Tự do ngôn luận là
quyền chính đáng, khát vọng chân chính và nhu cầu của con người. Việc bảo đảm
tự do ngôn luận là một trong những thước đo thể hiện sự văn minh, ưu việt của
thể chế chính trị. Nhận thức sâu sắc điều đó, nhiều năm qua, Việt Nam đã
kiên trì, nỗ lực thực hiện các giải pháp để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự
do ngôn luận cho người dân.
Nói đến quyền tự do của ngôn luận, không thể không nhắc đến một
sự kiện đáng chú ý cách đây 74 năm. Sau khi chính thức tuyên bố thành lập chính
phủ cách mạng công nông với thể chế chính trị là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Quốc hội khóa 1 nước ta đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên ngày 9/11/1946,
trong đó điều 10 hiến định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do
xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”. Không ngẫu nhiên mà khi hiến định 5 quyền
tự do cơ bản đó của công dân, quyền tự do ngôn luận được xếp ở vị trí đầu tiên.
Bởi Chính phủ cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã sớm nhận
rõ tầm quan trọng của việc bảo đảm tự do ngôn luận cho công dân là cơ sở để mở
rộng, phát huy vai trò làm chủ của người dân và khơi nguồn sức mạnh ý chí, trí
tuệ của mọi tầng lớp nhân dân phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Điểm đáng nói là Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã hiến định quyền tự do ngôn luận cho công dân sớm hơn trước 2 năm so
với bản Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948. Điều đó
thêm một lần khẳng định lịch sử lập hiến Việt Nam gắn liền với lịch sử hiến
định quyền tự do ngôn luận của công dân, qua đó thể hiện tinh thần nhất quán
của Đảng, Nhà nước Việt Nam là luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận
cho người dân. Nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân được thực
hiện trong cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành luật Tiếp cận
thông tin và luật Báo chí. Trong đó, điều 3 luật Tiếp cận thông tin quy
định: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực
hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ;
việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân.
Điều 11 luật Báo chí năm 2016 cũng có những quy định cụ thể để bảo đảm quyền tự
do ngôn luận, đó là công dân được quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước
và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân.
Như vậy, về mặt pháp lý, nước ta đã xây dựng những chính sách
phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được thực hiện quyền tự do
ngôn luận của mình trong cuộc sống.
Cần nhận thức và thực thi đúng quyền tự do ngôn luận
Bấy lâu nay, khi nói
đến quyền tự do ngôn luận, một số người suy nghĩ rằng, tự do ngôn luận là được
quyền tự do nói năng, phát ngôn, bình luận, chia sẻ, phát tán thông tin mà
không chịu bất cứ sự ngăn cản nào; vì thế nếu ai hạn chế quyền nói năng, phát
ngôn, chia sẻ thông tin của người khác là vi phạm quyền tự do ngôn luận của
công dân. Nhận thức như vậy là phiến diện, sai lầm và ngụy biện. Bởi trên
thực tế, không có quyền tự do nào là tuyệt đối, mà chỉ có quyền tự do tương
đối. Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô giới hạn, vô chính phủ sẽ dẫn đến
tình trạng mất kiểm soát, gây ra rối loạn xã hội. Quyền tự do ngôn luận cũng
vậy. Nếu ai cũng nói năng bừa bãi, phát ngôn tùy tiện, chia sẻ thông tin bất
chấp đúng - sai, thật - giả lẫn lộn, không chỉ làm cho xã hội rơi vào tình
trạng rối nhiễu thông tin, mà còn có thể tạo ra những cuộc khủng hoảng thông
tin xã hội một cách trầm trọng, từ đó gây mất ổn định an ninh chính trị.
Những tháng đầu năm 2020, hầu hết các nước trên thế giới bị ảnh
hưởng, lây lan bởi đại dịch Covid-19. Người dân các nước, trong đó có người dân
Việt Nam không chỉ đối mặt với virus nguy hiểm này, mà còn phải đối mặt với vấn
nạn tin giả bị phát tán tràn lan trên mạng xã hội. Phần lớn những tin giả này
xuất phát từ những người lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai
trái, thất thiệt.
Nhận thức rõ vấn nạn tin giả làm rối nhiễu, hoang mang dư luận
xã hội, các cơ quan chức năng ở nước ta đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý
những đối tượng gây ra nạn tin giả trên mạng xã hội nhằm bảo đảm sự trong sạch
của môi trường thông tin, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Thành công của Việt Nam trong công tác phòng, chống, kiểm
soát đại dịch Covid-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, có một
phần bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đã làm tốt công tác
thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân;
đồng thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hàng trăm đối tượng cố tình lợi dụng tự
do ngôn luận để đăng tải, phát tán thông tin sai trái về dịch bệnh trên mạng xã
hội.
Kinh nghiệm thực tiễn ở các nước trên thế giới cho thấy, để bảo
đảm quyền tự do ngôn luận một cách chính đáng cho công dân, nhất thiết phải tạo
ra những khuôn khổ pháp lý, chế tài phù hợp để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý
những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để đăng tải, chia sẻ, phát tán những
thông tin sai trái, xuyên tạc, bịa đặt, gây hoang mang dư luận xã hội, làm méo
mó hình ảnh thể chế, chính quyền.
Tự do ngôn luận khác với ngôn luận tự do. Điều này đã được đại
đa số quốc gia trên thế giới và cả Liên hợp quốc đều lưu ý trong các hiến
chương, đạo luật, quy định về các quyền bảo đảm tự do ngôn luận cho con người.
Điều 11, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp đã quy
định: “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất
của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự
do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy
định của pháp luật”.
Khoản 2, điều 29 Tuyên
ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do
của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm
những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi
hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội
dân chủ cũng được thỏa mãn”.
Quyền đi liền trách nhiệm. Con người muốn có tự do phải hiểu rõ
nghĩa vụ, bổn phận của mình được làm những gì, không được phép làm những gì. Công
dân muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin
thì nhất thiết phải am tường, tuân thủ các quy định pháp luật để thực hiện
quyền tự do của mình nhưng không được gây hại đến quyền tự do của người khác và
tác động tiêu cực đến đạo đức cộng đồng, an ninh trật tự xã hội.
Không thể và không bao giờ có tự do ngôn luận cho những “anh
hùng bàn phím” bày tỏ ngôn luận tự do, vô trách nhiệm, cố tình đăng tải, phát
tán những thông tin sai trái, bịa đặt, ăn không nói có, đổi trắng thành đen,
xuyên tạc truyền thống lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, bôi nhọ anh hùng
dân tộc, phỉ báng chính quyền, mà thực chất là thông qua mưu đồ sử dụng chiêu
bài tự do thông tin, tự do ngôn luận để lèo lái dư luận theo chiều hướng tiêu
cực, mục đích đen tối và tạo ra một góc nhìn sai trái về Đảng, Nhà nước và chế
độ XHCN ở Việt Nam.
Chủ lực
Nhiều người lầm tưởng rằng, dân chủ, tự do có nghĩa là muốn làm gì hay nói gì cũng được, tùy thích. Tuy nhiên, những hành đó đã và đang trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp tay cho bọn phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sự bình yên của đất nước. Những kẻ ngông cuồng, những người phát ngôn sai trái cần được nghiêm trị theo pháp luật.
Trả lờiXóaTự do ngôn luận không có nghĩa là muốn nói gì, phát ngôn gì cũng được. Kể cả nơi được cho là tự do nhất là nước Mỹ, nhưng phát ngôn mà ảnh hưởng đến an ninh nước Mỹ, đến quyền lợi nước Mỹ thì cũng sẽ bị tống giam.
Trả lờiXóaChắc chắn là như vậy.
Trả lờiXóa