Theo trang tin thediplomat.com
(Rome) vừa đăng bài viết có tiêu
đề “Chính trị nội bộ trong cuộc chiến chống dịch ở Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn
Việt Phương, nhà nghiên cứu về các vấn đề an ninh, phi hạt nhân hóa tại Hà Nội,
từng là nghiên cứu viên Trung tâm Belfer, trường Kennedy thuộc Đại học Harvard
(Mỹ),
nội dung chính như sau:
Giữa lúc đại dịch
COVID-19 tiếp tục tàn phá khắp thế giới, Việt Nam vẫn là một trong số ít những
điểm sáng, bên cạnh một số quốc gia, lãnh thổ ở châu Á - Thái Bình Dương khác
như Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) và New Zealand. Sau một tuần không
có bệnh nhân mới, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã quyết định nới lỏng về
thực hiện cách ly xã hội trên toàn quốc.
Nếu so với Đài Loan, Hàn
Quốc hay New Zealand, Việt Nam có thể được coi là kém lợi thế do có quy mô nền
kinh tế nhỏ hơn, dân số đông hơn và có đường biên giới khá dài với Trung Quốc.
Chỉ mới năm ngoái, Việt Nam được tổ chức Sáng kiến Đe dọa Hạt nhân (NTI) và
Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins xếp hạng thứ 50 trong số 195 quốc gia xét
về mức độ sẵn sàng đối phó với dịch bệnh và đại dịch, thấp hơn nhiều so với Hàn
Quốc (xếp thứ 9), New Zealand (thứ 35), hoặc thậm chí những nước vẫn đang đối
phó với hàng trăm nghìn ca nhiễm SARS-CoV-2 như Mỹ (thứ nhất), Pháp (thứ 11)
hoặc Italy (thứ 31).
Nhiều lời giải thích đã
được đưa ra để lý giải cho thành tích của Việt Nam trong cuộc chiến chống
COVID-19, trong đó có chiến lược truy vết và giám sát quyết liệt các ca bệnh
tiềm ẩn nhờ vào cả hệ thống chính trị và xã hội; sự cảnh giác được duy trì bởi
chính phủ, vốn chưa bao giờ coi COVID-19 như một loại bệnh cúm thông thường;
truyền thống dân tộc chủ nghĩa gia tăng trong những thời điểm khó khăn; hay
thậm chí là văn hóa mang tính tập thể của xã hội Việt Nam xuất phát từ truyền
thống Nho giáo lâu đời. Tuy nhiên, những giải thích mang tính khái quát như vậy
đã không đề cập đến một số đặc điểm của nền chính trị nội bộ Việt Nam, vốn là
những yếu tố đã góp phần tạo nên thành tích tương đối tốt của Việt Nam trong
cuộc chiến chống COVID-19.
Một điểm đáng chú ý hiếm
khi được cả báo chí trong và ngoài nước nhắc đến khi phân tích chiến lược của
Việt Nam trong đối phó với đại dịch COVID-19 là Chính phủ Việt Nam chưa có
người đứng đầu Bộ Y tế kể từ tháng 11/2019. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã được
giao nhiệm vụ phụ trách Bộ Y tế trong khi vị trí bộ trưởng vẫn bỏ trống, và có
lẽ sẽ vẫn như vậy cho đến khi đại dịch được kiểm soát.
Tuy nhiên, Bộ Y tế và
mạng lưới các trung tâm kiểm soát, phòng ngừa dịch bệnh của Bộ này trên cả
nước, dù có sự lãnh đạo chắp vá và nguồn lực hạn chế, đã chứng tỏ là công cụ
hữu hiệu cho nỗ lực của Chính phủ nhằm ngăn chặn COVID-19. Thành công này xuất
phát từ nhiều bài học mà Việt Nam đã rút ra được trong đợt dịch SARS năm 2003
và sau đó là dịch cúm lợn H1N1 năm 2009. Nhưng sự hoạt động suôn sẻ của chiến
lược y tế công cộng chống lại đại dịch cũng là nhờ những nỗ lực trước đó của
các cựu lãnh đạo Bộ Y tế trong việc xây dựng năng lực phòng chống dịch bệnh của
Việt Nam.
Tuy nhiên, chỉ một Bộ Y
tế có năng lực vẫn không đủ để kiểm soát tình hình, mà toàn bộ Chính phủ phải
hành động nhanh chóng và hiệu quả nhằm huy động mọi nguồn lực sẵn có cho chiến
dịch chống COVID-19 đầy tốn kém này. Ngoài ra, Chính quyền Trung ương và địa
phương cũng phải minh bạch trong giao tiếp với công chúng nhằm giành được sự
tin tưởng vốn rất cần thiết cho quá trình thực thi các lệnh cách ly và giãn
cách xã hội.
Ngoài ra, khác với Trung
Quốc, nơi Internet và mạng xã hội được giám sát và kiểm soát chặt chẽ, cư dân
mạng Việt Nam được tận hưởng một không gian mạng tương đối tự do hơn, với trên
70% dân số truy cập Internet, 58 triệu tài khoản trên Facebook và 62 triệu tài
khoản trên Google (cả Facebook và Google đều bị cấm ở Trung Quốc). Với mức độ thâm
nhập Internet và mạng xã hội như vậy trong xã hội Việt Nam, việc cố gắng che
giấu tình hình thực sự của đại dịch đối với công chúng sẽ là điều không khôn
ngoan, mà thay vào đó là nên thẳng thắn và chủ động như Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã thể hiện trong hơn 3 tháng qua.
Bằng cách nhanh chóng
đưa ra những biện pháp nghiêm ngặt như giãn cách xã hội và đóng cửa biên giới
để chống lại sự lây lan của dịch COVID-19, đồng thời đề xuất một số gói kích
thích nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho người dân và doanh nghiệp Việt Nam,
và thậm chí là giang tay hỗ trợ những quốc gia khác bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh,
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có được sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng Việt
Nam. Người dân Việt Nam dường như là một trong những dân tộc đang có lòng tin nhất
trên toàn cầu về cách thức mà chính phủ đối phó với đại dịch COVID-19.
Giờ đây, khi suy thoái
kinh tế toàn cầu gần như chắc chắn sẽ diễn ra, đồng thời những tác động tiêu
cực do các biện pháp nghiêm ngặt về giãn cách xã hội của Chính phủ đối với nền
kinh tế trong nước dường như không thể tránh khỏi, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
đã giao cho các quan chức chính phủ nhiệm vụ chuyển sang kiểm soát đại dịch
bằng mọi giá và giảm thiểu tác động của nó đối với nền kinh tế và xã hội.
Xét sự thành công tương
đối của Việt Nam trong ngăn chặn COVID-19, mặc dù dân số đông và có mối quan hệ
chặt chẽ với một số nước bị ảnh hưởng nặng nề như Trung Quốc hoặc Hàn Quốc,
việc các quốc gia khác đang phải vật lộn với tỷ lệ lây nhiễm và tử vong cao do
dịch COVID-19 phải học hỏi kinh nghiệm và áp dụng các biện pháp phòng ngừa như
của Việt Nam là điều hợp lý. Tuy nhiên, họ đồng thời cũng nên hiểu rằng chính
những nét đặc thù của chính trị nội bộ ở Việt Nam mới là tác nhân dẫn đến sự
phản ứng hiệu quả đáng ngạc nhiên như vậy từ Chính phủ và người dân Việt Nam
nhằm chống lại đại dịch. Rốt cuộc thì sự chuẩn bị lâu dài và đầy đủ, trách
nhiệm của các quan chức cấp cao ở cả trung ương lẫn địa phương, cùng với sự
minh bạch trong việc truyền đạt các biện pháp nghiêm ngặt và thường là khó khăn
như giãn cách xã hội và cách ly sẽ luôn có tầm quan trọng hàng đầu trong cuộc
chiến chống COVID-19, hoặc bất kỳ dịch bệnh truyền nhiễm nào trong tương lai./.
Hoa Chanh
Sau đại dịch này mới thấy chế độ XHCN ưu việt hơn rất nhiều chế độ TBCN
Trả lờiXóa