nhỏ yếu đang chịu
sự cai trị của chủ nghĩa thực dân.
Từ quyền con người suy rộng ra quyền dân tộc, Tuyên ngôn độc lập đã góp
phần tạo lập và khẳng định một nền pháp lý và công lý mới của văn minh nhân
loại, hướng tới công bằng, bình đẳng, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công trên
bình diện quốc gia và quốc tế. Công lý ấy về sau không chỉ trở thành nguyên tắc
lập hiến của Việt Nam, của nhiều quốc gia khác mà trở thành điều khoản pháp lý
quốc tế khi nó đã được ghi vào Liên hợp quốc với các công ước quốc tế liên quan
đến chủ quyền quốc gia, về quyền độc lập dân tộc và quyền tự quyết.
Hai bản Tuyên ngôn nước Pháp, nước Mỹ đề cập đến quyền con người, quyền dân
tộc là quyền thiêng liêng, là một tất yếu của tạo hóa. Nhưng là người dân của
một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc rằng quyền thiêng liêng, vốn
có ấy không phải tự nhiên mà có được, mà phải đổ máu, hy sinh, phải đấu tranh
với quyết tâm “ thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”(5). Đứng trước những thử thách khắc nghiệt của lịch
sử, một dân tộc không biết đấu tranh cho độc lập, tự do thì cũng không xứng
đáng được hưởng nền độc lập, tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập của
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100
năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách
nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống
phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc
lập!”(6). Dân tộc đó còn có quyết tâm sắt đá “đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”(7).
Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập thực sự là một mốc son
trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, cũng như trong cuộc đấu giải phóng của các
dân thuộc địa. Nếu hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đánh dấu mốc quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến, trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng con người; thì Tuyên ngôn độc lập báo hiệu một thời đại mới, thời đại
giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn
thế giới; thời đại của các dân tộc bị áp bức, bóc lột giành lại quyền sống,
quyền độc lập, tự do.
KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN NGUYÊN TẮC VỀ CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN
Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trong tác phẩm Khế ước xã hội của
Jean Jacques Rousseau, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khẳng định
chân lý: “Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra
trong nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của
nhân dân”(8). Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp đã
chỉ ra “sự thiếu hiểu biết, hờ hững hoặc coi thường những quyền của con người
chính là nguyên nhân duy nhất dẫn đến những tai họa của cộng đồng, và dẫn đến
sự thối nát của các chính quyền... Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là
bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người”(9). Sự cần thiết
của việc xây dựng chính quyền nhân dân, hoạt động vì mục tiêu cao nhất bảo vệ
quyền con người, vì hạnh phúc con người đã được khẳng định trong hai bản Tuyên
ngôn lịch sử này. Hơn thế nữa “bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó
phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính
quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc
cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt
nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”(10).
Cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo không
chỉ là cuộc cách mạng làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xóa bỏ xiềng xích nô lệ
của thực dân Pháp và của phát xít Nhật. Cuộc cách mạng ấy đồng thời thực hiện
nhiệm vụ lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót gần 1.000 năm. Việt Nam
từ một nước thuộc địa, phong kiến đã trở thành một nước độc lập, theo chế độ
Dân chủ Cộng hòa.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ chủ thể
của cuộc cách mạng chính là nhân dân, thành quả cách mạng đạt được do nhân dân
làm ra và nhân dân là người bảo vệ thành quả đó: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại
đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Có
thể nói, đến đây nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” với ý nghĩa nhân dân là chủ
thể nước Việt Nam mới, của chế độ Dân chủ Cộng hòa đã được Hồ Chí Minh khẳng
định rõ ràng. Hơn nữa, khái niệm nhân dân mà Hồ Chí Minh sử dụng không bó hẹp
trong giai cấp, tầng lớp nào mà là mọi người dân Việt Nam yêu nước, không phân
biệt giới tính, địa vị, tôn giáo, giai cấp.
Chế độ Dân chủ Cộng hòa được Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn là chế độ thực
hành nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” một cách triệt để và thực chất. Đó là chế
độ lập ra từ thành quả đấu tranh của nhân dân, được xây dựng theo ý nguyện của
các tầng lớp nhân dân, hướng tới mục tiêu cao cả “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”
cho nhân dân. Tư tưởng này của Người sau đó được thể hiện rõ nét trong Hiến
pháp 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam do Người làm Trưởng ban
soạn thảo: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 7
trong Hiến pháp ghi nhận quyền chính trị của công dân: Tất cả công dân Việt Nam
đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến
quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình. Nhân dân có quyền quyết định những
công việc trọng đại của đất nước cũng như bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra.
Có thể nói, ra đời sau hai bản Tuyên ngôn lịch sử của nhân loại hơn một
trăm năm, trong bối cảnh lịch sử mới, bản Tuyên ngôn độc lập của
Việt Nam đã kế thừa, chắt lọc phát triển giá trị căn cốt, mang tính bền vững và
phổ quát nhất của hai bản Tuyên ngôn trước đó. Với những giá trị đó, Tuyên
ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ là lời tuyên bố độc lập, khai sinh
cho một Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo đuổi mục tiêu “Độc lập - Tự do
- Hạnh phúc”, mà còn đóng góp quan trong cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng con người và vì hạnh phúc của con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét